Với cuộc chiến Iraq, người Mỹ chỉ là người khách tự mời và chưa bao giờ muốn tự mình từ giả. Cho đến phút chót, mặc dù Tổng Thống Obama đã nhiều lần hứa hẹn lực lượng Mỹ sẽ hồi hương, và ngay cả với thỏa ước chính quyền Iraq đã ký với chính quyền George W. Bush trong năm 2008, các tư lệnh quân lực Hoa Kỳ vẫn tiếp tục vận động hành lang và Hoa Thịnh Đốn vẫn liên tục thương thuyết hầu để lại phía sau từ 10.000 đến 20.000 quân nhân trong vai trò cố vấn và huấn luyện viên.
Chỉ sau khi chính quyền Iraq nhất quyết chối từ thỏa ước đặt quân lực Mỹ ngoài thẩm quyền tài phán của nước chủ nhà, người Mỹ mới bắt đầu rời Iraq. Chỉ lúc đó các quan chức hàng đầu của Mỹ mới ca ngợi điều trước đó họ không bao giờ muốn: chấm dứt sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ ở Iraq để đánh dấu một kỷ nguyên “thành tựu.”[1] Họ cũng bắt đầu ca ngợi sự triệt thoái khỏi Iraq như một thắng lợi, và quân lực Mỹ, theo lời của T T Obama, đã ra đi với “đầu ngẩng lên cao.”[2]
Trong buổi lễ hạ cờ cuối cùng ở Baghdad, rõ ràng dành cho khán giả quốc nội, với sự hiện diện đông đủ của giới báo chí truyền thông Hoa Kỳ, nhưng vắng mặt các quan chức Iraq và giới truyền thông địa phương, Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta đã hân hoan tuyên bố: người Mỹ đã đạt được“thắng lợi cuối cùng.”[3] Panetta đảm bảo với các quân nhân rời Iraq: họ là “những binh sĩ đằng sau các tiến bộ lớn lao”[4] và họ có thể hãnh diện rời Iraq “vững tin sự hy sinh của các bạn đã giúp người dân Iraq bắt đầu một trang sử mới, khỏi nạn chuyên chế và đầy hy vọng một tương lai thịnh vượng và hòa bình.”[5] Kế đó, trong một cuộc viếng thăm Trung Đông, khi nói đến cái giá nhân sự của cuộc chiến, ông nói thêm “tôi nghĩ cái giá phải trả quả thật rất xứng đáng.”[6]
Và sau đó, các binh sĩ cuối cùng đã thực sự “trở về với gia đình”[7]– nếu chúng ta định nghĩa “gia đình” đủ rộng rãi để bao gồm không những các căn cứ ở Hoa Kỳ, mà cả những doanh trại quân sự ở Kuwait, và những nơi khác trong vùng vịnh Ba Tư, và không sớm thì muộn ở Afghanistan.
Vào ngày 14-12-2011, tại Fort Bragg, North Carolina, Tổng Thống Obama và phu nhân đã nhiệt liệt đón mừng các cựu quân nhân thuộc Sư Đoàn Dù 82 (82nd Airborne Division) và một số đơn vị khác. Với mũ lưỡi trai mầu xanh xinh đẹp, các binh sĩ đã hoan hô người đã có lần gọi cuộc chiến của họ là “ngu ngốc” (dumb).
Đã hẳn, vì nhu cầu vận động tuyển cử 2012, T T Obama giờ đây cũng đã nói đến thành công ở Iraq, đến những lợi lộc, đến niềm hãnh diện của Tổng Thống ở quân đội, đến quốc gia ghi ơn các chiến sĩ, đến các thành quả to lớn và những cam go “các chiến sĩ tinh nhuệ nhất trong lịch sử thế giới” đã gặt hái hay chịu đựng, cũng như những hy sinh của “các thương binh, tử sĩ”.
Obama đã khen ngợi “thành quả phi thường đã thai nghén trong chín năm,” và minh họa sự ra đi của họ bằng những lời lẽ đầy lý tưởng: ” Thực vậy, mọi điều quân đội Hoa Kỳ đã làm ở Iraq — chiến đấu, thương vong, xây dựng, huấn luyện và đối tác — tất cả đã đưa đến giờ phút thành công hôm nay…Chúng ta đang để lại phía sau một Iraq đầy đủ chủ quyền, ổn định và tự túc, với một chính quyền đại diện do chính người dân bầu chọn.”[8]
Và các đề tài — “lợi lộc” và “thành công”, cũng như “hãnh diện và tri ân” người Mỹ luôn dành cho giới quân nhân — đã được thu thập bởi các cơ quan truyền thông và các bình luận gia “luôn theo quân đội đến tận tiền tuyến.”[9]
Cùng lúc, các tin tức và tường trình của báo chí bên ngoài đều ghi nhận “Iraq đang rơi vào một địa ngục phe phái mới[10], nhen nhúm bởi lực lượng quân sự do Hoa Kỳ xây dựng, phần lớn thuộc phái Shiite, trên một lãnh thổ số thu nhập từ dầu lửa may lắm cũng chỉ bằng thời Saddam Hussein, trong một thủ đô hiện chỉ có điện vài giờ mỗi ngày, với các cuộc tấn công và bom mìn tự sát từ các nhóm liên hệ với al-Qaeda (không hiện diện trước năm 2003), ngay cả khi ảnh hưởng của Iran ngày một gia tăng và Hoa Thịnh Đốn luôn ái ngại.
BINH SĨ TRONG XÃ HỘI TIÊU THỤ
Quả thật, nếu bạn tìm kiếm các chiến thắng rẻ tiền trong cuộc chiến tốn kém gần 1.000 tỉ USD, lần nầy các nhà ngoại giao Hoa Kỳ — như các phóng viên và các nhà bình luận mô tả — đã không chen lấn lên trực thăng trên nóc tòa đại sứ giữa cảnh hỗn loạn và đốt hàng thùng USD. Nói một cách khác, đây không phải là Việt Nam và, như mọi người đều biết, đó là chiến bại. Trong thực tế, như nhiều bài viết đã minh chứng, vì không tìm được từ thích hợp, nhiều người đã tạm gọi cuộc triệt thoái lần nầy của Mỹ là một thành tích tuyệt vời của kỷ thuật ngược chiều, xứng đáng với một quân đội vô địch của hành tinh.
Ngay Tổng Thống Obama cũng đã phải ghi nhận. Xét cho cùng, sau khi đã chuyển vận một số lớn tiền của, vật dụng, vũ khí của xứ Mỹ qua Iraq, quá trình triệt thoái cũng không phải một chuyện đơn giản. Khi quân Mỹ bắt đầu tháo gở 50 căn cứ đã xây dựng trước đây ở Iraq với số tổn phí nhiều tỉ USD, người Mỹ đã bỏ lại phía sau một số trang bị không còn cần thiết, trị giá khoảng 580 triệu USD. Tuy vậy, họ cũng đã tìm cách chuyển vận đến Kuwait, các cơ sở đóng quân trong vùng Vịnh Ba Tư, Afghanistan, và ngay cả các thành phố nhỏ ở Mỹ, hơn hai triệu trang thiết bị, từ áo giáp Kevlar cho đến những vật dụng vặt vãnh khác. Chúng ta đang nói tới khoảng trên 20.000 xe vận tải đầy quân trang, quân dụng.
Không có gì đáng ngạc nhiên. Xuất thân từ một xã hội tiêu thụ, quân lực Hoa Kỳ đã quen với loại chiến tranh cồng kềnh, nặng về tiêu thụ, và vì vậy, trên căn bản thuần thương mãi, triệt thoái khỏi Iraq là một quá trình mang tính thời đại. Chúng ta cũng không nên quên những chiến lợi phẩm giới quân sự mang theo, kể cả một kho tàng dữ liệu đồ sộ của Lầu Năm Góc – dấu tay (thumbprints), và phân hình giác mạc (retina scans) của lối 10% dân số Iraq. Một dự án tương tự cũng đang diễn tiến ở Afghanistan.
Nói đến thành công, Hoa Thịnh Đốn còn mang về nhiều hơn thế. Xét cho cùng, người Mỹ còn có kế hoạch duy trì một tòa đại sứ khổng lồ ở Baghdad, với một nhân số từ 16.000 đến 18.000, kể cả một lực lượng lối 5.000 lính đánh thuê do các nhà thầu an ninh tư nhân cung cấp — như Triple Canopy trong một hợp đồng trị giá 1,5 tỉ USD với Bộ Ngoại Giao.
Riêng trong năm 2012, Bộ Ngoại giao cũng đã có kế hoạch chi tiêu lối 3,8 tỉ USD, một tỉ trong số nầy để tài trợ chương trình huấn luyện cảnh sát đang bị chỉ trích nặng nề, nhưng cũng chỉ 12% đươc dành cho cảnh sát Iraq. Nói một cách khác, cả một kế hoạch mới cho kỷ nguyên hậu chiến đã được để lại phía sau.
Tuy nhiên, tạm quên đi những mỹ từ và thuật ngữ, nếu chỉ cần một thước đo chiều sâu sự sụp đổ của Hoa Kỳ trong vùng trung tâm dầu lửa của hành tinh, bạn chỉ cần lướt qua phương cách đơn vị cuối cùng của quân lực Mỹ đã triệt thoái khỏi Iraq. Theo Tim Arango và Michael Schmidt của New York Times, cuộc triệt thoái đã diễn ra lúc 2 giờ 30 sáng, trong bóng đêm dày đặc. Không một trực thăng trên nóc Tòa Đại Sứ, chỉ có 110 xe vận tải khởi hành trong đêm tối, từ Căn Cứ Contingency Operating Base Adder. Ngày hôm trước, cũng theo các phóng viên New York Times, các thông dịch viên của đơn vị đã được chỉ thị gọi điện cho các quan chức chính quyền địa phương và các lãnh tụ Hồi Giáo thân cận thường được tham khảo về các kế hoạch tương lai, tựa hồ như mọi chuyện sẽ tiếp diễn bình thường trong những tuần lễ sắp tới.
Nói một cách khác, người Iraq, sáng hôm sau thức dậy, sẽ hiểu được các đối tác nước ngoài đã ra đi không một lời giã biệt. Thêm một bằng chứng về tình hữu nghị và tương tín người Mỹ dành cho các “đồng minh địa phương”. Sau chiến dịch Gây Sốc và Kinh Hoàng, chiếm đóng Baghdad, Sứ Mệnh Hoàn Tất, bắt giữ, xử lý và hành hình Saddam Hussein, sau những hình ảnh vô nhân đạo ở Abu Ghraib và cảnh xương rơi máu đổ của nội chiến, sau chiến dịch tăng quân và phong trào “Thức Tỉnh của phái Sunni”[11], sau các tài khoản tái thiết chệch đường, sau các cảnh tượng bắn giết và chết chóc, giới quân sự Hoa Kỳ đã lặng lẽ ra đi trong đêm tối không một lời giả biệt.
Tuy nhiên, nếu bạn muốn tìm một vài từ thích hợp để mô tả tình hình thực tế, một vài từ kém cay nghiệt hơn những gì đang lan truyền — ”rã đám,” “tán lọan”,và “chiến bại”[12]– có lẽ là những từ trung thực nhất. Giới quân sự — của quốc gia tự nhận là siêu cường vô song thế giới, cấp lãnh đạo đã có lần xem sự chiếm đóngTrung Đông là chìa khóa của chính sách toàn cầu nay mai, và các doanh trại quân sự dài lâu được hoạch định và thiết kế cho nhiều thế hệ tương lai — đã buộc lòng phải cuốn gói ra đi. Thực tế đó quả thật đáng kinh ngạc và phủ phàng.
Đối diện với những gì đã xẩy ra ở Iraq, bạn sẽ hiểu: bạn đang sống trên một hành tinh mới.
THẤT BẠI KÉP
Thực vậy, xâm lăng Iraq là cuộc xâm-chiếm-trở-thành-chiến-tranh-chống-du-kích-trở-thành-tai-họa. Cuộc chiến thứ hai, khởi đầu trước và hiện còn tiếp diễn, có thể trở thành một tai họa lớn hơn. Cho đến nay còn ít tốn kém về số thương vong và ngân khố Mỹ, cuộc chiến Afghanistan đang đe dọa trở thành thất bại mang tính quyết định hơn là cuộc chiến Iraq, mặc dù các lực lượng đối đầu với người Mỹ ở Afghanistan đã được vũ trang kém hơn, và gồm nhiều bộ tộc thiểu số tương đối yếu kém hơn.
Với một công trình vĩ đại — xây dựng một hạ tầng cơ sở chiếm đóng quân sự cũng như trang bị và tiếp liệu một lực lượng quân sự khổng lồ năm nầy qua năm khác, cuộc chiến Iraq vẫn không thể sánh với những gì người Mỹ đã phải làm ở Afghanistan. Một ngày nào đó, quyết định xâm lăng, chiếm đóng, xây dựng hơn 400 căn cứ quân sự, tăng cường trên 60.000 quân, với rất nhiều nhà thầu, nhân viên tình báo, các nhà ngoại giao, các viên chức dân sự, và áp lực buộc chính quyền địa phương dành cho Hoa Thịnh Đốn quyền trú đóng lâu dài, sẽ được xem như những hành động điên rồ của Hoa Thịnh Đốn không còn khả năng đo lường giới hạn quyền lực của chính mình trên thế giới.
Đề cập đến bài học kinh nghiệm: sau khi đã tận mắt chứng kiến sự thất bại thảm hại trong cuộc chiến lớn ở lục địa Á châu cách đây hơn ba thập kỷ, nhà cầm quyền Hoa Kỳ một cách nào đó đã tự thuyết phục là không có gì ở ngoài tầm với đối với quyền lực quân sự của “siêu cường duy nhất.” Và họ đã quyết định gửi hơn 250.000 quân đến hai chiến trường nằm sâu trong lục địa Á-Âu. Kết quả là đã viết thêm một chương mới vào lịch sử thất bại của Hoa Kỳ — lần nầy là một cường quốc dù đầy tham vọng nhưng không những đã suy nhược mà khả năng tưởng tượng cũng yếu kém hơn rất xa so với cấp lãnh đạo trong kỷ nguyên Việt Nam.
Bạn có thể nghĩ, sau một thập kỷ chứng kiến một thất bại kép, lần nầy người Mỹ có thể sẽ gấp rút triệt thoái. Tuy vậy, kế hoạch triệt thoái quân tác chiến khỏi Afghanistan cũng chỉ được dự liệu hoàn tất trước 31-12-2014, để lại phía sau hàng nghìn cố vấn, huấn luyện viên, và lực lượng đặc biệt. Và chính quyền Obama, dù với những mỹ từ thông thường, vẫn còn cực lực thương nghị với chính quyền Hamid Karzai về một thỏa ước cho phép người Mỹ đồn trú ở Afghanistan trong nhiều năm sắp tới. Và, cũng như ở Iraq trong những năm 2010 và 2011, các tư lệnh Mỹ cũng đang công khai vận động hành lang cho một thời biểu triệt thóai chậm hơn rất nhiều.
Một lần nữa, cũng như ở Iraq, đối diện với thực tế hiển nhiên, ngôn từ chính thức vẫn không thể nào lạc quan hơn. Trong thưc tế, giữa tháng 12-2011, Bộ Trưởng Quốc Phòng Leon Panetta đã nói với binh sĩ ngoài tiền tuyến: họ đang chiến thắng. Các tư lệnh mặt trận cũng tiếp tục rêu rao tương tự, chẳng hạn, đang có nhiều tiến bộ và thắng lợi, cũng như địa vị của Taliban trong các trung tâm Pashtun miền Nam Afghanistan ngày một suy yếu, do nạn lụt cũng như đợt tăng quân và các cuộc bố ráp ngày đêm, liên tục và thành công, bởi các lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, thực tế an ninh ở Afghanistan vẫn rất u ám đối với người Mỹ — ngay từ ngày đầu, cuộc chiến đã đánh thức lực lượng Taliban, một phong trào với rất ít hậu thuẩn trong quần chúng.
Điển hình nhất, gần đây LHQ đã đi đến kết luận, trái với thẩm định của NATO, các biến cố liên hệ đến an ninh trong 11 tháng đầu năm 2011 đã gia tăng 21% so với cùng kỳ năm 2010.
Trong một chiều hướng tương tự, tài nguyên vẫn tiếp tục được rót vào nổ lực không ngừng – xây dựng và huấn luyện các lực lượng an ninh. Gần 12 tỉ USD đã được dành cho dự án trong năm 2011 và một kim ngạch tương đương trong năm 2012. Tuy vậy, các lực lượng an ninh vẫn chưa thể hành quân độc lập, cũng như luôn chiến đấu thiếu hữu hiệu, trái ngược với phe Taliban. Cảnh sát và binh sĩ Afghanistan tiếp tục đào ngũ hàng loạt và vị tướng Mỹ phụ trách chương trình huấn luyện trong năm rồi đã cho biết: muốn có đôi chút cơ may thành công, chương trình cần được tiếp tục cho đến cuối năm 2016 hay 2017. Đó là chưa nói đến một chính quyền Afghanistan nghèo túng hoàn toàn không có đủ khả năng tài trợ các lực lượng đang được thiết lập giúp họ.
Phe Taliban, phần lớn người Pashtun, cũng như bất cứ lực lượng du kích truyền thống nào khác , luôn tránh né trước sức mạnh quân sự áp đảo của một đại cường, tuy vậy, rõ ràng vẫn kiểm soát được khu vực nông thôn miền Nam, và trong năm rồi, các hành vi bạo động đã lan tràn sâu vào phía Bắc không thuộc Pashtun.
Và nếu các lực lượng Hoa Kỳ ở Iraq đã không thể tin tưởng ở các đối tác địa phương khi triệt thoái, người Mỹ ở Afghanistan sẽ có nhiều lý do hơn để âu lo e ngại. Người Afghanistan, trong đồng phục cảnh sát hay quân nhân — một số do người Mỹ hoặc NATO huấn luyện, một số là du kích quân Taliban trong đồng phục mua ở chợ đen — thường quay súng bắn vào các lực lượng được xem như “đồng minh”, một sự kiện thường được gọi “bạo lực xanh lợt trên xanh đậm” (green-on-blue violence). Chẳng hạn, vào cuối năm 2011, một binh sĩ Afghanistan đã bắn chết hai quân nhân Pháp. Trước đó không lâu, vài binh sĩ NATO đã bị thương khi một người trong đồng phục quân nhân Afghanistan đã xả súng vào họ.
Trong lúc chờ đợi, quân đội Mỹ đang bắt đầu rút bớt; đồng minh NATO không vững chắc; và Taliban, dù đang gặp nhiều thử thách cam go, chắc hẳn đang cảm thấy thời cơ đang nghiêng về phía họ.
LỆ THUỘC VÀO LÒNG TỐT NƯỚC NGOÀI
Mặc dù với sự hiện diện của vài thành phần có thể yếu đuối, không ai có thể nghi ngờ tinh thần kiên trì của phe Taliban sẽ giúp họ chiến thắng trước uy lực quân sự của siêu cường thời đại. Tuy vậy, thực tế đó không mấy ảnh hưởng đến sự khả dĩ sụp đổ của cuộc chiến Afghanistan. Nếu bạn muốn xét đoán trình độ điên cuồng của cuộc chiến và đo lường tình trạng rệu rã trong uy quyền toàn cầu của Hoa Kỳ, bạn chẳng cần phải lưu ý đến chính Afghanistan.Thay vào đó, bạn chỉ cần quan tâm đến các tuyến đường tiếp liệu đi đến nước nầy.
Xét cho cùng, Afghanistan là một xứ nằm sâu trong lục địa Trung Á. Hoa Kỳ tọa lạc cách xa hàng nghìn dặm. Không một hải cảng kiêm căn cứ quân sự tương tự Vịnh Cam Ranh ở Nam Việt Nam trong thập kỷ 1960, để tiếp nhận hàng tiếp liệu và vũ khí.
Đối với Hoa Thịnh Đốn, nếu du kích quân Afghanistan chỉ cần chiến đấu với chút ít quân trang quân dụng trên lưng, quân đội Mỹ lại khác. Từ thức ăn cho đến áo giáp che thân, từ vật liệu xây cất đến vũ khí đạn dược, quân đội Mỹ luôn cần đến một hệ thống tiếp liệu khổng lồ và tốn kém. Quân lực Hoa Kỳ tiêu thụ nhiên liệu không khác một bợm ghiền núc rượu: tiêu thụ hơn 20 tỉ USD ở Afghanistan và Iraq mỗi năm, và đó mới chỉ là chi phí cần thiết cho các máy điều hòa không khí.
Để có thể hoạt động hữu hiệu, quân đội Mỹ phải trông cậy vào những con đường tiếp vận ngòng ngoèo dài hàng nghìn dặm. Chính vì vậy, Hoa thịnh Đốn không thể là trọng tài của chính số phận riêng mình ở Afghanistan, mặc dù không mấy ai lưu ý tình thế nầy trong nhiều năm trước đây.
Trong tất cả các cuộc chiến không thực tế một đế quốc đang suy tàn cần theo đuổi, Afghanistan là cuộc chiến thiếu thực tế nhất. Đối với Liên Bang Xô Viết trước đây, “vết thương rĩ máu”, từ ngữ thường được Mikhail Gorbachev sử dụng, ít ra cũng chỉ nằm gần kề bên cạnh. Đối với gần 90.000 quân Mỹ hiện nay ở Afghanistan, 40.000 quân của đồng minh NATO, và hàng nghìn nhà thầu tư nhân, nhu yếu phẩm, quân trang, quân dụng dự trữ cần thiết cho chiến tranh chỉ có thể đến theo ba ngã: 20% qua đường hàng không, dĩ nhiên quá tốn kém; khoảng 1/3 bằng đường bộ, ngắn và rẻ nhất, qua cảng Karachi thuộc Pakistan, bằng xe vận tải hay hỏa xa phía Bắc, kế đó bằng xe tải xuyên qua đồi núi ngoằn ngoèo chật hẹp; và có lẽ 40% vật dụng, ngoài vũ khí đạn dược, qua Mạng Lưới Phân Phối Phía Bắc (Northern Distribution Network – NDN).
Mạng lưới NDN mới được phát triển toàn bộ vào đầu năm 2009, khi Hoa Thịnh Đốn cuối cùng đã hiểu rõ Pakistan đang kiểm soát một vòng vây thắt chặt tiềm năng chiến tranh của Mỹ. Bao gồm ít ra 16 quốc gia và mọi hình thức chuyển vận có thể tưởng tượng được, hệ thống NDN trong thực tế gồm ba con đường, hai trong ba xuyên qua Liên Bang Nga, vận hành như một “cái phễu” chuyển mọi thứ qua “cổ chai Uzbekistan” độc tài và thối nát.
Nói một cách đơn giản, để điều hành cuộc chiến, Hoa Thịnh Đốn đã tự buộc mình phải lệ thuộc vào lòng tốt của các xứ ngoài — trong trường hợp nầy, Pakistan và Liên Bang Nga. Đối với một siêu cường hay đại cường đang lên, quan hệ thân thiện với các xứ khác, không nhất thiết là đồng minh tự nhiên, là một việc; khi siêu cường hay đại cường đang tuột dốc , đó là một chuyện hoàn toàn khác. Lãnh đạo Liên Bang Nga đã nhiều lần lên tiếng cảnh cáo khả năng sử dụng tuyến đường phía Bắc nếu Hoa Kỳ tiếp tục làm mếch lòng Nga qua việc thiết trí hệ thống tên lửa phòng vệ tương lai.
Tuy nhiên, bi kịch tâm lý trước mắt của cuộc chiến Afghanistan tùy thuộc ở Pakistan. Nơi đây, động thái tiếp liệu ồ ạt các kho hàng ven đường đã là một phỉ báng thóa mạ lớn. Chẳng hạn, trong năm 2008, 12% trong tổng số tiếp liệu trên tuyến chuyển vận từ Karachi đến căn cứ Bagram Air Base đã bị thất thoát. Trong một vụ cảnh sát trưởng ở Karachi đã gọi là “mẹ của các vụ biển lận”[13], 29.000 tấn hàng tiếp liệu của Hoa Kỳ đã thất thoát sau khi đã được bốc dở xuống cảng Karachi.
Trong thực tế, toàn bộ hệ thống tiếp liệu — cùng với các thỏa ước bảo vệ an ninh địa phương và hối mại nhiều nhóm trực thuộc dọc đường — rõ ràng đã giúp tài trợ và tiếp liệu cho lực lượng Taliban, cũng như tái tiếp liệu các kho hàng các tiệm tạp hóa dọc đường và hổ trợ lãnh chúa các sứ quân và các giới biển lận địa phương.
Mới gần đây, để đáp lại các cuộc không tập của Mỹ gây tử thương cho 24 quân nhân biên phòng , cấp lãnh đạo Pakistan đã buộc người Mỹ phải triệt thoái khỏi căn cứ không quân Shamsi, nơi CIA đang điều khiển các cuộc hành quân bằng phi cơ không người lái dọc biên giới Pakistan, và đóng chặt cửa khẩu biên giới không cho phép hệ thống tiếp liệu của Hoa Kỳ đi qua. Mãi đến hai tháng sau, cửa khẩu biên giới vẫn chưa hoạt động trở lại. Không có các tuyến đường nầy, cuộc chiến Afghanistan của Hoa Kỳ trong trường kỳ đơn thuần không thể tiếp tục.
Mặc dù các tuyến đường đi qua cửa khẩu sớm muộn rồi cũng được khai thông sau nỗ lực tái thương thuyết nghiêm chỉnh quan hệ Hoa Kỳ-Pakistan, thông điệp cũng đã quá rõ ràng. Các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, cũng như ở các vùng dọc biên giới Pakistan, chẳng những đã làm cạn kiệt ngân khố Hoa Kỳ, mà còn phơi bày tính tương đối vô vọng của siêu cường duy nhất. Mười hay ngay cả năm năm trước đây, người Pakistan đơn thuần không bao giờ dám có những hành động tương tự.
Như thực tế đã minh chứng, quyền lực quân sự của Hoa Kỳ quả thực đã mang tính răn đe ấn tượng, nhưng cũng chỉ có thể kéo dài đến hai lần quyết định nổ súng của George W. Bush. Với các hành động đó, Bush đã phơi bày trước thế giới một sự thật: Hoa Kỳ không thể chiến thắng trong các cuộc chiến trên bộ trong những vùng sâu trong lục địa Trung Á, chống lại những kẻ thù nhỏ bé không đáng kể, hay áp đặt ý muốn của mình trên hai quốc gia nhược tiểu trong vùng Trung Đông Nới Rộng. Một thực tế khác cũng đã được phơi bày, nhưng vẫn còn cần thêm thời gian để thẩm thấu: chúng ta không còn sống trên một hành tinh rõ rệt đã cho thấy bằng cách nào có thể chuyển biến lực đòn bẫy của các lợi thế kỹ thuật quân sự choáng ngợp thành một thứ quyền lực khác.
Trong quá trình, cả thế giới đã có thể thấy thực trạng của Hoa Kỳ trước đây: một thứ quyền lực khác của kỷ nguyên Chiến Tranh Lạnh đang ngày một suy giảm. Tình trạng lệ thuộc của Hoa Thịnh Đốn vào lục địa Á-Âu ngày nay đã khá rõ ràng, có nghĩa bất cứ thỏa ước nào đạt được với chính quyền Afghanistan, tương lai của Afghanistan cũng không còn tùy thuộc ở Hoa Kỳ như một siêu cường bá chủ.
Trong thập kỷ vừa qua, Hoa Kỳ đã nhiều lần học được bài học mỗi khi nhắc đến các cuộc chiến trên bộ trong lục địa Á-Âu: chớ nên phát động. Sự suy sụp do thất trận kép đang đến, lần nầy không thể nào có thể rõ rệt hơn. Vấn đề còn lại chỉ là nỗi nhục triệt thoái khỏi Afghanistan sắp tới sẽ diễn ra như thế nào. Lần lửa càng lâu, tai họa đối với quyền lực Hoa Kỳ càng lớn.
Tất cả các điều trên đây cũng chẳng cần phải nhắc lại nhiều lần. Tuy nhiên, khi năm mới 2012 bắt đầu, với mùa bầu cử nay đã rộn rã, thực tế đau đớn càng thêm rõ ràng: Hoa Thịnh Đốn sẽ không còn khả năng chấm dứt cuộc chiến Afghanistan sớm sủa.
Vào cao điểm của khả năng thành công ở Iraq và Afghanistan, các quan chức Hoa Kỳ đã không ngớt âu lo làm sao, như câu nói khinh mạn vào lúc đó, khoác “bộ mặt Afghanistan” hay “bộ mặt Iraq”[14] lên các cuộc chiến Hoa Kỳ. Ngày nay, từ vực thẳm trong vùng Trung Đông Nới Rộng, có lẽ cũng là thời điểm cuối cùng để khoác “bộ mặt Hoa Kỳ” lên các “cuộc chiến Hoa Kỳ”, để có thể thấu hiểu cái giá phải trả cho sự đổ vỡ của giấc mơ đế quốc, cũng như để còn tìm một cách cách ứng xử thích nghi.
Nguyễn Trường
07-01-2012