Tạm quên đi triết
lý chính trị, một số lãnh đạo các nước thường có cùng một nhược điểm. Họ
luôn lãng quên những tai hại chính họ đã gây ra cho quốc gia của mình.
George W. Bush và Tony Blair là những trường hợp điển hình trong những năm
gần đây. Trong địa hạt đối ngoại, chúng ta hiện đang chứng kiến một hiện
tượng tương tự trong chính quyền Obama.
Phương thức lãnh
đạo của Obama diễn tiến như sau. Với một lãnh tụ nước ngoài cần uốn nắn,
Obama thường bắt đầu với đe dọa các hậu quả nghiêm trọng nếu không thần
phục Hoa Thịnh Đốn. Khi gặp phải sự cự tuyệt hay phản kháng, Obama nhanh
chóng lùi bước và xuống giọng vỗ về.
Trong gần nửa đầu
nhiệm kỳ, thành tích của Obama cũng khá đủ để giúp thẩm định phương cách
lãnh đạo của chính ông. TổngThống Hoa Kỳ đã nhiều lần không thành công
trong việc lượng định một cách khách quan sức mạnh và ý chí của người đối
tác.
Dưới mắt người nước
ngoài, khuynh hướng lùi bước trước dấu hiệu đề kháng đầu tiên chứng tỏ
Obama không đủ bản lĩnh và tự tin, những yếu tố thiết yếu phân biệt một
chính khách tài ba với các chính trị gia thông thường. Qua việc theo đuổi
một chính sách đối ngoại thiếu phương hướng vững chắc, qua phương cách ứng
xử thiếu nhất quán đối với lãnh đạo các nước, Obama vô tình đã cung cấp
bằng chứng khẳng định lòng tin của họ về uy quyền ngày một suy sụp của Hoa
Kỳ, và về tính bất khả kháng của khuynh hướng tuột dốc của "siêu cường
duy nhất".
Các vị lãnh đạo đề
kháng và bất khuất trước áp lực của Obama gồm không những các nguyên thủ
quốc gia như Trung Quốc, một siêu cường, và Brazil, một đại cường đang
lên, mà cả Israel, một cường quốc cấp khu vực lệ thuộc sâu xa vào hậu
thuẫn của Hoa Thịnh Đốn, và Afghanistan, một quốc gia khách hàng - chưa kể
phe quân nhân ở Honduras, một xứ bé nhỏ, hoàn toàn trông cậy vào chính
quyền Obama để tồn tại...
LẬP TRƯỜNG BẤT NHẤT
Ở HONDURAS

Qua việc lật đổ
chính quyền dân sự của TT Manuel Zelaya trong tháng 6 năm 2009, các tướng
lãnh Honduras đã thực hiện một cuộc đảo chánh quân sự đầu tiên ở Tây Bán
Cầu trong kỷ nguyên hậu chiến tranh lạnh. Lý do là TT Zelaya đã quyết định
trưng cầu dân ý, không mang tính bắt buộc, để thăm dò khả năng triệu tập
Quốc Hội Lập Hiến, lâm thời sửa đổi hiến pháp vào tháng 11 cùng năm.

Manuel Zelaya
Tố cáo cuộc đảo
chánh như một tiền lệ nguy hiểm ở Tây bán cầu và cần phải lật ngược, T T
Obama lúc đầu nhấn mạnh:
" Chúng tôi không muốn lùi về một quá khứ đen
tối. Chúng tôi luôn đứng về phía dân chủ."
Những lời lẽ đó lẽ
ra đã phải được kèm theo hành động cứng rắn, như triệu hồi vị đại sứ ở
Tegucigalpa (như Bolivia, Brazil, Cuba, Ecuador, Nicaragua, và Venezuela
đã làm), và lập tức ngưng viện trợ cho Honduras. Thay vào đó, ngoại trưởng
Hillary Clinton lại tuyên bố chính quyền Mỹ "hiện nay" (for now)
không chính thức xem việc lật đổ TT Manuel Zelaya như một cuộc đảo chính
quân sự, mặc dù Liên Hiệp Quốc, Tổ Chức Các Quốc Gia Châu Mỹ (Organization
of American States - OAS), và Liên Hiệp Âu Châu, đã hành động như thế.
Bước giật lùi nầy
đã thực sự động viên các tướng lãnh Honduras cũng như phe Cộng Hòa ủng hộ
họ trong Quốc Hội Hoa Kỳ. Không để mất thì giờ, các phe nầy tức khắc hành
động nhằm củng cố cuộc đảo chính trong khi một công ty vận động hành lang
hàng đầu ở Hoa Thịnh Đốn - do Tổng Thống bù nhìn Roberto Micheletti của
phe quân sự mướn - đã tích cực làm việc trong hậu trường.
Những động thái nói
trên tỏ ra đã đủ sức làm suy yếu "quyết tâm đứng về phía dân chủ"
của vị tổng thống đặc trưng qua những bài diễn văn cao thượng và đầy ấn
tượng, nhưng lại thiếu ý chí mạnh mẽ trong đường lối ngoại giao. Về phần
mình, Ngoại trưởng Hillary Clinton lúc đó đã khởi sự nói đến việc giải hòa
vị tổng thống bị truất phế và chính quyền lâm thời Micheletti - xem tổng
thống dân cử và phe đảo chính phi pháp đều chính đáng ngang nhau.
Sau khi hiểu rõ
"đương đầu với Hoa Thịnh Đốn" đang có lợi, các tướng tá
Honduras giữ nguyên lập trường cứng rắn. Và chỉ khi
Hillary Clinton nhấn mạnh Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ sẽ không công nhận cuộc bầu cử tổng thống vào tháng
11-2009 vì nghi ngờ tính tự do, công bằng, và minh bạch, một tháng trước
ngày bầu cử các tướng lãnh mới chịu thỏa hiệp: Họ sẵn sàng cho phép Zelaya
trở lại cương vị tổng thống cho đến hết nhiệm kỳ.
Đó chính là lúc Nghị Sĩ Cộng
Hòa hữu khuynh Jim DeMint, một nghị sĩ hậu thuẫn cuồng nhiệt của các tướng
lãnh Honduras, nhảy vào cuộc chiến. Ông cho biết sẽ chỉ dành sự ủng hộ của
đảng Cộng Hòa cho các ứng viên của Tòa Bạch Ốc vào những vị trí quan trọng
ở Châu Mỹ La Tinh nếu Hillary Clinton đồng ý công nhận kết quả cuộc bầu
cử, bất kể điều gì sẽ xẩy đến cho Zelaya. Hillary Clinton "nhượng bộ"
Kết quả, Obama đã trở thành
một trong hai vị lãnh đạo, bên cạnh tổng thống Panama, trong số 34 thành
viên của OAS, ủng hộ cuộc bầu cử tổng thống Honduras tháng 11-2009. Một
cuộc đổi chác thường tình trong chính trị nội bộ ở Quốc hội Mỹ, dưới mắt
cộng đồng thế giới, hình như đã được nhìn như một bước thối lui mất mặt
của Obama trước thái độ thách thức của các tướng lãnh Honduras.
Một sự kiện bi hài hơn nhiều
khi Obama đối mặt với Benjamin Netanyahu, thủ tướng Israel.
OBAMA VÀ BẪY SẬP
NETANYAHU

Ngày mới nhận chức,
Obama long trọng loan báo sẽ lập tức giải quyết cuộc tranh chấp dài lâu
giữa Israel và Palestine. Khi duyệt lại lộ trình hòa bình 2003 đã được
LHQ, Hoa Kỳ, Nga, và Liên Hiệp Âu Châu ủng hộ, Tòa Bạch Ốc khám phá ra lời
hứa ngừng mọi hoạt động xây cất các khu định cư của chính Israel.

Trong buổi họp đầu
tiên với Netanyahu vào giữa tháng 5-2009, Obama yêu cầu Israel ngưng bành
trướng các khu định cư Do Thái trong vùng West Bank (Bờ Tây) và khu Đông
Jerusalem bị chiếm đóng, hiện đã có gần 500.000 người Do Thái định cư.
Obama đưa ra luận cứ những khu định cư nầy là trở ngại chính cho việc
thiết lập một nhà nước Palestine độc lập. Netanyahu từ chối, lấy cớ vì mối
đe dọa hiện hữu của chương trình nguyên tử của Iran đối với Israel.
Obama đã tự để lọt
vào bẫy. Trong cuộc họp báo chung, Obama liên kết các cuộc hòa đàm giữa
Israel và Palestine với mối đe dọa nguyên tử của Iran, và sau đó, trước sự
hoan hỉ của Netanyahu, dành cho Tehran thời hạn đến cuối năm 2009 để đáp
lại sáng kiến hòa bình của Hoa Kỳ. Bằng cách nầy, viên thủ tướng xảo quyệt
đã gài tổng thống Hoa Kỳ vào thế chấp thuận liên kết hai vấn đề riêng
biệt, không liên hệ với nhau, và để đổi lại, đã chẳng phải nhượng bộ bất
cứ gì.
Gần đây, Netanyahu
phân biệt việc bành trướng đang tiếp diễn các khu định cư hiện hữu với
việc xây cất những khu mới, và không thỏa hiệp gì đối với các khu định cư
hiện hữu. Natanyahu cũng phân biệt rõ ràng giữa Bờ Tây và Đông Jerusalem,
và xem Đông Jerusalem như một phần bất khả phân và vĩnh viễn của thủ đô
Israel, và vì vậy, không bị hạn chế như các khu định cư Do Thái.
Phản ảnh phong cách
của chính quyền Obama, Hillary Clinton đưa ra lời phản kháng mạnh mẽ:
"Không có ngoại lệ nào đối với sự đóng băng các khu đinh cư Do Thái".Tuy
nhiên, đây cũng chỉ là những lời nói trống rỗng chẳng đem lại thay đổi gì
trong thực tế.
Khi Netanyahu công
khai bác bỏ đòi hỏi của Obama ngưng mọi dự án định cư mới ở Bờ Tây, Obama
đã nâng cao điều kiện để gây thêm sức ép: gợi ý thái độ không nhân nhượng
của Israel đã phương hại đến an ninh của Hoa Kỳ.
Ngày 15-10-2009,
sau nhiều lần trao đổi ở hậu trường giữa hai chính phủ, Nayantahu tuyên bố
ông ta đã chấm dứt mọi thương thảo về vấn đề các khu định cư mới với Hoa
Thịnh Đốn. Trong một cuộc gặp mặt với Hillary Clinton sau đó, Natanyahu
lại cho biết sẽ cắt giảm công tác xây cất trong vài dự án định cư. Động
thái nầy đã được ngoại trưởng Clinton nhiệt liệt tán thưởng như một "cử
chỉ thiện chí vô tiền khoáng hậu", và cùng lúc Hillary Clinton kêu gọi
nối lại các cuộc hòa đàm vô điều kiện giữa Israel và Palestine.
Các viên chức trong
chính quyền Palestine kinh ngạc trước sự thay đổi chính sách của Mỹ.
Ghassan Khatib, phát ngôn nhân của chính phủ Palestine, phản ứng: "Tôi
tin Hoa Kỳ đang chấp thuận việc tiếp tục bành trướng các khu định cư. Các
cuộc thương thảo là nhằm chấm dứt sự chiếm đóng; và bành trướng định cư
lại nhằm củng cố sự chiếm đóng."
Tháng 12-2009,
Natanyahu đồng ý tạm ngưng các dự án định cư, nhưng cũng chỉ sau khi chính
quyền Israel đã cho phép xây thêm 3.000 căn hộ chung cư trong vùng Bờ Tây
bị chiếm đóng. Giữ vững lập trường nguyên thủy, người Palestine đã từ chối
tái tục hòa đàm chừng nào phía Israel chưa chịu hoàn toàn ngưng các dự án
định cư.
Ngày 9-3-2010, khi
Phó Tổng Thống Joe Biden vừa đặt chân đến Jerusalem, một chặng đường trong
cuộc vận động của Hoa Thịnh Đốn nhằm kích hoạt tiến trình hòa bình, nhà
cầm quyền Israel loan báo chấp thuận xây thêm 1.600 căn hộ mới ở Đông
Jerusalem. Hành động xấc láo nầy, nhằm nhấn mạnh thái độ thách thức của
Israel đối với Hoa Thịnh Đốn, đã khiến Biden và Obama vô cùng căm tức.
Với Hạ Viện vừa
thông qua dự luật cải tổ y tế ngày 24-3-2010, Obama đang phấn
khởi xúc tiến nghị trình đối nội khi ông gặp Netanyahu trong
ngày 25-3. Obama đưa ra ba điều kiện để giải quyết khủng hoảng: gia hạn
ngưng bành trướng định cư người Do Thái quá tháng 9-2010; chấm dứt việc
tiếp tục các dự án định cư người Do Thái ở Đông Jerusalem; và rút các lực
lượng Do Thái trở về các vị trí trước Second Intifada (Lần Thứ Hai Nổi
Dậy) tháng 9-2000. Sau đó, Obama bỏ đi, để Netanyahu một mình ở lại Bạch
Ốc tham vấn các cố vấn, và hứa chỉ gặp lại Natanyahu nếu "có tiến triển
gì mới". Tuy nhiên, một lần nữa, cũng như với các tướng lãnh Honduras,
những lời lẽ cứng rắn của Obama cũng vẫn chỉ: Nói để Có Nói.
Mục tiêu của động thái nầy
cũng chỉ để người Palestine nối lại thương thảo với Israel, những cuộc
thương thảo họ đã từng cắt ngang khi Israel tấn công Gaza Strip tháng
12-2008. Netanyahu chỉ sẵn sàng nói chuyện chừng nào người Palestine không
đặt điều kiện tiên quyết.
Cuối cùng, Netanyahu đã đạt
những gì mình muốn. Ông ta không đáp ứng những điều kiện tiên quyết của
người Palestine cũng như của chính quyền Obama. Nói một cách ngắn gọn,
chính Obama đã phải chiều theo ý muốn của Netanyahu, hay như người Mỹ
thường nói: Cái đuôi đã vẫy con chó (the tail wagged the dog).
Các quan chức Palestine hẩm
hiu đã hiểu rõ tình thế. Cuối cùng, họ cũng đã phải đồng ý gián tiếp nói
chuyện với chính quyền Netanyahu qua trung gian đặc phái viên Trung Đông
của Hoa Thịnh Đốn, George Mitchell. Khởi đầu ngày 9-5-2010, trong bốn
tháng tiếp theo, Mitchell sẽ cố gắng thu hẹp hố cách biệt lớn lao trong
các điều kiện thành lập một nước Palestine - khi cả hai phía, Israel và
Palestine, giờ đây đều hiểu rõ Obama không đủ can đảm hoặc không muốn gây
sức ép cần thiết đối với Israel.
HOA KỲ-TRUNG QUỐC: XUNG ĐỘT
HAY HÒA DỊU
Các vấn đề của Obama đối với
Trung Quốc (TQ) bắt đầu từ tháng 11-2009, khi, trong chuyến công du đầu
tiên, TQ, trái với sự mong đợi, đã không dành cho Obama một sự tiếp đón
long trọng và nồng hậu.
Quan hệ Hoa Thịnh Đốn-Bắc
Kinh càng lạnh nhạt hơn khi chính quyền Obama bật đèn xanh cho việc bán
một số vũ khí tân tiến cho Taiwan, gồm các tên lửa chống tên lửa, trị giá
6,4 tỉ USD, và Obama tiếp Đức Dalai Lama , lãnh tụ tinh thần Tây Tạng, tại
Tòa Bạch Ốc. TQ xem Taiwan như một tỉnh, và Tây Tạng như một phần lãnh thổ
không thể tách rời của TQ.
Các quan chức cao cấp Hoa Kỳ
mô tả những động thái vừa nói như một phần trong nỗ
lực chung của Obama, nhằm đẩy lùi ảnh hưởng ngày một gia tăng nhanh chóng
của TQ trên toàn thế giới. Bên cạnh những hành động vừa kể, Hoa Kỳ còn
không ngừng gây sức ép, công khai cũng như riêng tư, đối với Bắc Kinh -
đòi hỏi TQ phải tái định hối suất đồng nhân dân tệ. Chính quyền Obama cũng
luôn chú tâm đến điều luật buộc Bộ Ngân Khố phải báo cáo mỗi năm hai lần
bất cứ xứ nào nhào nặn hối suất đơn vị tiền tệ của mình đối với đồng USD
để cạnh tranh bất chính trong mậu dịch quốc tế. Lần báo cáo ngày 15-4-2010
vừa qua - bước đầu cho việc khả dĩ áp đặt các biện pháp chế tài - đã được
các quan chức Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm.
Vào giữa tháng 4-2010, Obama
đã triệu tập hội nghị thượng đỉnh quốc tế về an ninh nguyên tử ở Hoa Thịnh
Đốn. Obama mong muốn càng nhiều nguyên thủ quốc gia tham dự càng tốt. Ít
ra, Tổng Thống Mỹ muốn có sự hiện diện của lãnh đạo bốn cường quốc nguyên
tử với quyền phủ quyết trong Hội Đồng Bảo An LHQ - Anh, Nga, Pháp, và TQ.

Hội Nghị đã đem lại cho Chủ
Tịch Hồ Cẩm Đào một cơ hội và nước cờ hùng mạnh vào đúng lúc Tòa Bạch Ốc
đang chuẩn bị khả năng tố cáo TQ như quốc gia luôn nhào nặn hối suất đồng
nhân dân tệ để thủ lợi trong mậu dịch quốc tế. Họ Hồ đe dọa tẩy chay hội
nghị. Obama lại phải nhượng bộ - trì hoãn ngày công bố báo cáo của Bộ Ngân
Khố. Đổi lại, Hồ Cẩm Đào đã nhận lời tham dự và gặp Obama tại Tòa Bạch Ốc.
Quan hệ căng thẳng giữa Bắc
Kinh và Hoa Thịnh Đốn không hề làm cấp lãnh đạo thực tiễn và táo bạo TQ
ngạc nhiên. Thái độ của họ đã được phản ảnh trong bài bình luận trên nhật
báo chính thức, tờ China Daily, ngay sau ngày Obama tuyên thệ nhận chức:
"Các lãnh đạo Hoa Kỳ không bao giờ e ngại nói rõ tham vọng của nước Mỹ.
Đối với họ, đó là sứ mệnh thiêng liêng dù các quốc gia khác có nghĩ ra sao
cũng mặc. Việc bảo vệ quyền lợi Hoa Kỳ của Obama nhất thiết sẽ va chạm với
quyền lợi của các quốc gia khác".
Họ luôn tin tưởng và hành động như vậy.
Chủ nghĩa thực tiễn đó hoàn
toàn tương phản với thái độ và lập trường của các quan chức Tòa Bạch Ốc -
những người đang tin tưởng một cách ngây thơ: vài bài diễn văn hùng biện
và hoa mỹ, được tổng thống mới soạn thảo kỹ lưỡng và đọc ở thủ đô các nước
ngoài, sẽ có thể phục hồi uy tín của Hoa Kỳ đã bị tơi tả sau tám năm dưới
các chính sách hoang tưởng của George W. Bush.
Obama và các cố vấn thân cận
hình như đã không mấy quan tâm đến kết quả một cuộc thăm dò công luận của
Pew Research Center. Kết quả cuộc thăm dò cho thấy, tiếp theo sau chiến
dịch ngoại giao rầm rộ của TT Obama, trong khi hình ảnh của Hoa Kỳ quả
thật đã được phục hồi khá nhiều ở Âu châu, Mexico, và Brazil, mức cải
thiện lại rất nhỏ nhoi ở Ấn Độ và TQ, không đáng kể ở Trung Đông Á Rập, và
chẳng mấy được quan tâm ở Nga, Pakistan, và Turkey.
Trong không khí phấn
khởi ở Tòa Bạch Ốc,
đội ngũ Obama đã không ý thức đầy đủ các lựa chọn khả thi của các cường
quốc trên thế giới, để đối đầu với sức ép của người Mỹ. Chẳng hạn, họ đã
không thể tiên liệu khả năng và hiệu lực các đe dọa chế tài của Bắc Kinh
đối với các đại công ty Hoa Kỳ đang cung cấp vũ khí cho Taiwan, cũng như
sức đề kháng của TQ đối với áp lực tái định giá đồng nhân dân tệ.
Vài quan sát viên đã quy kết
cách ứng xử của Bắc Kinh là bắt nguồn từ tinh thần quốc gia mạnh mẽ của
người dân và tâm lý của cấp lãnh đạo TQ đang e ngại: một sự nhượng bộ
trước sức ép của người nước ngoài sẽ không được người dân tán thưởng. Dù
sao, lý do thực sự bên sau sức đề kháng của TQ là thực tế kinh tế hơn là
tâm lý quần chúng. Tiếp theo sau Đại Suy Thoái 2008-09, qua hình ảnh sụp
đổ của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers, cấp lãnh đạo TQ đã ghi nhận những
đổi thay mang tính địa chấn trong cán cân kinh tế thế giới đã làm suy giảm
uy quyền của "siêu cường duy nhất", ít ra cũng "duy nhất cho đến
những ngày gần đây".
Trong khi kinh tế Hoa Kỳ và
Âu Châu suy sụp, Bắc Kinh đã nhanh chóng đưa ra các chính sách kích cầu
nội địa và đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở. Các chính sách nầy đã đem lại
một tỉ suất tăng trưởng ấn tượng: 9% GDP năm 2009 và dự kiến 12% cho năm
2010. Nhịp tăng trưởng choáng ngợp của TQ đã khiến các nhà phân tích
Goldman Sachs đưa ra dự báo: Kinh tế TQ sẽ trở thành nền kinh tế số 1
trên toàn cầu vào năm 2027 thay vì 2050.
Lần đầu tiên kể từ sau đệ nhị
thế chiến, không phải Hoa Kỳ mà chính TQ đã lôi kéo phần còn lại của thế
giới ra khỏi tăng trưởng âm của Đại Suy Thoái. Hoa Kỳ bắt dầu hồi phục èo
ọp như một quốc gia con nợ hàng đầu với tổng số nợ tích lũy lên gần 14.000
tỉ USD, và TQ như nước chủ nợ cũng hàng đầu với tổng số ngoại tệ dự trữ
2.400 tỉ.
Các công ty giàu tiền mặt của
TQ ngày nay đang tạo mãi các công ty và tài nguyên thiên nhiên tương lai
từ Úc đến Peru, từ Canada đến Afghanistan - nơi, trong năm rồi, công ty TQ
Congjiang Copper Group đã mua độc quyền khai thác một trong số mỏ có dự
trữ quặng đồng lớn nhất hành tinh, với giá 3,4 tỉ USD, một tỉ trên giá cao
nhất của một công ty luyện kim Tây phương dự thầu.
KARZAI - MỘT ĐE DỌA HAY
KARZAI - MỘT LÃNH ĐẠO THIẾT YẾU

Ngay từ ngày nhận chức tổng
thống, Obama đã không hề che dấu thái độ coi thường đối tác của ông ở
Afghanistan, Hamid Karzai. Để tránh mạng lưới tham nhũng của chính quyền
trung ương Afghanistan, các quan chức cao cấp Hoa Kỳ đã luôn làm việc trực
tiếp với các thống đốc Afghanistan cấp quận và cấp tỉnh. Trong cuộc bầu cử
Tổng Thống 2009, ngay từ đầu, họ đã tỏ rõ lập trường ủng hộ Abdullah
Abdullah - đối thủ của Karzai.
Khi Karzai dùng nhiều thủ
thuật để gian lận phiếu bầu một cách đại trà hầu nắm chắc khả năng tái cử
và làm ngơ trước các khuyến cáo thanh lọc guồng máy hành chánh, Obama
quyết định dùng "gậy" thay vì "cà rốt" để răn đe chế độ
khách hàng. Trong một cử chỉ bi hùng, vào tuần lễ cuối tháng 3-2009,
Obama, sau 26 giờ bay từ Hoa Thịnh Đốn đến Kabul, đã đến đọc một "bài
giảng kéo dài 26 phút" về tình trạng thối nát và bất lực của chính
quyền Karzai. Người lãnh đạo Afghanistan đã không có sự lựa chọn nào khác
hơn là lắng nghe trong lầm lì yên lặng.
Tuy nhiên, sau khi đọc một
mẩu tin trên báo, theo đó một sĩ quan cao cấp Mỹ giấu tên cho biết người
em cùng cha (khác mẹ) Ahmed Wali Karzai, một tay "mua quan bán chức"
ở Kandahar, một tỉnh ở miền Nam, xứng đáng được liệt kê vào danh sách các
đầu nậu buôn bán ma túy cần bỏ tù hay giết bỏ, Karzai mất hết kiên nhẫn.
Vị Tổng Thống Afghanistan,
đang điên giận, đã trả miếng, tố cáo người Mỹ đã cố tình leo thang và mở
rộng cuộc chiến ở Afghanistan, để có lý do ở lại và thống trị vùng Tây Nam
Á. Karzai còn nói thêm: Nếu Hoa Thịnh Đốn tiếp tục gây sức ép, ông rất
có thể sẽ liên minh với Taliban. Trong thực tế, ông đã từng là một tay
gây quỹ quan trọng cho Taliban sau khi phe Taliban chiếm được Kabul vào
tháng 9-1996.
Obama đã phản ứng như ông đã
từng phản ứng trong quá khứ khi phải đối mặt với một thách thức quan
trọng. Obama đã dịu giọng. Từ một tổng thống tay nắm "gậy", ông đã
đổi dạng thành người đang dâng "cà rốt" khi Karzai viếng thăm Hoa
Thịnh Đốn vào đầu tháng 5-2010, một cuộc viếng thăm vào đầu tháng 3, các
quan chức Hoa Thịnh Đốn đã đe dọa trì hoãn vô thời hạn.
Cao điểm o bế Karzai là bữa
tiệc tối do Phó Tổng Thống Joe Biden khoản đãi ở tư dinh. Ít nhất, Karzai
cũng đã phải buồn cười. Trong tháng hai, Biden, giữa buổi tiệc tối tại
dinh Tổng Thống Afghanistan, đã bỏ ngang ra về sau khi Karzai phủ nhận
chính phủ của ông là chính phủ tham nhũng, hay nếu tham nhũng, thì chính
ông mới là người có lỗi.
Mặc dù được tiếp đón ân cần
với thảm đỏ, trong cuộc họp báo chung với Obama, Karzai cũng đã tỏ ra vô
cùng chân thành và can đảm khi mô tả Iran như một "nước anh em, một
nước bạn của chúng tôi".
Cùng một cảm nghĩ, sau đó,
cũng đã được một lãnh đạo khác ở Brazil phát biểu.
BARACK OBAMA VÀ LUIZ INACIO LULA DA SILVA

Kể từ
khi lên làm tổng thống Brazil năm 2003, Luiz Inacio Lula da Silva, khi
cần, đã không ngần ngại thách thức các chính sách của Mỹ. T T da Silva đã
đối đầu với Hoa Thịnh Đốn trong mậu dịch quốc tế (Doha round), thay đổi
khí hậu, và các chế tài liên tục chống lại Cuba.
Tháng
12-2008, da Silva đã chủ tọa cuộc họp 31 quốc gia Châu Mỹ La Tinh và vùng
Caribbean (không có Hoa Kỳ) ở khu du lịch Sauipe, Brazil. Tháng 1-2009,
thay vì đi dự Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới ở Davos, Switzerland, da Silva lại
tham dự Diễn Đàn Xã Hội Thế Giới Thứ Tám (the Eighth World Social Forum)
ở Belem, cửa khẩu của Amazon River.
T T
da Silva chỉ trích phương cách Obama đã làm suy yếu nền dân chủ ở
Honduras. Và mặc dù chính quyền Obama rất phật lòng và chống đối, da
Silva, trong nổ lực ngoại giao cao cấp quốc tế đầu tiên, đã mời tổng thống
Iran, Mahmoud Ahmadinejad, đến thăm Brazil vào tháng 11-2009, để thảo luận
chương trình nguyên tử. Sáu tháng sau đó, da Silva đã viếng thăm Tehran để
đáp lễ - một cuộc công du mang tính lịch sử và gây không ít phiền lòng
cho Hoa Thịnh Đốn.

Hành
động chung với Thủ Tướng Recep Tayyip Erdogan của Turkey, da Silva đã giúp
vực dậy một thỏa ước nguyên tử có sẵn từ tháng 10-2009, và môi giới một
thỏa ước bất ngờ với Ahmadinejad. Iran đồng ý chuyển 1.200 kgs uranium
được làm giàu thấp đến Turkey; để đổi lại, Nga và Pháp sẽ cung cấp 120 kgs
uranium làm giàu lên mức 20% để sử dụng trong lò phản ứng nghiên cứu y
khoa ở Tehran.
Bị
bất ngờ và phật lòng vì sự thành công của Brazil và Turkey trước sự phản
đối của Hoa Kỳ, chính quyền Obama quay trở lại với lập trường của Tòa Bạch
Ốc thời Bush và đòi hỏi Iran phải ngưng chương trình làm giàu nhiên liệu
hạt nhân. Sau đó, chính quyền Obama lại vận động thúc đẩy LHQ thông qua
một gói chế tài mới đối với Iran, tựa hồ như người Brazil và Turkey trước
đó chưa hề đạt được điều gì cụ thể.
Trong
mọi trường hợp, thái độ phủ nhận sự thật của Mỹ, chí ít, cũng mang tính
thiển cận. Cách nhìn phiến diện và hời hợt của Tòa Bạch Ốc hiện nay đã gạt
ra ngoài nhiều sự kiện toàn cầu quan trọng. Ảnh hưởng của các trung cường
(cường quốc cở trung) trên sân khấu chính trị thế giới ngày một gia tăng.
Lãnh đạo của nhóm nầy đã đúng khi nghĩ: họ có thể làm ngơ hoặc tránh né
các yêu sách của chính quyền Obama. Nhìn từ khía cạnh tích cực, họ luôn có
thể chung sức góp phần giải quyết nhiều vấn đề quốc tế và đưa ra nhiều
sáng kiến ngoại giao với nhiều cơ may thành công.
Ngày
nay, từ Afghanistan đến Honduras, từ Brazil đến TQ, các lãnh đạo toàn cầu,
lớn và nhỏ, ngày một chia sẻ cảm giác: chính quyền Obama thường lớn tiếng
nhưng cắn chẳng đau, và mặc dù Hoa Kỳ vẫn còn là một siêu cường, nhưng
không còn là siêu cường duy nhất. Đà suy giảm quyền lực trong "Thế Kỷ
Hoa Kỳ đã bị rút ngắn" (truncated American Century) hiện rất khó lòng
có thể đảo ngược.
THAY
LỜI KẾT LUẬN
Khi
mới nhận chức vào đầu năm 2009, Obama đã thông báo cho các cố vấn đối
ngoại: trong cương vị Tổng Thống, ông sẽ phải đối diện với hai loại vấn
đề. Loại thứ nhất gồm những vấn đề thừa kế từ T T Bush, như Iraq,
Afghanistan, và hình ảnh của Hoa Kỳ trên thế giới. Loại thứ hai là nghị
trình của chính ông cho tương lai.
Đã
hẳn, cũng như bất cứ tổng thống nào khác, để thành công, ngoài yếu tố may
mắn, Obama cũng cần phải biết vận dụng hữu hiệu mọi khả năng và kinh
nghiệm của chính mình và toàn đội ngũ dưới quyền.
Sau
hơn 17 tháng làm tổng thống, với chương trình cải tổ y tế đã được định chế
hóa, và hội nghị thượng đỉnh nguyên tử 47 nước đã hoàn tất, Obama đang có
cơ hội tập trung vào việc thực thi viễn kiến ngoại giao và tự khẳng định
mình trên chính trường quốc tế.
Trong
thực tế, trước đây, Obama cũng đã có dịp xác quyết nghị trình riêng của
chính mình. Chẳng hạn, Obama đã bác bỏ đề nghị của Nga liên quan đến các
hạn chế trong chương trình lá chắn tên lửa, cùng lúc đã thành công trong
việc thương thảo thỏa ước kiểm soát vũ khí với Nga - mặc dù khiêm tốn,
nhưng cũng đã dọn đường cho những quan hệ khả dĩ tốt hơn trong tương lai.
Nói một cách khác, Obama đã chứng tỏ phần nào bản lĩnh của một tổng thống,
trái với hình ảnh một tổng thống yếu mềm dưới mắt người nước ngoài hiện
nay.
Trong
mọi trường hợp, thái độ chờ đợi lãnh đạo các nước ngoài sẽ thỏa hiệp dễ
dàng với nghị trình của Obama - vì Obama, khác với Bush, là một tổng thống
được quần chúng ủng hộ - là ngây thơ, nếu không phải là ảo tưởng. Mỗi quốc
gia đều có quyền lợi riêng của mình.
Đối
với phần đông các tổng thống mới, chính sách đối ngoại thường là kết tinh
của một chuổi dài học tập và trải nghiệm; quá trình có thể kéo dài nhiều
tháng, đôi khi nhiều năm, trước khi quen thuộc với vai trò lãnh đạo thế
giới. Đã hẳn, qua thời gian, T T Obama , cũng như các vị tiền nhiệm, sẽ
ngày một tự tin hơn trong vai trò lèo lái các quan hệ quốc tế. Trong thời
gian qua, Obama cũng đã trải nghiệm nhiều bài học đắt giá về giới hạn của
kỹ năng thuyết phục của chính mình.
Nếu
có một chủ thuyết Obama đang hình thành, đây có lẽ là một chủ thuyết mang
tính thực tiễn nhiều hơn là người tiền nhiệm, tập trung trên các quan hệ
với các đại cường, và với các đề tài như nhân quyền và dân chủ được xếp
vào hàng thứ yếu. Obama đã tạo được khá nhiều thiện chí trên khắp thế giới
sau nhiều năm căng thẳng dưới thời George W. Bush. Tuy nhiên, Obama hình
như chưa vun quén được những quan hệ hữu nghị thân tình với nhiều lãnh đạo
thế giới.
Các
nhà phân tích chính trị thường có thói quen phân biệt giữa lý tưởng và
thực tiển. Nếu cần phải xếp loại, Obama có lẽ thuộc loại thực tiển nhiều
hơn. Obama hiểu rõ quan hệ cá nhân rất quan trọng, nhưng ông cũng hiểu cần
phải luôn tỉnh táo, lạnh lùng khi nói đến quyền lợi quốc gia.
Đối
với một tổng thống xuất thân từ cánh tả tự do của đảng Dân Chủ, quả thật
là một điều đáng lưu ý khi Obama đã theo đuổi một chiến lược đại cường,
rất gần với chiến lược của Kissinger. Obama không mấy tình cảm. Các đề tài
nhân quyền không mấy quan trọng trong chính sách đối ngoại của ông. Hầu
như Obama cũng chẳng mấy quan tâm đến các vấn đề phát huy dân chủ trên thế
giới.
Thỏa
ước với Nga, hội nghị thượng đỉnh về nguyên tử, và nhiều sáng kiến khác,
tuy không mang tính chuyển hóa, hy vọng vẫn là những bước tiến đầu tiên
trong quá trình khẳng định vai trò lãnh đạo thế giới của siêu cường số 1
(dù không còn là siêu cường duy nhất) đối với Barack Obama.
GS Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
03-7-2010
CHÚ THÍCH: Bài viết phần lớn
đã dựa vào tư liệu của Dilip Hiro, tác giả 32 tác phẩm, và sách cuối cùng
nhan đề After Empire: The Birth of A multipolar World.