Những bài cùng tác giả
Tháng
giêng 2009, ngay trong lòng khủng hoảng tài chánh
toàn cầu, giá dầu sụt giảm xuống mức thấp nhất 33
USD một thùng (barrel). Nhiều người trong giới tiêu
thụ được hưởng lợi, một số khác lại phải chịu thiệt.
Hiện
nay, tháng 10-2009, giá dầu lại nhích lên trên 70
USD một thùng. Nhìn chung, tác động cũng không mấy
khác. Đó là lẽ
thường, bởi lẽ văn minh nhân loại đang cơ sở trên
năng lượng dầu khí. Giá dầu thấp đã hẳn được nhiều
người Mỹ xem như một quà tặng trời cho trong khi
đang gây nhiều khó khăn cho các xứ xuất khẩu dầu -
bạn có, thù có, của Mỹ - như Iran, Iraq, Kuwait,
Nigeria, Russia, Saudi Arabia, Venezuela, những nước
với phần lớn GDP lệ thuộc vào xuất khẩu năng lượng. Trong
mọi trường hợp, một thực tế quan trọng cần được ghi
nhớ: dù giá dầu cao hay thấp, năng lượng luôn tác
động sâu sắc đến thế giới chúng ta đang sống; và
thực tế nầy không hề thay đổi vào thời điểm 10-2009
hay 12-2008. Lý do?
Dù giá cao hay thấp, dầu vẫn sẽ tiếp tục là nguồn
cung lớn nhất đáp ứng nhu cầu năng lượng thế giới.
Bất cứ kết quả của việc tranh luận về các nguồn năng
lượng thay thế ra sao, dầu khí vẫn là nguồn năng
lượng số một, chí ít cũng trong nhiều thập kỷ sắp
tới. Theo dự
phóng tháng 12-2008 của Bộ Năng Lượng Mỹ, các sản
phẩm dầu lửa sẽ chiếm 38% tổng số cung năng lượng
năm 2015; hơi đốt thiên nhiên và than đá mỗi thứ
23%. Bách phân năng lượng hóa thạch nói chung sẽ
giảm dần khi các nhiên liệu sinh học và bách phân
các nguồn năng lượng thay thế khác tăng dần. Theo dự
phóng xa nhất của Bộ Năng Lượng, cho đến năm 2030,
năng lượng hóa thạch vẫn còn là nguồn nhiên liệu lấn
át. Khuôn
mẩu nầy cũng phản ảnh trung thực tương lai năng
lượng dự phóng trên toàn cầu trong nhiều thập kỷ
tới. Theo dỏi
chính trị năng lượng toàn cầu, chúng ta có thể hiểu
được nhiều điều đang thực sự diễn tiến trên hành
tinh. Trong hiện tại, giá dầu tương đối thấp dĩ
nhiên bất lợi cho các nhà sản xuất, vì vậy, phương
hại cho một số quốc gia chính quyền Mỹ xem là đối
nghịch như Iran, Russia và Venezuela. Tất cả các xứ
nầy, trong những năm gần đây, đã sử dụng số thu nhập
gia tăng từ dầu xuất khẩu để tài trợ những nỗ lực
chính trị bất lợi cho Hoa Kỳ. Tuy
nhiên, giá dầu hạ cũng có thể gây nhiều khó khăn cho
các đồng minh của Hoa Kỳ như Mexico, Nigeria, và
Saudi Arabia, những xứ có thể phải trải nghiệm nhiều
xáo trộn xã hội và kinh tế khi số thu nhập và các
chi phí công bị sụt giảm. Ngoài
ra, giá dầu thấp còn có tác động bất thuận lợi khác
- làm nản lòng giới đầu tư vào các dự án năng lượng,
như khai thác dầu ngoài biển sâu, cũng như các dự
án khai triển các nguồn năng lượng thay thế như năng
lượng sinh học cao cấp ngoài thực phẩm. Có lẽ
tai hại hơn cả là trong thời kỳ giá dầu sụt giảm, số
đầu tư vào các nguồn năng lượng có thể tái tạo,
không gây ô nhiễm, không gây biến đổi khí hậu, như
năng lượng mặt trời, gió, thủy triều, cũng bị ảnh
hưởng và giảm thiểu. Trong
trường kỳ, giá dầu thấp còn có nghĩa một khi kinh tế
ra khỏi suy thoái, giá dầu sẽ tăng vọt vì khả năng
lựa chọn các nguồn cung năng lượng trong tương lai
sẽ cực kỳ hạn chế. Rõ ràng,
tác động của dầu khí là không thể tránh. Tuy vậy,
khó thể biết được hình thái của ảnh hưởng nầy sẽ ra
sao. Lâm thời, chúng ta có thể đưa ra ba nhận xét
về tương lai của dầu hỏa và ảnh hưởng đối với thế
giới. 1. KHI
GIÁ DẦU SỤT GIẢM
Đã hẳn,
giá dầu xuống thấp nhất rồi sẽ lại gia tăng. Trong
mấy tháng đầu của năm 2009, khi suy thoái kinh tế
toàn cầu đang hết sức nghiêm trọng, số cầu suy giảm
mạnh đã lôi kéo theo giá dầu sụt giảm xuống mức
thấp nhất. Có lẽ cho đến khi số cầu gia tăng trở lại
và số cung toàn cầu giảm thiểu đáng kể, giá dầu khó
thể đạt mức kỷ lục như trong mùa xuân và mùa hè 2008
- 147 USD một thùng. Trong hiện tình, không ai có
thể tiên đoán phải chờ đợi bao lâu hay cho đến lúc
nào. Quả
thật, sự suy giảm trong số cầu đã xuống đến mức đáng
kinh ngạc. Sau khi gia tăng trong suốt mùa hè năm
2008, số cầu sụt giảm vào đầu mùa thu khoảng vài
trăm nghìn thùng mỗi ngày, đưa đến con số sụt giảm
trung bình cho toàn năm 2008 ở mức 50.000 thùng mỗi
ngày. Qua năm 2009, Bộ Năng Lượng dự phóng số cầu
toàn thế giới sẽ giảm đến 450.000 thùng mỗi ngày -
lần đầu tiên trong ba thập kỷ, số dầu tiêu thụ toàn
cầu đã sụt giảm hai năm liên tiếp. Khỏi
phải nói, những sụt giảm trên đây chẳng có gì bất
ngờ. Trong niềm tin số cầu dầu khí trên thế giới sẽ
tiếp tục gia tăng - như đã xẩy ra hàng năm từ sau
lần kinh tế suy thoái 1980 - kỹ nghệ dầu toàn cầu
liên tục gia tăng khả năng sản xuất, ngay cả trong
năm 2009, và không có dấu hiệu thay đổi. Thực vậy,
dưới áp lực mạnh mẽ của chính quyền Bush, Saudi
Arabia hứa hẹn, ngay từ tháng 6-2008, sẽ gia tăng số
sản xuất phụ trội cho đến khi đạt được thêm 2,5
triệu thùng mỗi ngày. Ngày
nay, kỹ nghệ dầu khí hiện đang đối mặt với tình
trạng sản xuất thặng dư trong khi số cầu còn rất yếu
kém vì suy thoái kinh tế. Kết quả: giá dầu sụt giảm.
Ngay cả quyết định ngày 17-12-2008 của các xứ thành
viên OPEC cắt giảm ngạch số sản xuất - 2,2 triệu
thùng mỗi ngày - vẫn không thể nâng cao giá dầu trên
thị trường quốc tế. Theo quốc vương Saudi Arabia,
Abdullah, 75 USD một thùng là giá dầu phải chăng. Câu hỏi
được đặt ra là sự mất quân bình giữa cung và cầu sẽ
kéo dài bao lâu? Các nhà phân tích tin có lẽ cho đến
cuối năm 2009. Vài người khác nghĩ sự phục hồi toàn
cầu thực sự chỉ có thể đến trong năm 2010 hay lâu
hơn nữa. Tất cả đều lệ thuộc cuộc suy thoái hiện nay
trầm trọng và kéo dài bao lâu. Yếu tố
quyết định là khả năng tiêu thụ dầu của Trung Quốc
(TQ). Xét cho cùng, từ 2002 đến 2007, riêng TQ đã
chiếm đến 35% số cầu dầu lửa gia tăng trên thế giới.
Và theo Bộ Năng Lượng Mỹ, TQ sẽ chiếm ít ra 24% tổng
số gia tăng toàn cầu trong thập kỷ tới. Sự gia tăng
trong số tiêu thụ dầu của TQ, phối hợp với số cầu
không ngừng gia tăng của các xứ kỹ nghệ hóa từ lâu
và sự kiện đầu cơ giá dầu tương lai, đã là lý do
khiến giá dầu tăng vọt cho đến mùa hè 2008. Tuy
nhiên, với kinh tế TQ rõ ràng chao đảo, dự phóng
trên đây hình như không còn đứng vững. Nhiều nhà
phân tích nay tiên đoán sự sụt giảm nhanh chóng
trong số cầu dầu hỏa của TQ sẽ khiến khuynh hướng
sụt giảm trong giá năng lượng toàn cầu tăng tốc.
Trong những điều kiện đó, một sự phục hồi trong giá
dầu sẽ khó lòng xẩy ra. 2. KHI
GIÁ DẦU GIA TĂNG
Hiện
nay, thế giới đang thụ hưởng một viễn ảnh tương đối
mới lạ - số cung dầu hỏa toàn cầu thặng dư. Tình
trạng nầy, tuy vậy, hết sức mong manh. Chừng nào giá
dầu còn thấp, các công ty dầu sẽ không có lợi để đầu
tư vào các dự án sản xuất mới, do đó, không tạo được
trang thiết bị hay khả năng sản xuất mới trong khi
hạ tầng cơ sở hiện hữu tiếp tục xuống cấp. Điều nầy
có nghĩa khi số cầu năng lượng bắt đầu gia tăng trở
lại, ngạch số sản xuất sẽ không thể gia tăng tương
ứng. Như Ed Crooks, báo Financial Times, đã gợi ý,
"giá dầu sụt giảm cũng giống như một thứ thuốc
trị đau nhức nguy hiểm, rất dễ bị ghiền: cảm giác dễ
chịu ngắn hạn thường khi phải trả với một giá tai
hại về lâu về dài". Dấu hiệu
suy giảm đầu tư trong kỹ nghệ dầu đã gia tăng nhanh
chóng. Saudi Arabia, chẳng hạn, đã loan báo trì hoãn
bốn dự án năng lượng lớn, tín hiệu một bước giật lùi
quan trọng trong nỗ lực gia tăng sản lượng tương
lai. Trong những dự án bị trì hoãn, người ta đặc
biệt chú ý tới dự án 1,2 tỉ tái khởi động khu dầu
lịch sử Damman, dự án phát triển khu dầu Manifa với
khả năng sản xuất 900.000 thùng mỗi ngày, và dự án
xây dựng các nhà máy lọc dầu ở Yanbu và Jubail.
Nguyên do trì hoãn là do số cầu quốc tế suy giảm.
Kaled al-Buraik, một viên chức công ty Saudi Aramco,
giải thích: "Chúng tôi sẽ gặp các đối tác và thảo
luận với họ về những trạng huống kinh tế mới". Vã
chăng, phần lớn những trữ lượng dầu dễ khai thác
ngày nay đã cạn kiệt; và hầu hết những trữ lượng còn
lại trên thế giới thuộc loại khó khai thác. Những
khu nầy đòi hỏi những kỹ thuật khai thác tốn kém hơn
nhiều, do đó, ít lợi nhuận trong khi giá dầu còn
thấp dưới 70 USD một thùng. Phần chính yếu trong số
nầy là khai thác dầu từ cát sạn - tarsands - ở
Canada, dầu ngoài biển sâu trong Vịnh Mexico, Vịnh
Guinea, và ngoài khơi Brazil. Mặc dù tiềm năng trữ
lượng dầu trong các khu vực nầy rất quan trọng, việc
khai thác chỉ đem lại lợi nhuận khi giá dầu ở trên
mức 80 USD một thùng. Trong những điều kiện đó,
không ai ngạc nhiên khi các đại công ty dầu khí hủy
bỏ hay trì hoãn các kế hoạch khai thác đối với những
dự án mới ở Canada và các khu vực ngoài khơi vừa kể.
Mohamed
Bin Dhaen Al Hamli, bộ trưởng năng lượng United Arab
Emirates, đã đưa ra lời bình luận tại hội nghị kỹ
nghệ dầu hỏa ở London tháng 10-2008: "Giá dầu
thấp rất có hại cho kinh tế thế giới; nhiều dự án
chờ khai thác sẽ được tái thẩm định". Với sự
cắt giảm đầu tư trong kỹ nghệ dầu khí, khả năng đáp
ứng số cầu gia tăng sau khi kinh tế toàn cầu ra khỏi
suy thoái dĩ nhiên sẽ giảm bớt. Lúc đó, tình trạng
hiện nay sẽ thay đổi nhanh chóng đáng ngạc nhiên khi
số cầu gia tăng đuổi theo số cung bất cập trong một
thế giới thiếu hụt năng lượng. Khi tình
trạng nầy xẩy ra, giá dầu sẽ lên cao bao nhiêu sẽ là
điều rất khó tiên đoán, nhưng chắc sẽ gây sốc ở các
trạm xăng. Rất có thể cú sốc năng lượng sắp đến sẽ
không kém cường độ suy thoái kinh tế toàn cầu và giá
năng lượng suy sụp hiện nay. Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ,
trong dự báo gần đây, tiên đoán giá dầu sẽ lên mức
trung bình 78 USD một thùng năm 2010, 110 USD năm
2015, và 116 USD năm 2020. Một số các nhà phân tích
khác còn đi xa hơn. Họ tin mức giá có thể lên cao
hơn và nhanh hơn, nhất là khi số cầu tăng nhanh và
các công ty dầu không nhanh chóng tái khởi động các
dự án hiện đang nằm chờ. 3. TÁC
ĐỘNG CHÍNH TRỊ TRÊN THẾ GIỚI
Sự kiện
giá dầu liên tục gia tăng trong khoảng từ 2003 đến
2008 là hậu quả của sự gia tăng trong số cầu toàn
cầu, cũng như nhận thức kỹ nghệ năng lượng quốc tế
đang gặp khó khăn trong việc khai thác các nguồn
cung mới. Nhiều nhà phân tích đã nói đến số cung
toàn cầu sắp đạt đỉnh điểm trước khi bắt đầu quá
trình tiệm giảm. Tình trạng nầy đã thúc đẩy các quốc
gia tiêu thụ nhiều dầu tìm cách tiếp cận và kiểm
soát càng nhiều nguồn năng lượng nước ngoài càng
tốt, kể cả sự tranh giành gay gắt các hợp đồng năng
lượng ở Phi châu và vùng Vịnh Caspian giữa các công
ty dầu Hoa Kỳ, Âu châu, và Trung Quốc - như Michael
Klare đã đề cập trong tác phẩm Rising Powers,
Shrinking Planet.
Với sự
sụt giảm trong giá dầu và cảm tưởng số cung thặng dư
đang gia tăng, tuy tạm thời, sự cạnh tranh vừa nói
có thể sẽ dịu bớt. Tuy nhiên, sự thiếu vắng cạnh
tranh gay gắt hiện nay không có nghĩa giá dầu không
còn tác động đến chính trị thế giới. Sự thật khác
xa. Trong thực tế, trên nhiều phương diện, giá dầu
thấp vẫn có thể gây xáo trộn quốc tế. Trong khi sự
cạnh tranh giữa các quốc gia tiêu thụ giảm bớt, các
điều kiện chính trị tiêu cực bên trong các xứ sản
xuất càng gia tăng. Số đông
các xứ nầy, như Angola, Iran, Iraq, Mexico,
Nigeria, Russia, Saudi Arabia, Venezuela, lệ thuộc
vào số thu nhập từ dầu xuất khẩu để tài trợ các chi
tiêu công - y tế giáo dục, nâng cấp hạ tầng cơ sở,
trợ cấp thực phẩm và nhiên liệu, và các chương trình
an sinh xã hội. Chẳng hạn, giá năng lượng tăng cao
cho phép nhiều xứ sản xuất giảm bớt số thất nghiệp
trong giới trẻ, do đó, giảm bớt những tiềm năng bất
ổn. Khi giá dầu sụt giảm, chính quyền buộc lòng phải
cắt xén các chương trình giúp đỡ người nghèo, giới
trung lưu, và giới thất nghiệp - đưa đến các làn
sóng bất mãn và bất ổn trong nhiều vùng trên thế
giới. Chẳng
hạn, ngân sách Liên Bang Nga luôn cân bằng khi giá
dầu trên70 USD một thùng. Với thu nhập quốc gia từ
dầu xuất khẩu giảm sút, Điện Cẩm Linh buộc lòng phải
sử dụng số ngoại tệ dự trữ tích lũy để đáp ứng công
chi, để cứu trợ các công ty gặp khó khăn, cũng như
để củng cố đồng ruble. Nga - luôn được xem như một
khổng lồ năng lượng - đã nhanh chóng lâm vào tình
trạng thiếu thanh khoản. Thất nghiệp lên cao, nhiều
xí nghiệp phải cắt giảm giờ làm việc để tiết kiệm
ngân sách. Mặc dù thủ tướng Vladimir Putin vẫn còn
được ủng hộ rộng rãi, những dấu hiệu bất mãn đầu
tiên trong công chúng bắt đầu xuất hiện, kể cả một
số phản đối đó đây chống lại thuế quan đánh trên
thực phẩm nhập khẩu, chi phí vận tải công cộng gia
tăng, và nhiều biện pháp tương tự. Sự sụt
giảm trong giá dầu đã đặc biệt tai hại đối với công
ty hơi đốt thiên nhiên khổng lồ Gazprom, công ty lớn
nhất Liên Bang Nga và là nguồn cung cấp một phần tư
số thuế thu nhập của nhà nước. Vì giá hơi đốt được
ấn định căn cứ trên giá dầu, sự sụt giảm trong giá
dầu đã ảnh hưởng nặng nề đến Gazprom: mùa hè 2008,
CEO Alexei Miller ước tính giá trị thị trường của
Gazprom là 360 tỉ USD; đầu năm 2009, xuống còn 85
tỉ. Trong
quá khứ, Nga thường sử dụng biện pháp ngưng cung cấp
hơi đốt cho các xứ láng giềng để nâng cao thế lực
chính trị. Tuy nhiên, với giá hơi đốt sụp đổ, quyết
định cắt dòng tiếp liệu hơi đốt thiên nhiên cho
Ukraine ngày 1-1-2009 của Gazprom (vì Ukraine không
trả được 1,5 tỉ tiền nợ mua hơi đốt trước đó) một
phần cũng vì lý do tài chánh. Mặc dù quyết định nầy
đã đưa đến nạn thiếu năng lượng ở Âu châu - 25% hơi
đốt thiên nhiên của Âu châu phải dùng tuyến dẫn hơi
đốt của Gazprom đi ngang Ukraine chuyển tải - Điện
Cẩm Linh vẫn có vẻ không lùi bước trong vụ tranh
chấp giá cả. Theo nhận xét của Chris Weafer thuộc
Ngân Hàng UralSib ở Moscow, "người Nga đang cần
tiền. Đó là lý do thực tế".
Giá dầu
sụp đổ cũng đã gây nhiều khó khăn cho chính quyền
các nước Iran, Saudi Arabia, và Venezuela, những
nước trước đây đã hưởng lợi khi giá dầu gia tăng kỷ
lục trong nhiều năm. Thời đó, vấn đề tài trợ các
chương trình công ích, trợ giá các hàng tiêu dùng
thiết yếu, và đem lại công ăn việc làm rất dễ giải
quyết. Cũng như Nga, ngân sách lớn lao của các xứ
nầy đã được duy trì dựa trên giả thuyết giá dầu 70
USD một thùng sẽ tiếp tục mãi mãi. Ngày nay, cũng
như nhiều xứ xuất khẩu dầu khác, họ phải sử dụng số
ngoại tệ sở hữu tích lũy, vay mượn với lãi suất cao,
và cắt xén các chi tiêu xã hội - những việc làm dễ
gây bất ổn chính trị và xã hội trong quốc nội. Chẳng
hạn, chính quyền Iran đã loan báo kế hoạch bải bỏ
các trợ cấp giá năng lượng (giá dầu trước đây chỉ 36
xu một gallon) - một việc làm dễ đưa đến sự chống
đối rộng rãi trong nước với tỉ suất thất nghiệp và
giá sinh hoạt hiện gia tăng nhanh chóng. Chính quyền
Saudi Arabia đã hứa không cắt giảm ngân sách bằng
cách dùng ngoại tệ dự trữ tích lũy nhưng tỉ suất
thất nghiệp ở Saudi Arabia cũng tăng cao. Việc cắt
giảm chi tiêu công trong các xứ xuất khẩu dầu như
Kuwait, Saudi Arabia, và United Arab Emirates cũng
sẽ ảnh hưởng đến các xứ thiếu tài nguyên năng lượng
như Egypt, Jordan, và Yemen, bởi lẽ nhiều nhân công
trẻ tuổi ở các xứ nầy thường đến kiếm việc làm với
lương cao trong các xứ xuất khẩu dầu, nhất là trong
thời gian giá dầu cao. Khi giá dầu sụp đổ, số nhân
công nầy thường là nạn nhân đầu tiên bị sa thải và
trả về nguyên quán, nơi rất ít việc làm chờ đón họ. Tình
trạng đó đang xẩy ra trong bối cảnh Hồi Giáo - kể cả
những hình thức cực đoan ngày một phổ cập hơn và lên
uy tín - chống đối khuynh hướng chính trị thỏa hiệp
và cộng tác của các chế độ thân Mỹ như Hosni Mubarak
ở Ai Cập, và Quốc Vương Abdullah II ở Jordan. Cùng
với các cuộc không tạc và tấn công vô nhân đạo của
Israel cũng như phản ứng lấy lệ của các chế độ Á
Rập ôn hòa trước tình cảnh đau thương của 1,5 người
Palestine trên dải Gaza bé nhỏ và cô lập , tình
trạng vừa nói là môi trường thuận lợi cho bạo lực
và bất ổn và trào lưu chống đối chính quyền. Mặc dù
không mấy ai xem trạng huống nầy trực tiếp liên hệ
với dầu khí, nhưng chắc chắn sự chao đảo trong giá
dầu cũng giữ một vai trò không nhỏ. Trong
khung cảnh suy thoái toàn cầu, những xáo trộn, do sự
chao đảo trong giá năng lượng trong các xứ xuất khẩu
dầu lửa nòng cốt, tương đối dễ hiểu. Nhưng thời điểm
và địa bàn các biến động khả dĩ xẩy ra là điều chưa
thể tiên liệu. Tuy nhiên, những biến động nầy, một
khi bùng nổ, chắc chắn sẽ làm bất cứ đợt tăng giá
năng lượng nào trong tương lai thêm thập phần khó
khăn. Đã hẳn,
giá năng lượng rồi sẽ tăng cao trở lại, có lẽ trong
một tương lai không xa, và sẽ lên một mức cao kỷ lục
mới. Lúc đó, chúng ta sẽ đối diện với những vấn đề
tương tự như trong nửa năm đầu 2008 khi số cầu gia
tăng và số cung không theo kịp đã đẩy giá năng
lượng lên 147 USD một thùng. Trong
mọi trường hợp, trong hiện tình kinh tế toàn cầu,
tất cả các quốc gia trên thế giới, dù thặng dư hay
thiếu hụt tài nguyên năng lượng, đều không thể thoát
khỏi hậu quả của căn bệnh ghiền dầu khí, khi giá dầu
lên cũng như khi xuống thấp.
© GS
Nguyễn Trường
Irvine,
California, USA
12-10-2009
|