Hiệu ứng tay nghề

Vietsciences-Đặng Đình Cung     21/09/2006

 

Những bài cùng tác giả

Những bài liên quan về kinh tế

Mỗi ngày, mọi người chúng ta đều có thêm kinh-nghiệm về đời sống và tay nghề. Khi ở lớp trung-học, chúng ta bỏ nhiều thì-giờ để giải lần đầu tiên một phương-trình. Sau đó, nếu mỗi ngày chúng ta giải thêm phương-trình cùng loại thì chúng ta sẽ giải mỗi ngày mỗi mau hơn. Giải được phương-trình mỗi ngày mỗi mau hơn là do chúng ta tích-lũy "tay nghề giải phương-trình". Nhưng, nếu trong một thời-gian dài, chúng ta không tiếp-tục giải phương-trình thì tốc-độ giải phương-trình sẽ giảm thậm chí có khi còn phải học lại cách giải.

Khi chúng ta mới đến một thị-xã thì chúng ta phải bỏ ra nhiều thì giờ để đi từ nơi này đến nơi khác vì chúng ta phải tham-khảo bản-đồ, hỏi thăm đường, đi lầm đường,... Sau đó thì chúng ta biết đường nên đỡ tốn thì-giờ đi lại trong tỉnh. Lâu dần chúng ta còn biết thêm những ngõ tắt và có thể di-chuyển mau hơn nữa. Điều đó là nhờ chúng ta đã bỏ công để biết rành địa-thế. Nhưng nếu trong một vài năm không trở lại thị-xã đó thì chúng ta lại phải bỏ thì-giờ để tìm đường như xưa.

Một xí-nghiệp cũng vậy. Vào những năm 1930, kỹ-sư T. P. Wright, giám-đốc một nhà máy sản-xuất phi-cơ, nhận thấy rằng cứ mỗi lần nhân đôi tổng-số máy bay đã được sản-xuất thì thời-gian cần thiết để sản-xuất thêm một máy bay giảm đi 20 phần trăm[1]. Khi một công-nhân lập lại nhiều lần một công-việc thì người đó bỏ ra càng ngày càng ít thời-gian và/hay công-lao để thực-hiện việc đó. Khi người đó lập lại nhiều lần một sản-phẩm thì chúng ta cũng nhận thấy người đó

bỏ ra càng ngày càng ít thời-gian và/hay công-lao để thực-hiện sản-phẩm đó,

· chất-lượng của sản-phẩm càng ngày càng cao,

· dùng càng ngày càng ít vật-liệu để sản-xuất cùng một sản-lượng

Những tiến-bộ về năng-suất mỗi khi lập lại một việc hay một sản-phẩm gọi là "hiệu-ứng tay nghề" (learning effect) hay là "hiệu-ứng kinh-nghiệm" (experience effect). Nhiều chuyên-gia về chiến-lược công-nghiệp dùng cụm từ "hiệu-ứng tay nghề" khi nói về tỷ-số giảm thời-gian hoàn-tất một việc của một cá-nhân hay một xí-nghiệp và cụm từ "hiệu-ứng kinh-nghiệm" khi bao-hàm hiệu-ứng tay nghề cũng như tất cả những tiến-bộ khác như giảm giá-thành, gia-tăng chất-lượng, củng-cố an-toàn,... Thực ra thì hai khái-niệm đó có cùng nguồn gốc, được mô-hình-hóa bằng cùng một tập-hợp hàm-số toán-học và dẫn đến cùng một số kết-luận thực-tiễn về quản-lý chiến-lược. Vì thế những nhà quản-lý xí-nghiệp không phân-biệt hai khái-niệm đó trong đời sống hàng ngày.

Trong bài này, chúng tôi xin trình bày nguồn gốc hiệu-ứng tay nghề, mô-hình toán học của hiệu-ứng, quan-trọng của hiệu-ứng trong chiến-lược công-nghiệp và những việc phải làm để gây nên và duy-trì hiệu-ứng đó.

 

1. Mô-hình toán học của hiệu-ứng tay nghề

Trong phần này chúng tôi xin trình bày ba mô-hình :

·mô-hình tích-lũy tay nghề theo sản-lượng,

·mô-hình tích-lũy tay nghề theo thời-gian,

· và mô-hình mất tay nghề.

Mô-hình tích-lũy tay nghề theo sản-lượng thích-hợp với những quy-trình sản-xuất một sản-lượng nhỏ từ vài đơn-vị cho tới vài trăm đơn-vị. Mô-hình tích-lũy tay nghề theo thời-gian thích-hợp với những quy-trình sản-xuất đại-tràng và liên-tục. Mô-hình mất tay nghề có thể áp-dụng cho những cá-nhân sau khi đã có tay nghề cao nhưng không còn tiếp tục lập lại công-việc hay sản-phẩm nữa vì nhiều lý-do chính-đáng hay không.

Trong phần này, chúng tôi dùng cụm-từ "công-suất" để chỉ mọi thể-hiện của năng-suất : nhịp lao-động khi sản-xuất hay bán hàng, tỷ-số đơn-vị thích-ứng với tiêu-chuẩn chất-lượng (gọi là tỷ-số thích-ứng), thời-gian sửa chữa một cỗ máy, số ngày máy vận-hành không có vấn-đề, số ngày nhà máy vận-hành không có tai-nạn,...

 

1.1 Mô-hình tích-lũy tay nghề theo sản-lượng

Giả tỷ mỗi lần nhân đôi số đơn-vị đã được sản-xuất thì thời-gian sản-xuất của một đơn-vị giảm 20 phần trăm. Chúng ta có bảng sau đây :

 

Tổng-số
sản-lượng

Tổng-số
thời-gian
sản-xuất

Thời-gian
sản-xuất
trung-bình

1 đơn-vị

1.000 giờ

1.000 giờ

2 đơn-vị

1.800 giờ

900 giờ

4 đơn-vị

3.240 giờ

810 giờ

8 đơn-vị

5.832 giờ

729 giờ

 

Bảng đó cho thấy rằng mỗi khi tổng-số sản-lượng đã được nhân đôi thì thời-gian sản-xuất trung-bình để sản-xuất mỗi đơn-vị giảm chỉ còn lại có 90 phần trăm. Tỷ-số 0,90 đó gọi là tỷ-số học nghề (learning rate).

Người ta nhận thấy hiệu-ứng tay nghề ở mọi ngành nghề, kể cả những ngành dịch-vụ. Những ngành công-nghiệp có hiệu-ứng tay nghề mạnh nhất là không-gian vũ-trụ, điện-tử, đóng tầu, xây-dựng, quân-khí,... Những ngành dịch-vụ như là ngân-hàng, phân-phối, khách-sạn, hiệu ăn,... có hiệu-ứng tay nghề gần như không đáng kể. Kinh-nghiệm cho thấy một công-việc càng phức-tạp, càng cần đến sự đóng góp của con người, thì hiệu-ứng tay nghề càng mạnh và, suy ra, tỷ-số học nghề càng thấp. Dựa trên những những nghiên-cứu thống-kê, tiến-sĩ R. D. Stewart[2] nhận thấy một số tỷ-số học nghề như sau :

 

Lắp ráp 75% bằng tay và 25% bằng máy

80%

Lắp ráp 50% bằng tay và 50% bằng máy

85%

Lắp ráp 25% bằng tay và 75% bằng máy

90%

Trong ngành không-gian vũ-trụ

85%

Trong ngành đóng tầu

80-85%

Trong ngành chế-tạo
những máy công-cụ phức-tạp

75-85%

Chế-tạo lập lại trong ngành điện-tử

90-95%

Gia-công lập lại cơ-khí

90-95%

Động-tác lập lại trong ngành điện

75-85%

Động-tác lập lại trong ngành hàn

90%

Trong ngành vật-liệu thô

93-96%

Mua bộ-phận

85-88%

 

Xin chú ý những tỷ-số đó có thể biến-đổi từ xí-nghiệp này sang xí-nghiệp khác, từ phân-xưởng này sang phân-xưởng khác mặc dù vẫn cùng một ngành nghề, cùng một sản-phẩm. Điều nữa, hiệu-ứng tay nghề chỉ có thể phát-hiện nếu xí-nghiệp có chính-sách cải-thiện liên-tục.

Từ những nhận-xét trên, chúng ta có thể thiết-lập phương-trình tính thời-gian trung-bình Y để sản-xuất một đơn-vị sau khi đã sản-xuất tổng-cộng x đơn-vị là :

 

 Y = A.xb

 

với

A Thời-gian để sản-xuất đơn-vị đầu tiên
x Tổng-số đơn-vị đã được sản-xuất
b Hằng-số, gọi là hằng số tay nghề, tính từ tỷ-số học nghề l như sau:

 

b =   Ln(l ) 
Ln(2)

 

Một thí dụ

Sau khi đóng 10 tầu đánh cá, ban kế-toán báo-cáo tổng kết như sau :

 

Thời-gian để đóng chiếc tầu thứ nhất

15.000 giờ

Tổng-số thời-gian để đóng 10 tầu

70.000 giờ

 

Xí-nghiệp vừa nhận được đơn tham-khảo giá cả để đóng thêm 5 tầu nữa.

Từ những số-liệu đó, chúng ta có thể tính hằng-số tiến-bộ tay nghề bằng phương-trình

 

70.000 
   10
=

15.000 x 10b

 

và suy ra

10b =     70.000  
   10 x 15.000
=  7  
15

b =  Ln(7) - Ln(15)  
Ln(10)
=    -0,331 =  Ln(l)  
 Ln(2)

Suy ra, tỷ-số học nghề là

  l = 2-0,331 = 0,795 hay là 79,5 phần trăm

Thời-gian trung-bình để sản-xuất mỗi tầu khi đã sản-xuất tổng-cộng 15 tầu là

  15.000 x 15-0,331 = 6.121 giờ

và tổng-số thời-gian để đóng 15 tầu là

  15 x 6.121 = 91.811 giờ

Vậy, để đóng thêm 5 tầu nữa thì phải bố-trí

 91.811 - 70.000 - 21.811 giờ

 

1.2 Mô-hình tích-lũy tay nghề theo thời-gian

Công-suất  Ym(t) sau t giờ làm việc có thể tính như sau :

 

Ym(t) = Yc + Yf [ 1- exp (  -t  
 
T
)]
 

với

T

= Hằng-số thời-gian tiêu-biểu của đà tiến-bộ tay nghề, gọi là hằng-số tiến-bộ tay nghề

Yc

= Công-suất khởi đầu

Yf

= Tiến-bộ tay nghề tối-đa sau một thời-gian vô-tận
 

Yc + Yf  là công-suất tiệm-cận, công-suất tối-đa có thể đạt được.

Công-suất khởi đầu Yc không bắt buộc phải là công-suất khi sản-xuất đơn-vị đầu tiên.

 

Một thí dụ

Khi sản-xuất 1.000 đơn-vị sản-phẩm một công-nhân mới được đào-tạo sinh ra 20 đơn-vị không thích-ứng hay là 20.000 ppm (phần một triệu, parts per million). Như vậy có nghĩa là tỷ-số sản-phẩm thích-ứng mà người ấy có thể làm ra là 0,98. Theo kinh-nghiệm của ban thiết-kế, hằng-số tiến-bộ tay nghề là 100 giờ.

Từ những số-liệu đó, tiến-bộ tay nghề tối-đa là 0,02 và hàm-số tiêu-biểu của tỷ-số sản-phẩm thích-ứng là

 

Ym(t) = 0,98 + 0,02 [ 1-exp(  - t  
100
) ]

 

Tiến-bộ dự báo của công-nhân đó là như sau

Số giờ sản-xuất

Tỷ-số đơn-vị
sản-phẩm thích-ứng

Tỷ-số đơn-vị
không thích-ứng
(ppm)

40 (một tuần)

0,986 593 6

13 406,4

480 (ba tháng)

0,999 835 4

164,6

1.000 (chừng ba tháng)

0,999 999 1

0,9

 

Nếu phảỉ giao hàng với tỷ-số đơn-vị không thích-ứng dưới 1 ppm thì, thì sau ba tháng kinh-nghiệm, vẫn còn phải kiểm-tra chọn loại sản-lượng của công-nhân này trước khi gửi đến khách hàng. Nhưng sau sáu tháng thì chúng ta có thể tin cậy và gửi đến khách hàng sản-lượng của công-nhân này mà không cần phải kiểm-tra trước.

 

1.3 Mô-hình mất tay nghề

Khi ngưng sản-xuất trong một thì thời-gian công-nhân có thể mất tay nghề và công-suất sẽ giảm xuống.

Mô-hình mất tay nghề tương-tự như mô-hình tích-lũy theo thời-gian và chỉ áp-dụng cho tay nghề của nhân-viên thôi. Công-suất Ym(t) sau t ngày nghỉ việc có thể tính như sau :

Ym(t) = Yc - Yf [ 1-exp(  - t  
100
) ]

 

với

T

= Hằng-số thời-gian tiêu-biểu của đà mất tay nghề, gọi là hằng-số mất tay nghề

Yc

= Công-suất khởi đầu

Yf

= Thoái-lui tay nghề tối-đa sau một thời-gian nghỉ việc vô-tận
Yc - Yf  là công-suất tiệm-cận, công-suất tối-thiểu của một người không có tay nghề.

Công-suất khởi đầu Yc  không bắt buộc phải là công-suất khi sản-xuất đơn-vị đầu tiên.

2. Những áp-dụng của hiệu-ứng tay nghề

Hiệu-ứng tay nghề không phải là hậu-quả của những tiết-kiệm nhờ quy-mô mà cũng không phải là một công-cụ để làm giảm gía thành. Nhưng khái-niệm hiệu-ứng tay nghề giúp chúng ta thiết-lập một số chính-sách quản-lý dựa trên giá thành.

 

2.1 Quản-lý nhân-lực

Khi một người mới được tuyển vào hãng thì có công-suất thấp. Nhưng khi quen việc rồi thì sẽ có năng-suất cao. Từ những những mô-hình toán-học của hiệu-ứng tay nghề trình bày ở trên, chúng ta suy ra công-suất của một người mới ra nghề tăng mau hơn là sau khi đã thâm-niên. Vậy, lý-tưởng là tất cả nhân-viên của một ngành nghề đều tích-lũy kinh-nghiệm tay nghề ngang nhau. Từ mô-hình mất tay nghề chúng ta suy ra tốc-độ mất tay nghề khi mới ngưng việc cao hơn là sau một thời-gian lâu.

Vậy chính-sách quản-lý nhân-lực của một xí-nghiệp cần theo hai hướng :

· ưu-tiên trao việc cho những nhân-viên mới được tuyển và những nhân-viên trẻ mới tốt-nghiệp, mặc dù năng-suất của họ kém, để họ mau chóng có kinh-nghiệm bằng những đồng-nghiệp thâm-niên,

· để duy-trì tay nghề của nhân-viên xí-nghiệp nên tạo điều-kiện để họ có dịp lập lại có định-kỳ những việc họ đã có kinh-nghiệm.

 

2.2 Chính-sách giá bán một sản-phẩm mới

Khi một xí-nghiệp khai-triển một sản-phẩm mới thì kỹ-sư, nhân-viên vận-hành, nhân-viên bảo-quản phải bỏ công ra để tìm hiểu quy-trình sản-xuất, quy-trình kinh-doanh và để tìm cách làm cho mọi việc được tối-ưu. Vì những lý-do đó giá thành của sản-phẩm lúc đầu bao giờ cũng cao hơn là sau khi một sản-lượng lớn đã được sản-xuất.

Trong tình-huống đó, xí-nghiệp có thể bán với giá cao để cân bằng ngay những chi-phí ban đầu. Nhưng xí-nghiệp cũng có thể bán với giá tương-xứng với giá thành tương-lai để mau chóng có thị-truờng lớn, gây cơ-hội mau chóng tich-lũy tay nghề và để mau chóng giảm giá thành.

Những xí-nghiệp khai-phá trước một thị-trường tích-lũy được nhiều sản-lượng, nhiều kinh-nghiệm mà không phải so-sánh với đối-thủ. Tay nghề của họ đã cao, suy ra, giá thành của họ đã giảm trước khi đối-thủ vào cuộc. Ngược lại, nếu  đặt chân vào một thị-trường đã có đối-thủ rồi thì phải đắn đo giá thành tương lai sẽ có thể cạnh-tranh được không : quy-trình sản-xuất có hữu-hiệu hơn, tích-lũy sản-lượng tương-lai sẽ vượt tích-lũy sản-lượng của đối-thủ trong một thời-gian có thể chấp-nhận được...

 

2.3 Tiêu-chuẩn-hóa

Một công-nhân sẽ mau tích-lũy lượng tay nghề nếu không thay đổi sản-phẩm phải sản-xuất. mau tổng-số Ngược lại nếu xí-nghiệp liên-tục đổi mặt hàng thì nhân-công sẽ không kịp tích-lũy tay nghề. Mỗi lần đổi sản-phẩm thì một phần tay nghề trước của xí-nghiệp sẽ mất đi. Để tích-lũy tay nghề thì xí-nghiệp phải sản-xuất những gì có thể bán được nhiều hay có thể được lắp ráp từ những bộ-phận chung sản-xuất đại-tràng.

Chúng ta cũng có một hiện-tượng tương-tự khi thay đổi phương-pháp sản-xuất. Mỗi khi thay đổi một phương-pháp sản-xuất thì nhân-công phải học lại và tích-lũy lại tay nghề. Một phương-thức làm việc đã được nghiên-cứu kỹ trước thì sau này ít cần phải cải-tạo một khi đã được đưa vào áp-dụng. Nhờ đó nhân-công sẽ có thể lập lại nhiều lần những đọng-tác sản-xuất và mau chóng tích-lũy tay nghề.

Những nhân-xét đó chứng-minh sự cần-thiết phải tiêu-chuẩn-hóa cả sản-phẩm lẫn phương-pháp sản-xuất.

 

2.4 Chính-sách thương-lượng giá cả

Khi bên mua và bên bán thương-lượng với nhau, cả hai bên đều biết rằng giá thành của bên cung-cấp thế nào cũng giảm nhờ hiệu-ứng tay nghề. Hợp-đồng cung-cấp thường có hai loại.

  • Cung-cấp một lượng sản-phẩm trong một hợp-đồng duy-nhất. Trong trường-hợp đó, hiệu-ứng tay ghề, suy ra, giá thành trung-bình của mỗi đơn-vị, tùy ở lượng sẽ được sản-xuất. Xí-nghiệp mua có cơ-sở để đòi giảm giá mua trung-bình của mỗi đơn-vị nếu hứa tăng lượng mua vì lúc đó giá thành trung-bình của mỗi đơn-vị của bên bán sẽ giảm nhờ hiệu-ứng tay nghề.
  • Cung-cấp theo nhịp tiêu-thụ của bên mua. Trong trường-hợp đó, mỗi khi xí-nghiệp mua thêm một lượng sản-phẩm thì bên bán sẽ có dịp tích-lũy thêm lượng sản-phẩm đã được sản-xuất . Nhờ đó giá thành trung-bình của mỗi đơn-vị sẽ giảm và xí-nghiệp mua có cơ-sở để đòi giảm giá mua trung-bình của mỗi đơn-vị so với đơn đặt hàng trước.
  •  

    2.5 Quản-lý chiến-lược

    Nhà tư-vấn Bruce Henderson của hãng tư-vấn BCG (Boston Consulting Group) dùng khái-niệm hiệu-ứng tay nghề để quảng-bá một công-cụ chiến-lược kinh-doanh gọi là mã-trận BCG[3]. Công-cụ đó dựa trên chiến-lược áp-đảo thị-trường bằng giá bán. Lý-luận của chiến-lược đó là như sau :

  • Khi một xí-nghiệp bán rẻ thì sẽ bán nhiều.
  • Vì bán nhiều nên phải sản-xuất nhiều.
  • Nhờ sản-xuất nhiều nên tích-lũy nhiều sản-phẩm đã được sản-xuất và tích-lũy tay nghề.
  • Nhờ hiệu-ứng tay nghề nên có thể giảm giá thành.
  • Với giá thành thấp xí-nghiệp có thể bán với giá rẻ.
  • Xí-nghiệp cứ theo cái vòng xoáy đức-hạnh đó mà gia-tăng thị-phần và loại đối-thủ. Dựa trên nhận-xét đó, những xí-nghiệp có thể lập những chiến-lược hay tập-hợp chiến-lược sau đây :

    ·        đưa ra thị-trường một sản-phẩm mới trước những đối-thủ để gia-tăng hiệu-ứng tay nghề và giảm giá thành trước khi đối-thủ xâm-nhập thị-trường,

         

  • hạ giá để gia-tăng thị-phần,      
  • sản-xuất những sản-phẩm khác nhau nhưng với nhiều bộ-phận chung,    
  • xác nhập với xí-nghiệp bạn để cộng chung thị-phần và mau chóng tích-lũy tay nghề, 
  • nghiên-cứu khai-triển những quy-trình sản-xuất làm giảm giá thành.

    Nếu không giảm được giá thành tới mức của đối-thủ thì xí-nghiệp nên tự ý rút lui trước khi bị đối-thủ loại ra.

     

    3. Kết-luận

    Hiệu-ứng tay nghề áp-dụng cho những cá-nhân hay những xí-nghiệp. Hiệu-ứng phản-ảnh kết-quả của tập-hợp những cố-gắng cải-thiện của toàn-thể nhân-viên của xí-nghiệp. Hiệu-ứng tay nghề cá-nhân phản-ảnh những tiến-bộ về năng-suất của một người. Tiến-bộ đó có hai nguồn :

    · một người lập lại một quá-trình và, nhờ đó, trở nên mỗi ngày mỗi thành-thạo hay hữu-hiệu hơn,

    · người đó hưởng-thụ những đổi thay về quản-trị, thiết-bị, sản-phẩm và phương-cách làm việc.

    Hiệu-ứng tay nghề tập-thể bao gồm cả hai nguồn tiến-bộ đó tác-động cùng một lúc. Hiệu-ứng không chỉ giới-hạn ở những công việc tay chân như lắp ráp mà cũng có thể áp-dụng một cách tổng-quát khi có sự cương-quyết cải-thiện quy-trình sản-xuất. Một xí-nghiệp có hiệu-ứng tay nghề nhờ nhân-viên trực-tiếp tham-gia vào sản-xuất có thêm tay nghề, nhưng cũng nhờ tất cả nhân-viên của tất cả các bộ-phận của xí-nghiệp đóng góp vào việc cải-thiện sản-phẩm, phương-pháp làm việc, công-cụ sản-xuất, thiết-bị vận-chuyển vật-liệu,... Ngoài ra khách hàng cũng tham-gia vào hiệu-ứng tay nghề qua những đòi hỏi mỗi ngày mỗi khó khăn về khối-lượng cũng như về chất-lượng mà xí-nghiệp phải giải-quyết.

    Một xí-nghiệp có hiệu-ứng tay nghề nhờ nhân-viên có đầu óc sáng-tạo, học hỏi từ những sai lầm xưa, chịu khó tìm cách cải-thiện,... Hiệu-ứng biểu-hiện tư-cách đạo-đức của con người. Có xí-nghiệp tích-lũy nhiều tay nghề, có xí-nghiệp cùng ngành tích-lũy rất ít. Ban giám-đốc phải tạo điều-kiện để cho hiệu-ứng đó nẩy nở chứ không thể nêu lên một chỉ-tiêu năng-suất rồi bắt nhân-viên phải đạt hay dựa vào đó để lập một chiến-lược kinh-doanh.


     
    [1] Chúng tôi thú-nhận không được đọc báo-cáo của KS Wright đăng trong Journal of Aeronautical Science và chỉ nêu quy-chiếu để những độc giả quan-tâm có thể tìm đọc :

    T. P. Wright, "Factors Affecting the Cost of Airplanes," Journal of Aeronautical Science, Vol.3, No.2, 1936.
    [2] Những số-liệu này do cơ-quan NASA (National Aeronautic and Space Agency, Cơ-quan Hàng-không Vũ-trụ Quốc-gia) trích từ

    Rodney D. Stewart, Richard M. Wyskida, and James D. Johannes : "Cost Estimator's Reference Manual", Wiley-Interscience, 2nd Edition, 1995

    và đăng ở địa-chỉ Internet http://www1.jsc.nasa.gov/bu2/learn.html. Cuốn sách này đắt tới 150 US$. Chúng tôi đề-nghị những độc giả quan-tâm đến những vấn-đề tính giá thành hạ-tải tài-liệu miễn-phí "2004 NASA Cost Estimate Handbook" đăng ở địa-chỉ Internet http://ceh.nasa.gov/downloadfiles/2004_NASA_CEH_Final.pdf.

    [3] độc giả có thể tham-khảo về mã-trận BCG ở địa-chỉ Internet http://www.12manage.com/methods_bcgmatrix.html

     

    [1] Chúng tôi thú-nhận không được đọc báo-cáo của KS Wright đăng trong Journal of Aeronautical Science và chỉ nêu quy-chiếu để những độc giả quan-tâm có thể tìm đọc :

    T. P. Wright, "Factors Affecting the Cost of Airplanes," Journal of Aeronautical Science, Vol.3, No.2, 1936.

    [1] Những số-liệu này do cơ-quan NASA (National Aeronautic and Space Agency, Cơ-quan Hàng-không Vũ-trụ Quốc-gia) trích từ

    Rodney D. Stewart, Richard M. Wyskida, and James D. Johannes : "Cost Estimator's Reference Manual", Wiley-Interscience, 2nd Edition, 1995

    và đăng ở địa-chỉ Internet http://www1.jsc.nasa.gov/bu2/learn.html. Cuốn sách này đắt tới 150 US$. Chúng tôi đề-nghị những độc giả quan-tâm đến những vấn-đề tính giá thành hạ-tải tài-liệu miễn-phí "2004 NASA Cost Estimate Handbook" đăng ở địa-chỉ Internet http://ceh.nasa.gov/downloadfiles/2004_NASA_CEH_Final.pdf.

    [1] độc giả có thể tham-khảo về mã-trận BCG ở địa-chỉ Internet http://www.12manage.com/methods_bcgmatrix.html

    ĐẶNG Đình Cung
    Kỹ-sư tư-vấn

     

    © http://vietsciences.free.fr  , http://vietsciences.org  và http://vietsciences2.free.fr  Đặng Đình Cung