Những bài cùng tác giả
Những bài cùng đề tài
Địa vị siêu cường toàn cầu của Hoa Kỳ ngày
một lung lay. Thế Kỷ của Hoa Kỳ đang kinh qua thời kỳ sóng
gió trước khi cáo chung. Nếu Hoa Thịnh Đốn đang mơ ước kéo
dài giấc mộng đế quốc thêm vài thập kỷ, ít ra cho đến năm
2050, một thẩm định thực tế các xu thế quốc nội và quốc tế
hình như đã đi tới kết luận: Thế Kỷ của Hoa Kỳ may
ra chỉ có thể tồn tại đến năm 2025.
BÁ QUYỀN TRÊN ĐÀ BỊ XÓI MÒN
Lịch sử luôn nhắc nhở: các đế quốc, mặc dù có
nhiều quyền lực, cũng chỉ là những định chế mong manh. Nền
tảng đế quốc luôn khập khiểng đến độ, khi gặp biến động, các
đế quốc thường chóng vánh tan vỡ: chỉ 1 năm đối với Bồ Đào
Nha, 2 năm với Liên Bang Xô Viết, 8 năm với Pháp, 11 năm
với Ottomans, 17 năm với Anh Quốc, và rất có thể vào khoảng
22 năm với Hoa Kỳ kể từ năm quyết định 2003.
Các nhà sử học tương lai có lẽ sẽ giúp xác
định năm khởi động xâm chiếm Iraq như khởi điểm của sự suy
sụp của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thay vì chinh chiến đánh dấu
chung cuộc của các đế quốc trong quá khứ, sự sụp đổ của đế
quốc trong thế kỷ 21 có thể diễn tiến tương đối lặng lẽ qua
chuổi suy thoái kinh tế và quân sự đan xen.
Tuy vậy, một điều khá chắc chắn: khi bá quyền
toàn cầu của Hoa Thịnh Đốn sụp đổ, người ta rất có thể phải
chứng kiến nhiều biểu hiện nhức nhối, hậu quả của diễn tiến
suy sụp uy quyền của người Mỹ trên khắp thế giới. Như nhiều
quốc gia Âu châu đã trải nghiệm, tác động của sự suy tàn của
một đế quốc thường có khuynh hướng đem lại khủng hoảng tinh
thần, chính trị, và kinh tế cho cả một thế hệ , lôi kéo theo
xáo trộn và bất an trong cộng đồng các quốc gia.
Các dữ kiện kinh tế, giáo dục, quân sự hiện
hữu cho thấy đối với quyền lực toàn cầu của Hoa Kỳ, các xu
hướng tiêu cực sẽ hội tụ nhanh chóng vào năm 2020 và có thể
đạt đến trình độ nghiêm trọng trước năm 2030. Thế Kỷ của Hoa
Kỳ, được hân hoan công bố vào đầu Thế Chiến II, sẽ tơi tả
và lu mờ, sau 8 thập kỷ, vào năm 2025, và có thể hoàn toàn
lùi vào lịch sử năm 2030.
Điều đáng ghi nhận: năm 2008, Hội Đồng
Tình Báo Quốc Gia Hoa Kỳ lần đầu tiên đã xác nhận bá
quyền toàn cầu của Hoa Kỳ đang trên quá trình tuột dốc.
Trong một phúc trình định kỳ về tương lai, Xu Hướng Toàn
Cầu 2025, Hội Đồng đã phải công nhận "thịnh vượng và
sức mạnh kinh tế toàn cầu nay đang chuyển dịch, trên tổng
thể, từ phương Tây qua phương Đông " và "lần đầu tiên
trong lịch sử cận đại", như yếu tố căn bản của hiện
tượng tuột dốc trong "sức mạnh
tương đối của Hoa Kỳ - ngay cả trong địa hạt quân sự".
Tuy nhiên, cũng như nhiều quan
chức ở Hoa Thịnh Đốn, các nhà phân tích của Hội Đồng đã tiên
liệu một hạ cánh an toàn của một đế quốc, và nuôi hy vọng
một cách nào đó Hoa Kỳ có thể duy trì lâu dài
"khả năng quân sự vô song ... đủ để biểu
dương quyền lực quân sự trên toàn cầu"
trong nhiều thập kỷ sắp tới.
Điều nầy khó thể xẩy ra. Theo dự phóng hiện
nay, Hoa Kỳ sẽ tụt xuống vị trí thứ hai sau Trung Quốc
(hiện là nền kinh tế lớn thứ hai của thế giới) về GDP vào
năm 2026, và sau Ấn Độ vào năm 2050. Trong cùng chiều hướng,
khả năng canh tân của TQ cũng đang trên đà tiến lên hàng đầu
thế giới về khoa học ứng dụng và công nghệ quân sự trong
khoảng 2020 và 2030, căn cứ trên dự phóng:
số cung khoa học gia và kỹ sư ưu tú hiện nay
của Hoa Kỳ khi hưu trí sẽ không được thay thế đầy đủ bởi một
thế hệ trẻ không được đào tạo thích đáng .
Vào khoảng 2020, theo kế hoạch hiện nay, Ngũ
Giác Đài sẽ phát động ba loại phi hành gia không gian tự
động, tượng trưng cho hy vọng cao nhất của Hoa Thịnh Đốn duy
trì bá quyền toàn cầu, mặc dù ảnh hưởng kinh tế ngày một suy
giảm. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, hệ thống vệ tinh truyền
thông toàn cầu của TQ, hổ trợ bởi những máy vi tính siêu
đẳng mạnh nhất thế giới, cũng đã đi vào hoạt động, đem lại
cho Bắc Kinh một kho trang thiết bị quân sự và hệ thống
truyền thông hùng mạnh có thể tiếp cận mọi nơi trên thế
giới, thiết yếu cho nhu cầu điều khiển tên lửa và các vũ khí
tấn công trên không gian.
Với thái độ một đế quốc kiêu căng, tòa Bạch
Ốc hình như vẫn tưởng sự tuột dốc của Hoa Kỳ sẽ mang tính
tuần tự, nhẹ nhàng, và phân bộ. Trong diễn văn về Tình
Trạng Liên Bang trong tháng 1-2011, TT Obama đã long
trọng trấn an "Tôi không chấp nhận
vị trí thứ hai cho Hoa Kỳ".
Vài ngày sau, Phó TT Biden cũng đã gièm pha nhận xét "chúng
ta khó thể tránh né lời tiên đoán của [sử gia Paul] Kennedy
là "chúng ta sẽ là một đại cường đã thất bại, bởi lẽ chúng
ta đã đánh mất khả năng kiểm soát nền kinh tế và đã giàn
trải quá mỏng".
Trong cùng quan điểm, viết trong tạp chí
Foreign Affairs số tháng 11-2010, Joseph Nye, một
tên tuổi về chính sách đối ngoại tân tự do,
đã bác bỏ mọi luận cứ liên quan sự trổi dậy
về kinh tế và quân sự của TQ , "những ẩn dụ sai lạc về một
sự tuột dốc hữu cơ",
và mọi suy yếu đang diễn tiến trong quyền lực toàn cầu của
Mỹ.
Người Mỹ bình thường, đang chứng kiến nạn
thất thoát công ăn việc làm ra nước ngoài, lại có cái nhìn
thực tế hơn các lãnh đạo chính trị. Theo kết quả cuộc thăm
dò trong tháng 8-2010, 65% dân Mỹ tin: Hoa Kỳ hiện đang trải
nghiệm "tình trạng tuột dốc". Trong thực tế, Úc và
Thổ Nhĩ Kỳ, đồng minh quân sự lâu đời của Mỹ, hiện đang sử
dụng vũ khí do Hoa Kỳ chế tạo trong các cuộc thao diễn quân
sự chung với TQ. Các đối tác kinh tế thân cận nhất của Mỹ
cũng dần dà lánh xa lập trường của Hoa Thịnh Đốn chống đối
chính sách ngoại hối của TQ. Khi TT Obama đang trên đường
trở về sau chuyến công du Á châu trong tháng 11-2010, một
hàng tít lớn bi quan trên báo The New York Times đã
tóm lược tình hình: "Nhãn Quan Kinh
Tế Của Obama Bị Bác Bỏ Trên Sân Khấu Thế Giới; TQ, Anh, và
Đức Thách Thức Hoa Kỳ; Thương Thảo Mậu Dịch với Seoul Cũng
Thất Bại".
Từ góc nhìn lịch sử, vấn đề không phải liệu
Hoa Kỳ có thể sẽ đánh mất bá quyền toàn cầu của mình, mà là
sự tuột dốc dồn dập và nhức nhối của Mỹ. Thay vì đi theo tư
duy đầy cảm tính của Hoa Thịnh Đốn, chúng ta thử dùng phương
pháp tương lai học của chính Hội Đồng Tình Báo
Quốc Gia, đưa ra ba kịch bản thực tiển, xét xem bá quyền
toàn cầu của Hoa Kỳ sẽ diễn tiến như thế nào cho đến thập kỷ
2020 . Các kịch bản tương lai bao gồm: tuột dốc kinh tế,
khủng hoảng dầu khí, và phiêu lưu quân sự.
TUỘT DỐC KINH TẾ
Ngày nay, vị trí áp đảo của Hoa Kỳ trong kinh
tế toàn cầu đang đối diện ba đe dọa chính: thị phần trong
mậu dịch quốc tế ngày một thu hẹp, khả năng canh tân kỹ
thuật suy giảm, vị thế đặc quyền của đồng USD trong vai trò
một ngoại tệ dự trữ toàn cầu ngày môt lung lay.
Kể từ 2008, Hoa Kỳ đã tụt xuống vị trí thứ ba
trong ngạch số xuất khẩu, với 11% so với 12% của TQ, và 16%
của Liên Hiệp Âu Châu (EU). Hiện không có lý do để tin xu
thế nầy có thể đảo ngược.
Trong cùng chiều hướng, vai trò lãnh đạo của
Hoa Kỳ trong canh tân kỹ thuật ngày một suy yếu. Năm 2008,
Hoa Kỳ đứng thứ hai sau Nhật với 232.000 đơn xin patent;
nhưng TQ đã thu hẹp khoảng cách nhanh chóng với 195.000 đơn
xin, nhờ ở tỉ suất gia tăng nóng bỏng 400% kể từ năm 2000.
Một dấu hiệu suy yếu khác: năm 2009, Hoa Kỳ
tụt xuống vị trí thấp nhất trong số 40 quốc gia thăm dò bởi
tổ chức Information Technology & Innovation Foundation
về 'thay đổi' trong 'khả
năng cạnh tranh căn cứ trên canh tân toàn cầu'
suốt trong thập kỷ trước. Nếu tính thêm chất lượng vào thống
kê, trong tháng 10-2010, Bộ Quốc Phòng TQ đã tiết lộ một máy
siêu vi tính nhanh nhất thế giới, Tianhe-1A, theo một
chuyên gia Hoa Kỳ, mạnh đến nổi có thể
'thổi bay máy vi tính số 1 hiện hữu'
của Mỹ.
Ngoài ra, chúng ta còn phải nhắc đến một bằng
chứng rõ ràng khác: hệ thống giáo dục Hoa Kỳ, lò sản xuất
các khoa học gia và các nhà canh tân tương lai, đã không còn
theo kịp các xứ cạnh tranh. Sau khi dẫn đầu thế giới trong
nhiều thập kỷ về số thanh niên từ 25 đến 34 tuổi với cấp
bằng đại học, Hoa Kỳ trong năm 2010 đã tụt xuống vị trí thứ
12. Cũng trong năm 2010, Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới (The
World Economic Forum) đã xếp Hoa Kỳ vào thứ hạng 52
trong số 139 quốc gia về chất lượng giáo dục trong các môn
toán và khoa học cấp đại học. Gần 50% số sinh viên ban thạc
sĩ-tiến sĩ trong các ngành khoa học hiện nay là sinh viên
nước ngoài; hầu hết sẽ hồi hương sau khi tốt nghiệp, thay vì
ở lại Mỹ như trước đây. Nói một cách khác, vào khoảng năm
2025, Hoa Kỳ có thể phải đối diện với nạn khuy khiếm trầm
trọng các khoa học gia tài ba.
Các xu hướng vừa nói cũng đã ảnh hưởng tiêu
cực đến vai trò đồng USD như ngoại tệ dự trữ của thế giới.
Kenneth S. Rogoff, nguyên kinh tế trưởng Quỹ Tiền Tệ Quốc
Tế (IMF), đã nhận xét, "các quốc
gia khác nay không còn tin Hoa Kỳ là quốc gia có chính sách
kinh tế xuất sắc nhất".Vào
giữa năm 2009, với các ngân hàng trung ương trên thế giới
nắm giữ 4.000 tỉ trái phiếu ngân khố Hoa Kỳ, TT Nga Dimitri
Medvedev nhấn mạnh: đã đến lúc phải chấm dứt "hệ thống
đơn cực được duy trì một cách giả tạo" căn cứ trên
"một đơn vị tiền dự trữ trước đây hùng mạnh".
Đồng thời, thống đốc ngân hàng trung ương TQ
cũng đã gợi ý: trong một tương lai rất gần có thể sẽ phải
chấp nhận một đơn vị tiền dự trữ toàn cầu
"không dính dáng với các quốc gia riêng rẽ"
(có nghĩa, đồng USD).
Như kinh tế gia Michael Hudson lập luận, tất
cả những tín hiệu vừa kể đã "thúc
đẩy đà phá sản nhanh chóng của trật tự tài chánh-quân sự thế
giới của Hoa Kỳ ".
KHỦNG HOẢNG DẦU KHÍ
Song song với quyền lực kinh tế suy giảm của
Hoa Kỳ, quyền kiểm soát số cung dầu khí toàn cầu cũng chịu
cùng số phận. Cạnh tranh với nền kinh tế đang khát dầu của
Mỹ, TQ đã nhanh chóng trở thành quốc gia tiêu thụ năng lượng
số một vào mùa hè 2010, một vị trí do Hoa Kỳ độc chiếm trong
hơn một thế kỷ. Chuyên gia năng lượng Michael Klare đã đưa
ra nhận xét: sự thay đổi ngôi thứ vừa nói có nghĩa từ nay
TQ sẽ giữ vai trò "dẫn đầu trong
việc định hình tương lai thế giới".
Vào khoảng
năm 2025, Iran và Nga sẽ kiểm soát gần phân nửa số cung hơi
đốt thiên nhiên trên thế giới, đem lại cho hai xứ nầy sức
mạnh đòn bẩy đối với một Âu châu đang đói năng lượng.
Nếu
tính
thêm trữ
lượng dầu lửa, như Hội Đồng Tình Báo Quốc Gia đã dự báo,
"trong vòng 15 năm sắp
tới,
hai quốc
gia,
Nga và Iran, có thể
trổi dậy như hai
cường
quốc
năng lượng then chốt".
Mặc dù tiền tiến về kỹ thuật, các nước giàu
tài nguyên năng lượng hiện đang bơm dầu từ những vịnh có trữ
lượng lớn lao và dễ khai thác với phí tổn thấp. Bài học thực
sự rút tỉa từ tai họa tràn dầu Deepwater Horizon ở
Vịnh Mễ Tây Cơ: ngoài lý do sơ suất trong chuẩn mực an ninh,
còn có một lý do đơn giản khác:
theo Michael Klare, để duy trì doanh lợi, BP, một trong
những đại công ty năng lượng, có rất ít chọn lựa ngoài việc
tìm kiếm "tough oil", hay dầu khó khai thác, hàng dặm dưới
mặt đại dương.
Vấn đề càng phức tạp khi TQ và Ấn bất thần đã
trở thành hai xứ tiêu thụ dầu lớn lao. Ngay cả trong giả
thiết xa vời thực tế - số cung dầu lửa bất biến, sức
cầu, do đó giá cả, chắc chắn sẽ gia tăng nhanh chóng. Một số
các xứ phát triển khác đã mạnh dạn đối đầu với đe dọa qua
các chương trình thực nghiệm nhằm khai triển những nguồn
năng lượng thay thế. Hoa Kỳ, trái lại, đã dõi theo một hướng
đi trái ngược, và suốt trong ba thập kỷ vừa qua, đã tăng gấp
đôi sự lệ thuộc vào dầu nhập khẩu. Từ 1973 đến 2007, dầu
nhập khẩu đã gia tăng từ 36% lên đến 66% số năng lượng tiêu
thụ trong nước.
PHIÊU LƯU QUÂN SỰ
Khi quyền lực suy giảm, các đế quốc thường
rất dễ bị thu hút vào những phiêu lưu quân sự thiếu tỉnh
táo. Hiện tượng nầy được các sử gia nhắc đến dưới tên gọi
"chính sách quân sự vi tiểu"
như một nổ lực mang tính tự trấn an qua chiến lược xâm lăng
các lãnh thổ hải ngoại. Họ muốn nói đến những cuộc hành
quân, thiếu duy lý ngay đối với một đế quốc, thường gây thêm
tổn phí tiêu hao và thất bại tủi hổ, làm tăng tốc quá trình
suy sụp.
Trong thời mạt vận, các đế quốc, sau nhiều
năm tháng mắc phải chứng bệnh tự kiêu, luôn tìm cách bám víu
vào chủ nghĩa đế quốc qua các phiêu lưu quân sự, thường kết
thúc với thất bại và tan rã. Năm 413 trước công nguyên, một
Athens suy yếu đã gửi 200 tàu chiến vào lò sát sinh ở
Sicily. Năm 1921, Ðế quốc Tây Ban Nha đã gửi 20.000 binh sĩ
để bị tàn sát bởi du kích quân Berber ở Morocco. Năm 1956,
Đế quốc Anh đã hủy hoại uy tín qua chiến dịch tấn công kênh
đào Suez. Năm 2001 và 2003, Hoa Kỳ xâm chiếm Afghanistan và
Iraq. Với sự kiêu căng đặc trưng của chủ nghĩa đế quốc qua
nhiều thiên niên kỷ, Hoa Kỳ đã tăng quân ở Afghanistan lên
100.000, mở rộng chiến tranh qua Pakistan, và gia hạn cam
kết đến năm 2014 và xa hơn nữa, tự chuốc lấy tai họa trong "nghĩa
trang, dành cho các đế quốc, đầy dẫy du kích, và trang bị
nguyên tử ".
Trong lúc tình hình lúc một căng thẳng, phúc
trình của Ngũ Giác Đài đã tiết lộ Bắc Kinh hiện đã có đủ "khả
năng tấn công ...các hàng không mẫu hạm [Hoa Kỳ] trong vùng
Tây Thái Bình Dương" và ngay cả các "lực lượng nguyên
tử trong khắp...lục địa Hoa Kỳ". Qua sự triển khai
"khả năng tấn công hạt nhân, không gian, và chiến tranh
truyền thông và kiểm soát tự động", TQ hình như đang
quyết chí tranh giành thế lực áp đảo trong lãnh vực Ngũ Giác
Đài mệnh danh "quang phổ thông tin
đủ kích cỡ của chiến tranh không gian hiện đại".
Với sư khai triển đang tiếp diễn các hỏa tiễn tăng thế
Long March V, cũng như phóng các vệ tinh trong tháng
1-2010 (2) và tháng 7-2010 (1), Bắc Kinh đã gửi tín hiệu:
TQ đang tiến rất nhanh trong chương
trình thiết kế một mạng lưới độc lập với 35 vệ tinh trong
các địa hạt định vị, truyền thông, và khả năng tình báo vào
năm 2020.
Nhằm kiềm chế TQ và tăng cường vị thế quân sự
toàn cầu của chính mình, Hoa Thịnh Đốn quyết định thiết kế
một "mạng lưới kỹ thuật số" gồm các người máy không
gian và ngoại không gian tự động - những khả năng chiến
tranh truyền thông và kiểm soát tối tân, và giám sát điện
tử. Các nhà hoạch định quân sự chờ đợi hệ thống hội nhập hay
hợp nhất nầy sẽ có khả năng bao phủ địa cầu trong một mạng
lưới truyền thông và giám sát có khả năng che kín tầm quan
sát của các đội quân thù nghịch hay ngay cả loại trừ một tên
khủng bố riêng lẻ. Vào năm 2020, nếu diễn biến đúng theo kế
hoạch, Ngũ Giác Đài sẽ phát động một lá chắn ba lớp các phi
cơ không người lái - với tầm với từ stratosphere
(thượng tầng không gian) đến exosphere (ngoại biên
bầu khí quyển), được trang bị các hỏa tiễn cực nhanh,
nối liền với một hệ thống vệ tinh linh động qua sự giám sát
của viễn vọng kính.
Tháng 4-2010, Ngũ Giác Đài đã làm nên lịch
sử: thí nghiệm thành công khả năng nới rộng tầm hoạt động
của các phi cơ không người lái vào exosphere qua việc
phóng phi thuyền không gian không người lái X-37B lên quỹ
đạo thấp 255 dặm trên mặt địa cầu. Phi thuyền X-37B là phi
thuyền đầu tiên trong thế hệ phi thuyền không người lái mới,
đánh dấu chiến lược vũ trang hóa không gian, tạo lập một
chiến trường tương lai chưa từng có.
Mùa hè năm 2010, căng thẳng quân sự giữa Mỹ
và TQ bắt đầu lên cao trong vùng Tây Thái Bình Dương, trước
đây được xem như "hồ nước khổng lồ" riêng của Hoa Kỳ.
Một năm trước đó, không ai đã có thể tiên đoán một bối cảnh
như vậy. Cũng như trước đây, trong vai trò đồng minh với
Luân Đôn, Hoa Thịnh Đốn đã từng thành công giành lấy phần
lớn uy quyền toàn cầu của Anh quốc, TQ ngày nay cũng đã sử
dụng số thu nhập từ hàng xuất khẩu qua Hoa Kỳ để tài trợ
những gì rất có thể trở thành một thách thức quân sự đối với
bá quyền Hoa Kỳ trên các tuyến hàng hải ở Á châu và Thái
Bình Dương.
Với tài nguyên ngày một gia tăng, Bắc Kinh
đang đòi hỏi một vòng cung hải phận từ Triều Tiên xuống tận
Indonesia từ lâu do hải quân Hoa Kỳ khống chế. Tháng 8-2010,
sau khi Hoa Thịnh Đốn tuyên bố "quyền lợi quốc gia của
Hoa Kỳ" ở Nam Hải và thao diễn hải quân trong vùng để
hậu thuẩn lập trường của mình, tờ báo chính thức Global
Times của Bắc Kinh đã giận dữ trả lời:
"trận đấu vật giữa Hoa Kỳ-TQ về vấn đề Nam
Hải đã nâng thách thức lên mức nghiêm trọng - ai sẽ là kẻ
thực sự ngự trị hành tinh trong tương lai".
TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI
Trong mọi trường hợp, nhiều xu thế có ý nghĩa
đã phơi bày một sự tuột dốc đáng ngạc nhiên trong bá quyền
toàn cầu của Hoa Kỳ.
Trong khi các đồng minh trên khắp thế giới
đang bắt đầu điều chỉnh chính sách để ghi nhận sự trổi dậy
của các cường quốc Á châu, chi phí duy trì trên dưới 800 căn
cứ quân sự của Mỹ ở hải ngoại ngày một trĩu nặng cuối cùng
cũng sẽ buộc Hoa Thịnh Đốn phải triệt thoái theo từng giai
đoạn. Trước nỗ lực thi đua vũ trang không gian và thượng
tầng không gian của Hoa Kỳ và TQ, tình trạng căng thẳng
giữa hai đại cường rất có thể sẽ đưa đến một xung đột quân
sự với hậu quả khó lường.
Tình trạng càng phức tạp vì các xu thế kỹ
thuật, quân sự, và kinh tế không phải chỉ tác động biệt lập.
Như đã từng xẩy ra cho các đế quốc Âu châu sau Đệ Nhị Thế
Chiến, các lực vừa nói chắc chắn còn tương tác, đan xen, và
có tác động lớn lao hơn nhiều. Phối hợp lại, hậu quả có thể
đưa đến những cuộc khủng hoảng người Mỹ chưa bao giờ được
chuẩn bị để đối phó, do đó, sẽ đe dọa xoay chuyển nền kinh
tế trong một vòng xoáy trôn ốc gây cơ hàn cho một hay nhiều
thế hệ .
Sự suy giảm quyền lực của Hoa Kỳ sẽ đem lại
nhiều cơ hội cho một trật tự thế giới mới. Trong nhiều giả
thuyết, sự trổi dậy của một siêu cường toàn cầu mới, mặc dù
không mấy chắc chắn, cũng không thể gạt bỏ. Tuy vậy, cả TQ
lẫn Liên Bang Nga, với văn hóa tự tôn, văn tự phi La Mã khó
hiểu, chiến lược quốc phòng cấp khu vực, và những hệ thống
pháp lý lỗi thời, đều chưa đủ điều kiện chủ quan và khách
quan cần thiết cho vai trò lãnh đạo toàn cầu. Vì vậy, hiện
không một siêu cường duy nhất nào có đủ điều kiện thay thế
Hoa Kỳ trong vai trò lãnh đạo.
Một cơ chế lãnh đạo toàn cầu đen tối và đáng
buồn của thế giới tương lai - một liên minh các đại công ty
đa quốc gia, những lực lượng đa phương như NATO, và những
nhà tài phiệt quốc tế..., có thể phối hợp thành một định chế
duy nhất, bất ổn, siêu quốc gia, không mang tính đế quốc. Đã
hẳn một định chế liên minh các đại công ty đa quốc gia và
các tập đoàn tài chánh đa phương vẫn có thể giữ vai trò lãnh
đạo thế giới. Tuy nhiên, quyền lợi của tuyệt đại đa số nhân
dân thế giới sẽ không được đại diện và bị bỏ quên một cách
dễ dàng và bất công.
Trong quang phổ các dạng thức lãnh đạo thế
giới tương lai khả dĩ, một hình thức độc quyền đa phương
toàn cầu nào đó cũng có thể xuất hiện trong khoảng 2020 và
2040, với những đại cường đang lên TQ, Nga, Ấn Độ, và Brazil
hợp tác với một số đại cường ngày một suy nhược, như Anh,
Đức, Nhật, và Hoa Kỳ trong một dạng lãnh đạo toàn cầu, tương
tự như một liên minh lỏng lẻo các đế quốc Âu châu đã ngự trị
một nửa nhân loại vào những năm 1900.
Một khả dĩ khác: sự trổi dậy của các bá chủ
cấp khu vực tương tự như hệ thống trật tự thế giới trước
ngày các đế quốc cận đại xuất hiện.Trong trật tự thế giới
nầy, mỗi đại cường thống lĩnh một khu vực -- Brazil ở Nam
Mỹ, Hoa Thịnh Đốn ở Bắc Mỹ, Pretoria ở Nam Phi...Không gian,
thượng tầng không gian, đại dương, không còn thuộc bá quyền
Hoa Kỳ, có thể thuộc thẩm quyền của Hội Đồng Bảo An LHQ hay
một định chế quốc tế đặc biệt nào đó.
Tất cả những kịch bản dự phóng tương lai căn
cứ trên những xu thế hiện hữu đều dựa trên giả thiết người
Mỹ, có thói quen kiêu căng trong nhiều thập kỷ bá quyền,
không thể hay sẽ không có biện pháp quản lý hay đảo ngược
tiến trình bào mòn bá quyền toàn cầu của mình.
Nếu quá trình suy sụp của Hoa Kỳ trong thực
tế sẽ diễn tiến trong 22 năm, thập kỷ đầu đã bị phung phí vì
các cuôc chiến phiêu lưu, xao lãng nhiều vấn đề dài hạn cấp
thiết, và phung phí nhiều nghìn tỉ USD cần thiết cho nhu cầu
đầu tư vào hạ tầng cơ sở.
Khả năng đánh mất mười lăm năm còn lại cũng
rất cao. Quốc Hội và Tổng Thống luôn bị tê liệt. Hệ thống
chính trị Hoa Kỳ tràn ngập tiền bạc của các tập đoàn tài
chánh và đại công ty luôn sẵn sàng gây trở ngại cho việc
thực thi những nghị trình của đảng cầm quyền. Các vấn đề cấp
thiết kể cả chiến tranh, an ninh quốc gia, giáo dục, năng
lượng, luôn bị xao lãng, khó lòng bảo đảm một hạ cánh an
toàn cần thiết để có thể tối đa hóa vai trò và sự thịnh
vượng của Hoa Kỳ trong một thế giới đang đổi thay nhanh
chóng.
Các đế quốc Âu châu đã tàn lụi, và đế quốc Mỹ
cũng trên đường suy sụp. Thậm chí người ta ngày một nghi ngờ
Hoa Kỳ, theo chân Anh quốc trước đây, có thể còn đủ khả năng
áp đặt một trật tự thế giới mới để bảo vệ quyền lợi của
chính mình, duy trì thịnh vượng, và mang dấu ấn những giá
trị tốt nhất của Mỹ.
THAY LỜI KẾT LUẬN
Trong nổ lực giảm thiểu những tai hại sau khi
Wikileaks phổ biến hơn 250.000 tài liệu mật của Bộ Ngoại
Giao, mới đây Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert Gates đã đưa ra
nhận xét: "Trong thực tế, chính
quyền [các nước ngoài] giao dịch với Mỹ vì quyền lợi của họ
đòi hỏi, không vì họ ưa thích chúng ta, không vì họ tin
tưởng chúng ta, không vì họ tin chúng ta có thể giữ bí
mật... Một vài chính quyền giao dịch với chúng ta chỉ vì họ
sợ chúng ta, một vài chính quyền khác vì kính trọng chúng
ta, phần lớn vì cần chúng ta. Như đã nói trước đây, chúng
ta, trong cốt lõi, vẫn còn là một quốc gia không thể thiếu".
Đã hẳn tư duy trên đây của Gates rõ ràng khá
ôn hòa, và phản ảnh đầu óc địa chính trị thực tiễn của một
quan chức Hoa Thịnh Đốn. Đã hẳn, Gates cũng không phải quan
chức cao cấp đầu tiên của Mỹ tin tưởng Hoa Kỳ là quốc gia
tối cần thiết. Nhiều tay chơi ở Hoa Thịnh Đốn cũng cùng
chung ý tưởng. Vấn đề là tin tức gần như hàng tuần đã làm
suy yếu dạng thức thực tiển của Gates. Khả năng của
Wikileaks, một tổ chức nhỏ bé của vài nhân vật chính trị, đã
gây nhức nhối cho siêu cường toàn cầu, nhiều lần đã rọi ánh
sáng chói chang vào bóng tối bí mật bao trùm hành động mờ ám
của giới lãnh đạo chính trị quân sự, cũng chẳng giúp được gì
nhiều cho Gates. Nếu tính thiết yếu của Hoa Kỳ không mấy ai
nghi ngờ ở Hoa Thịnh Đốn, nó vẫn là một vấn đề hoàn toàn
khác đối với thế giới bên ngoài.
Lời bình luận thông minh nhất của Simon
Jenkins trong báo The Guardian ở Anh, khi đọc những
tin tức do Wikileaks phổ biến gần đây, đã tóm tắt vấn đề: "Phung
phí tiền bạc rất choáng ngợp. Tiền viện trợ [của Mỹ] không
hề được theo dõi, kiểm toán, hay thẩm định hiệu quả. Người
ta có ấn tượng một siêu cường thế giới đang lang thang ngơ
ngác trong một thế giới không ai ứng xử như đã cam kết.
Iran, Nga, Pakistan, Afghanistan, Yemen, LHQ, tất cả đều
luôn ứng xử ngoài kịch bản. Hoa Thịnh Đốn đã phản ứng như
một con gấu bị thương, theo bản năng đế quốc, nhưng quyền
lực chẳng mang lại chút hiệu quả."
Đôi khi, để hiểu rõ hiện tại, chúng ta cũng
nên nhìn về quá khứ. Trong trường hợp nầy, nhìn xem những gì
đã thực sự xẩy ra cho các đế quốc trong lịch sử cận đại cũng
hữu ích không kém như khi nhìn thẳng vào tương lai.
©
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
24-3-2011
|