Những lúc kinh tế khủng hoảng,
người phương Tây thường trông cậy vào thẻ tín dụng, ít ra trong đoản kỳ.
Trong suy thoái, chính quyền cũng sẵn sàng chấp nhận khuy khiếm ngân sách
để duy trì hay tăng công chi và kích cầu. Tuy nhiên, trong 18 tháng suy
thoái kinh tế vừa qua, số khiếm hụt trong ngân sách nhiều quốc gia đã gia
tăng quá nhiều và quá nhanh. Vì vậy, nhiều kinh tế gia nghĩ chính quyền
cần phải có những biện pháp cứu chữa trung hạn. Ngạch số khuy khiếm 10%
GDP hay cao hơn không thể kéo dài , nhất là khi các thị trường tài chánh
âu lo tình trạng bất ổn sẽ đẩy bảo phí các trái khoản ngày một cao hơn và
tốn kém.
Áp lực của thị trường giải
thích lý do tại sao thị trường công trái đã lúc một nóng bỏng ở Nam Âu
châu. Bảo phí các trái khoản ở Hy Lạp và Bồ Đào Nha đặc biệt lên cao và
các nhà đầu tư e ngại khả năng hoàn trái của cả hai xứ. Ngân sách khuy
khiếm cũng là đề tài trung tâm trong quá trình vận động bầu cử ở Anh.
Riêng ở Hoa Kỳ, phong trào tea party của cánh hữu cực đoan đã phát
động chiến dịch chống đối các chương trình tăng công chi (kích cầu và cải
tổ y tế) của chính quyền Dân Chủ.
Không có một quy luật tuyệt
đối xác định ngạch số khuy khiếm hay công trái đến mức nào là quá cao
tương đối với kích cở của nền kinh tế. Trước cuộc đại suy thoái, khuynh
hướng đồng thuận là các xứ giàu có thể còn ở trong vòng an toàn khi số
công trái ở dưới mức 60% GDP. Tuy nhiên, ngạch số công trái ở Nhật đã vượt
quá GDP trong nhiều năm, nhưng chính phủ Nhật vẫn chưa phải đối phó với
khủng hoảng tài chánh, vì lẽ một số lớn công dân Nhật sẵn lòng mua công
trái. Nhưng một khi thị trường mất lòng tin ở trình độ minh bạch về tài
chánh của chính quyền, khủng hoảng có thể xẩy ra rất nhanh, buộc chính
quyền phải lấy những quyết định chính trị khó khăn.
Đã hẳn, khi kinh tế tăng
trưởng, đời sống của các nhà làm chính sách sẽ dễ dàng hơn. Kinh tế tăng
trưởng sẽ tự động giúp giảm bớt khuy khiếm vì số thuế thu nhập gia tăng,
chi tiêu về trợ cấp thất nghiệp giảm bớt, khả năng hoàn trái được cải
thiện, và các trái chủ hay nhà đầu tư an tâm hơn.
Trong quá khứ, nhiều quốc gia
đã ra khỏi tình trạng khiếm hụt ngân sách nghiêm trọng, thường khi sau
chiến tranh, khi quân nhân được giải ngũ và tài nguyên cần thiết cho chiến
tranh được chuyển qua các ngành sản xuất tiêu thụ phẩm. Khi đối mặt với
khuy khiếm, điều thiết yếu là các chính trị gia ngày nay phải chọn các
chính sách nhằm cải thiện viễn ảnh tăng trưởng trong trường kỳ. Họ sẽ
không thiếu cơ hội. Trong vài xứ, chính quyền có thể tăng tuổi hưu trí,
hay phát động các cải cách giúp thị trường lao động mềm dẻo hơn, hoặc cả
hai, dù thường cũng đã khá muộn màng.
Tuy nhiên, tin tưởng ở một sự
bộc phát tăng trưởng nhanh chóng và kéo dài sẽ đến bất cứ lúc nào trong
các nền kinh tế trù phú là một điều thiếu khôn ngoan. Một dân số già cỗi
hay sụt giảm thường đưa đến một tỉ suất tăng trưởng yếu ớt. Sự tăng trưởng
cũng thường èo ọp tiếp theo sau các cuộc khủng hoảng tài chánh.Trong một
tác phẩm gần đây nhan đề "This Time is Different" (Lần Nầy sẽ
Khác), Carmen Reinhart thuộc Đại Học Maryland và Kenneth Rogoff thuộc
Harvard kết luận "bằng chứng không hề chứng tỏ các quốc gia sẽ tự nhiên
ra khỏi nợ nần".
Như vậy, trừ phi vỡ nợ, hay
mặc nhiên vỡ nợ qua lạm phát, chỉ còn hai giải pháp khác: cắt giảm công
chi hay tăng thuế. Trong nhiều năm sắp tới, xung đột chính trị sẽ xẩy ra
theo hai cách đó, giữa một bên các người chịu thuế và bên kia là các người
thụ hưởng các loại công chi - một xô xát khó tránh giữa dân chịu thuế và
các công nhân viên trong khu vực công. Trong vài xứ, một đảng được xem như
đại diện dân chịu thuế (đảng Bảo Thủ ở Anh và đảng Cộng Hòa ở Hoa Kỳ) và
đảng kia đại diện cho công nhân viên (đảng Lao Động ở Anh và đảng Dân chủ
ở Mỹ).
Một xung đột khác sẽ diễn ra
giữa hai thế hệ. Ở Hoa Kỳ, trả tiền hưu trí và chi phí y tế cho người già
là gánh nặng trung hạn lớn nhất cho ngân sách. Một ngạch số khuy khiếm lớn
có thể làm nhẹ bớt những khó khăn kinh tế trong đoản kỳ nhưng để lại cho
thế hệ kế tiếp gánh nặng thuế suất cao cùng với tiền lãi và nợ nần phải
trả, phương hại đến tiềm năng tăng trưởng. Các xung đột thường đan xen:
người chịu thuế phải tài trợ hưu trí cho các công nhân viên nhà nước,
những khoản chi ít nhiều lớn hơn và dễ tiên liệu hơn trong khu vực tư.
Hậu quả của xung đột thay đổi
từ xứ nầy qua xứ khác. Cả hai phía đều có những vũ khí hùng mạnh. Những
người trả nhiều thuế nhất cũng là những người đóng góp nhiều cho giới làm
chính trị và dễ tiếp cận giới cầm quyền. Nếu không được chiếu cố như mong
muốn, họ sẽ quay qua ủng hộ các chính trị gia thân cận trong các đơn vị
láng giềng.
Đặc biệt ở Âu châu, công nhân
viên và các thành phần thụ hưởng những dịch vụ của chính quyền thường
chiếm đa số. Họ được tổ chức chặt chẻ qua các nghiệp đoàn, đồng thời cũng
là những người bỏ tiền ủng hộ những chính trị gia ra tranh cử. Như giới
lao động Pháp thường chứng tỏ, các công đoàn trong khu vực công có thể đe
dọa chính quyền với đình công và biểu tình. Các đồng nghiệp của họ ở Hy
Lạp hiện đang bắt chước hay theo gương họ.
CẮT XÉN CÔNG CHI
Theo các nhà phân tích cánh
hữu, chính quyền nên chú tâm nhiều hơn vào cắt xén công chi thay vì tăng
thuế. Họ đưa ra nhiều luận cứ.
Một cuộc nghiên cứu của NBER
năm 1996 đã kết luận: "điều chỉnh ngân sách qua biện pháp cắt giảm các
khoản chi và lương công nhân viên có nhiều cơ may thành
công hơn và có lợi cho tăng
trưởng kinh tế. Ngược lại, các điều chỉnh ngân sách dựa trên tăng thuế và
cắt giảm đầu tư công có khuynh hướng khó dài lâu và đưa đến suy thoái".
Một bài nghiên cứu của Antonio
Afonso thuộc Ngân Hàng Trung Ương Âu Châu và Davide Furceri thuộc OECD cho
thấy: những gia tăng chi tiêu công như một tỉ số GDP có khuynh hướng dính
liền với một nhịp tăng trưởng kinh tế chậm hơn. Và một bài do Policy
Exchange, một think-tank trung hữu Anh quốc, đăng tải, đã kết luận: những
nỗ lực giảm nợ thành công đã cơ sở trên cắt xén các khoản chi đến 80% (xem
bảng đính kèm).
Các
Trường Hợp Cắt Giảm Khuy Khiếm
Ngân Sách Trong Quá Khứ
Thay Đổi
Trong: |
|
Thuế Thu Nhập |
Chi Tiêu
Công |
Thăng Bằng
Ngân Sách |
Xứ |
Giai Đoạn |
% GDP |
Britain |
1931-34 |
-0,1 |
-3,7 |
3,6 |
Britain |
1975-79 |
-2,2 |
-5,1 |
2,9 |
Britain |
1982-88 |
-4,9 |
-9,2 |
4,3 |
Canada
|
1992-99 |
3,7 |
-5,8 |
9,5 |
Finland |
1994-2000 |
5,3 |
-6,7 |
12,0 |
Germany |
1996-2000
|
0,7 |
-3,9 |
4,6 |
Ireland |
1885-96 |
-3,7 |
-14,3 |
10,6 |
Netherlands |
1993-97
|
-2,5 |
-3,9 |
1,4 |
Sweden |
1993-2000 |
7,0 |
-7,8 |
14,8 |
Nguồn: Policy Exchange |
Một vài chương trình cắt giảm
khuy khiếm thành công hơn thường đi đôi với sự sụt giảm trong tỉ suất lạm
phát và lãi suất, nhờ đó, kinh tế dễ phục hồi và giúp đem lại sự ủng hộ
của cử tri đối với chính quyền. Tuy nhiên, ngày nay lạm phát cũng như lợi
nhuận trái phiếu trong nhiều quốc gia đang ở mức thấp. Vì vậy, kết quả của
biện pháp cắt giảm công chi có thể sẽ không đem lại mức lãi suất thấp hơn.
Nhưng lòng tin công chi sẽ không được cắt xén có thể sẽ khiến lãi suất lên
cao.
Tuy nhiên, cắt xén công chi là
một việc làm cực kỳ khó khăn. Chi tiêu an sinh xã hội thường tự động gia
tăng trong suy thoái; tiền hưu bổng tiếp tục gia tăng khi người già ngày
một chiếm đa số trong dân số. Các xứ Tây phương cắt giảm ngân sách quốc
phòng sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt trong thập kỷ 1990s, nhưng với
việc leo thang chiến tranh ở Afghanistan và đe dọa khủng bố, cắt giảm các
chi tiêu quân sự là điều khó thể xảy ra trong một tương lai gần. Và cũng
chẳng ai trông mong những số thu nhập dễ dàng đời một lần qua việc tư hữu
hóa các kỹ nghệ lớn trong thập kỷ 1980s dưới thời Margaret Thatcher sẽ có
thể tái diễn.
Lời hứa đóng băng các khoản
chi chuyên quyết ngoài quốc phòng và an ninh quốc nội của Barack Obama sẽ
tiết kiệm được khoảng 250 tỉ trong vòng 10 năm, cũng chẳng là bao khi
ngạch số khuy khiếm lên trên 1.000 tỉ USD.Vì vậy, chính quyền khó lòng
tránh được cắt giảm các chương trình rất nhạy cảm trên phương diện chính
trị. Những thay đổi trong an sinh xã hội và hưu bổng, không thuộc loại chi
tiêu thuộc quyền chuyên quyết của tổng thống, rất có thể sẽ là một phân bộ
trong cải cách tài chánh ở Hoa Kỳ. Ở Anh quốc, nếu phe Bảo Thủ thắng thế
trong vòng bầu cử sắp tới, họ có thể sửa đổi các điều kiện để thụ hưởng
theo chiều hướng khó khăn hơn để giảm bớt chi tiêu an sinh xã hội.
Nhiều chính quyền đã tự trói
mình bằng cách tưởng thưởng những người ủng hộ với việc làm hay trợ cấp.
Ở Hy Lạp, đảng Tân Dân Chủ hữu phái lên nắm quyền năm 2004 đã hứa tự do
hóa kinh tế. Khi rời chính quyền năm 2009, đảng Tân Dân Chủ đã gia tăng
hàng ngũ công chức lên nhiều so với lúc bắt đầu. Chính sách tưởng thưởng
các thuộc cấp có khuynh hướng đưa đến sư hiện diện và vai trò ngày một lan
rộng của nhà nước trong nền kinh tế, với ngày càng nhiều công dân tùy
thuộc ở chính quyền để có việc làm và lợi tức. Những người nầy rồi sẽ bỏ
phiếu giữ nguyên trạng. Và phải cần một cuộc khủng hoảng mới có thể buộc
chính quyền hành động chấm dứt sự bành trướng hàng ngũ các ủng hộ viên
dưới quyền.
Khi khủng hoảng thực sự xẩy
ra, thị trường có khuynh hướng đòi hỏi cắt xén chi tiêu công như một trắc
nghiệm tính cương quyết và can đảm của chính phủ. Trong bài nghiên cứu gần
đây, Reinhart và Rogoff đã nói:"Ngay cả những xứ đã cam kết trả nợ đầy
đủ đều bị bắt buộc phải xiết chặt chính sách tài chánh ngân sách nhằm
chứng tỏ tình trạng khả tín đối với các trái chủ và nhờ đó giảm bớt bảo
phí các bất trắc" Chính quyền, vì vậy, có thể
thấy các quyết định chính trị của mình tùy thuộc ở nhu cầu duy trì các thị
trường trong tầm kiểm soát. Cũng vì vậy, sự lựa chọn sẽ rất khó khăn đối
với các xứ Nam Âu Châu, những xứ đang bị trói buộc trong khu vực đồng euro
duy nhất. Họ không có sự lựa chọn phá giá đơn vị tiền tệ như họ đã nhiều
lần sử dụng trong quá khứ. Họ cũng không thể kết hợp chính sách tài chánh
kiệm ước với chính sách tiền tệ lỏng lẻo, bởi lẽ chính sách tiền tệ (đồng
euro) không do họ kiểm soát mà thuộc thẩm quyền của Liên Hiệp Âu châu.
CỬ TRI HAY TRÁI CHỦ
Nếu sự cắt giảm đòi hỏi quá
khắt khe, chính quyền các nước rất có thể không đủ ý chí gánh chịu cái giá
chính trị phải trả để thực thi. Một ví dụ điển hình đã xẩy ra năm 1931 khi
Anh quốc tìm cách duy trì kim bản vị. Chính quyền Lao Động lúc đó hiểu rõ
sự cần thiết phải cắt giảm khuy khiếm ngân sách, nhất là phụ cấp thất
nghiệp, để xoa dịu thị trường; ngược lại, số trử kim bằng vàng của Ngân
Hàng Anh Quốc sẽ cạn kiệt trong vòng hai tuần lễ. Nội các không thể thống
nhất lập trường. Ramsay MacDonald, trong tư cách Thủ Tướng, đã phải đảm
nhận trách nhiệm của liên minh, đa số thuộc phe Bảo Thủ, và đã bị phe tả
nặng lời chỉ trích mãi cho đến ngày nay. Sau các nỗ lực vừa nói, kế hoạch
kiệm ước đã thất bại; và trong vòng vài tháng, Anh Quốc đã phải bải bỏ kim
bản vị.
Giai đoạn 1931, trong lịch sử
Đảng Lao Động, đã được xem như "giai đoạn tuột dốc của các ngân hàng"
(bankers' ramp). Trong thời gian đó các ngân hàng thúc đẩy chính quyền
phải có những hành động bất lợi cho giới nhà nghèo. Những chính quyền ngày
nay cũng có thể bị cám dỗ đổ lỗi cho giới đầu cơ - từ các ngân hàng gia
cho đến các nhà quản lý các quỹ đầu cơ (hedge-fund managers) - là nguyên
nhân của các thất bại của chính mình. Ý tưởng các trái chủ rất có thể lo
lắng khả năng hoàn trái của chính quyền, và do đó, đòi hỏi một lãi suất
cao, hình như khó lòng được các chính trị gia chấp nhận. Tại diễn đàn kinh
tế thế giới Davos trong tháng 1-2010, George Papandreou, thủ tướng Hy Lạp,
đã tuyên bố:" Đây là một sự tấn công khu vực đồng Euro bởi các nhóm đặc
quyền , chính trị hoặc tài chánh, và các quốc gia thường được sử dụng như
mắt xích yếu đuối, nếu quý vị muốn, của khu vực euro".
Tuy vậy, chính quyền Hy Lạp đã
phải chấp nhận cắt giảm khuy khiếm. Trong địa hạt nầy, Papandreou có vài
lợi điểm quyết định: công luận Hy Lạp chấp nhận các biện pháp kiệm ước;
Papandreou đã thắng cử vẻ vang năm rồi; phe đối lập ủng hộ ông; và đảng
Pasok của ông có quan hệ tốt với các nghiệp đoàn. Các đề xuất cắt giảm
ngân sách của đảng tả phái có thể sẽ được thông qua dễ dàng.
Sự đoàn kết và ủng hộ trong xã
hội có thể giải thích chính sách thắt lưng buộc bụng thành công của Thụy
Điển sau cuộc khủng hoảng ngân hàng vào đầu thập kỷ 1990s. Chính quyền Dân
Chủ Xã Hội đã thành công chuyển một khuy khiếm ngân sách 9,3% GDP năm 1994
thành một thặng dư 1,2% năm 1998. Công chi sụt giảm khoảng hơn 5% GDP và
thuế thu nhập cũng gia tăng tương đương. Tỉ suất tăng trưởng trung bình
3,2 trong các năm 1994-98 và thất nghiệp năm 1998 thấp hơn năm 1994 - một
tình trạng kinh tế chính trị tốt đẹp.
Chính trị nội bộ bên trong
chính quyền có thể giúp hoặc gây trở ngại cho việc cắt giảm khuy khiếm.
Canada đã ba lần thất bại trong chính sách cải cách tài chánh trước khi
một chương trình kiệm ước thành công được công bố trong ngân sách của đảng
Liberal Party năm 1995. Các nỗ lực trước đó đã bị các bộ ngành chận đứng.
Lần thứ tư, các bộ ngành được khuyến khích tự đề xuất các khoản chi phải
hy sinh - và được thông báo trước ngân sách có thể sẽ bị cắt xén đồng đều
khoảng 10% nếu các bộ ngành không đồng ý. Sự cắt giảm đã được thực hiện
trong vài địa hạt, kể cả quốc phòng, trợ cấp các nông trại, và phụ cấp
thất nghiệp. Ngân sách sau đó đã được cải thiện từ khuy khiếm 6,7% GDP
năm 1994 đến một thặng dư khiêm tốn năm 1997.
Rất có thể tăng thuế, nhất là
đối với người giàu, là cần thiết để bảo đảm dân chúng chấp nhận chia sẻ
nỗi đau chung. Nhưng tăng thuế nhiều có thể phương hại đến kinh tế. Trong
thập kỷ 1990s, một vài câu chuyện thành công đáng lưu ý liên hệ đến những
xứ đã giảm thuế để thu hút các doanh nghiệp và tư bản. Ireland, đã được
biết như con hổ Celtic vì tỉ suất tăng trưởng cao, chỉ áp dụng một thuế
suất 12,5% cho các công ty và quyết định không tăng thêm khi thực thi
chính sách thắt lưng buộc bụng trong năm 2009.
Khuynh hướng thuế công ty
trong 30 năm qua liên tục sụt giảm. Một cuộc điều tra của Robert Carroll
thuộc American University ở Washington, DC, cho thấy thuế suất cao nhất
trong các xứ OECD (trừ Hoa Kỳ) đã sụt giảm từ 51% vào đầu thập kỷ 1980s
xuống còn 32% năm 2009.
Nếu giới kinh doanh bị thu hút bởi thuế thấp thì họ cũng ra đi khi thuế
suất gia tăng.
Các chính quyền Âu châu với
thuế suất cao trong quá khứ thường phàn nàn về sự cạnh tranh của các quốc
gia như Ireland. Cuộc khủng hoảng hiện nay có thể đưa đến nhiều lời kêu
gọi phối trí các chính sách thuế khóa . Thực vậy, nhiều quốc gia sẽ đồng
thời tăng thuế nhằm làm nản lòng các doanh nghiệp di chuyển từ nước nầy
qua nước khác. Mọi chuyện tùy thuộc xứ nào sẽ bắt đầu trước; có lẽ sẽ dễ
dàng hơn nếu các xứ có thuế suất thấp khởi đầu việc tăng thuế.
Những người có thu nhập cao
thường cũng dễ dàng di chuyển. Thực vậy, nhiều chuyên viên cao cấp Pháp đã
di chuyển qua London trong thập kỷ vừa qua đến độ tổng thống Pháp Nicolas
Sarkozy phải tìm cách thuyết phục họ trở về , thường khi với ít nhiều
nhượng bộ về thuế. Anh quốc dần dà cũng mất sức quyến rủ đối với người
nước ngoài có lợi tức cao. Theo sự tính toán của
PricewaterhouseCoopers, một công ty kế toán, nhà cầm quyền Anh quốc sẽ
đánh thuế các viên chức có gia đình với lợi tức 250.000 bảng Anh
(US$370,000) cao hơn bất cứ xứ nào trong Nhóm G20 trừ Italy.
Nhu cầu của các quốc gia tối
đa hóa số thuế thu nhập từ công dân của mình đã đưa đến nhu cầu phải quan
tâm nhiều hơn đến việc ngăn ngừa trốn thuế. Các quốc gia trong Nhóm G20 đã
thúc đẩy các xứ đánh thuế thấp như Thụy Sĩ cung cấp thông tin về các khách
hàng ngoại quốc có tiền ký thác. Tuy nhiên, có nhiều cách chính đáng để
các doanh nghiệp và cá nhân di chuyển đến những xứ có chế độ thuế khóa
thuận lợi hơn.
Vì vậy, điều cám dổ sẽ là áp
đặt những sắc thuế khó lẩn tránh, như thuế trên hàng bán ra và thuế giá
trị gia tăng. Điều bất lợi chính trị của các sắc thuế nầy là gánh nặng
thuế sẽ đè lên vai người nghèo nhiều hơn là giới giàu có. Đây là điều ít
được ai ưa thích, nhất là vì nhiều người xem cuộc khủng hoảng hiện nay là
do lỗi của các ngân hàng giàu có tham lam. Hơn nữa, nếu thuế cao làm giảm
số cầu, kinh tế có thể rơi trở lại suy thoái. Một sự gia tăng sắc thuế
đánh trên các tiêu thụ phẩm năm 1997 ở Nhật vẫn còn bị lên án đã làm trở
ngại cho đà phục hồi kinh tế.
Chính vì vậy, chính quyền các
nước Âu châu đã đưa ra một hổn hợp nhiều biện pháp trong các chương trình
kiệm ước. Hy Lạp, Ireland, Portugal và Spain, tất cả đều hứa sẽ điều chỉnh
luật lương bổng trong khu vực công bằng cách cắt xén hay đóng băng lương
bổng hay giảm bớt công nhân viên. Hy Lạp đã loan báo một đợt cắt giảm mới
ngày 3-3-2010. Nhưng những gói kiệm ước cũng đã chứa đựng nhiều biện pháp
tăng thuế (thuế xa lộ ở Portugal và thuế nhiên liệu ở Hy Lạp) và tấn công
nạn trốn thuế.
Ở Hy Lạp, nạn trốn thuế lan
tràn trong giới chuyên nghiệp với rất ít công dân khai lợi tức cao. Phản
ứng của chính quyền là tìm cách khuyến khích việc sử dụng các biên nhận.
Những người lương cao khai khấu trừ thuế cá nhân 12,000 euros (US$16,270)
sẽ phải xuất tŕnh biên nhận ít ra bằng với mức khấu trừ.
Mặc dù cố gắng san sẻ
nỗi đau,
chính quyền Hy Lạp đã phải đối diện với một loạt đình công của công nhân
viên nhà nước. Chính quyền có thể dùng áp lực tài chánh từ bên ngoài như
một lý do để ban hành các cải cách, nếu không, sẽ không thể được chấp nhận
về phương diện chính trị. Nhưng đây là một thế cân bằng rất tinh tế. Cử
tri có thế chống đối nhiều hơn nếu các biện pháp kiệm ước được coi như áp
đặt bởi các nước ngoài như Liên Hiệp Âu Châu hay IMF.
NGƯỜI DÂN KHÔNG NỔI LOẠN
Lord Salisbury, thủ tướng Anh,
và giới bảo thủ trong thế kỷ 19 e ngại chế độ dân chủ có thể dẫn đến việc
hủy bỏ quyền tư hữu. Số con nợ ngày một đông hơn chủ nợ, và có thể chiếm
đa số cử tri.
Khuynh hướng bi quan nầy còn
cần phải được chứng minh là đúng. Đôi khi, sức mạnh không thể cưỡng chế
lại gặp phải sức cản bất khả di dịch. Ở California, chẳng hạn, cử tri có
quyền bỏ phiếu về những chính sách tài chánh thuế khóa đặc biệt qua các
cuộc trưng cầu dân ý. Kết quả là mức trần thuế không có giới hạn rõ ràng
trên công chi. Iceland sắp đem lại một thử thách đặc biệt đối với chính
sách nầy với cuộc trưng cầu dân ý, trong đó cử tri được hỏi chấp nhận hay
bác bỏ các điều kiện bồi thường cho các người ngoại quốc có tiền ký thác
trong các ngân hàng Icelandic đã bị phá sản.
Tuy nhiên, những
nỗ lực của
Canada và Sweden cho thấy có thể có tiến bộ nếu cuộc khủng hoảng đủ nghiêm
trọng. Và các chế độ toàn trị hình như chẳng hữu hiệu gì hơn các thể chế
dân chủ. Các chế độ quân phiệt ở châu Mỹ La Tinh (ngoại trừ Chile) có
thành tích kinh tế tồi tệ. Những chế độ nầy xem nhà nước như nguồn cung
cấp công ăn việc làm đệm cho các sĩ quan và trợ cấp cho các xí nghiệp sản
xuất vũ khí. Thêm vào đó, chính tính thiếu chính đáng của chế độ có thể
cám dỗ các nhà độc tài mua chuộc nhiều thành phần cử tri.
Tuy nhiên, các thể chế dân chủ
đang đối diện với các quyết định khó khăn trong những năm sắp đến. Một
trong những vấn đề gai góc nhất là hưu trí, với cái giá vượt xa những gói
cứu trợ các ngân hàng gần đây. Khi chế độ hưu bổng được thủ tướng Đức,
Otto von Bismarck, du nhập năm 1889, tuổi thọ trung bình là 45 tuổi; và ý
tưởng là cung cấp một số lợi tức cho những ai đơn thuần không thể tiếp tục
làm việc. Những phụ nữ đương thời với tuổi thọ 65 có thể hưởng 20 năm hưu
trí.
Ngay cả lối tính toán giản dị
đó trước hết cũng đã dựa trên giả thiết người ta làm việc đến 65 tuổi.
Nhiều người chủ, nhất là trong khu vực công, có thói quen cho nhân công
nghỉ hưu vào tuổi trên dưới 60. Người Đức, chẳng bao lâu nữa sẽ phải đối
diện với tuổi hưu trí trong khu vực nhà nước vào tuổi 67, sẽ cảm thấy hết
sức khó chịu khi được yêu cầu cứu trợ người Hy Lạp, những người được quyền
hưu trí ở tuổi 63.
Ở Anh, các công nhân viên nhà
nước vẫn còn là thành viên của chế độ hưu trí dựa trên mức lương cuối cùng
hay chế độ lương hưu được ấn định trước (final-salary,or defined-benefit,
schemes), trong khi các nhân công mới trong các công ty tư lại thường có
chế độ hưu trí dựa trên phần lương đóng góp với số tiền hưu bất định
(defined-contribution schemes with uncertain benefits). Sự sai biệt có thể
lên đến 30% bảng lương.
Luật nâng tuổi hưu trí, có lẽ
lên 70, và cắt xén tiền hưu trong khu vực công sẽ đem lại một số tiết kiệm
khiêm tốn trong đoản kỳ, nhưng sẽ vô cùng lớn lao trong trường kỳ. Tuy
nhiên, biện pháp nầy sẽ không được nhiều người ủng hộ và gây bất mãn trong
giới công nhân và nghiệp đoàn.Tỉ lệ công nhân trong hay gần tuổi nghỉ hưu
ngày một gia tăng; và những người càng già càng có khuynh hướng đi bỏ
phiếu nhiều hơn các cử tri trẻ tuổi. Tuy nhiên, nếu không cải cách, các cử
tri trẻ tuổi, không mấy quan tâm đến quyền bầu cử, sẽ phải gánh chịu gánh
nặng thuế khóa ngày một gia tăng.
Nói một cách ngắn gọn, cùng
thời gian chúng ta sẽ chứng kiến ngày một nhiều hơn các xung đột liên quan
đến ngân sách khiếm hụt trong những năm tháng phía trước : người chịu thuế
chống lại các công nhân viên trong khu vực công; người già chống lại người
trẻ. Các chính sách được lựa chọn một cách khôn ngoan nhằm đem lại tăng
trưởng kinh tế trong trung và dài hạn có thể tiết giảm phần nào tính
nghiêm trọng của sự cọ xát. Dù sao các xung đột tương lai cũng sẽ vô cùng
gay go.
HY LẠP VÀ KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÁNH
George Papaconstantinou, bộ
trưởng tài chánh Hy Lạp, ví nỗ lực lèo lái Hy Lạp qua tai họa kinh tế như
"thay đổi hướng đi của tàu Titanic". Cho đến tuần rồi, hình như Hy
Lạp đang trôi dạt đến tình trạng vỡ nợ. Hai gói kiệm ước đã không thành
công trong việc thuyết phục các đối tác trong Liên Hiệp Âu châu - hay các
thị trường tài chánh - là các biện pháp cắt xén khiếm hụt ngân sách năm
nay từ 12,7% GDP xuống còn 8,7% có thể đạt mục tiêu.
Các nhà phê bình ở Brussels
cho biết chính quyền Xã Hội ở Hy Lạp đã trông cậy quá nhiều vào cam kết
cắt giảm nạn trốn thuế và thu nhập từ giới giàu có, hơn là cắt giảm chi
tiêu, nhất là lương bổng và hưu trí trong khu vực công. Thị trường đã đẩy
mạnh bảo phí các trái phiếu của Hy Lạp lên trên mức kỷ lục của Đức. Các
trái phiếu với thời hạn 10 năm của Hy Lạp đã phải chịu một tỉ suất lợi
nhuận 6% (yields), gấp đôi tỉ suất lợi nhuận ở Đức.
Tuy nhiên, vào ngày 3-3-2010,
tâm lý đã thay đổi. Cuối cùng, thủ tướng George Papandreou đã đích thân
đem hết uy tín bảo đảm các chương trình kiệm ước. Chính phủ của ông đã
loan báo vài biện pháp khắc khổ: tăng thuế suất cao nhất đối với thuế giá
trị gia tăng, từ 19% lên 21%, trên nhiên liệu, thuốc lá, và rượu; đóng
băng tiền hưu trí, và cắt giảm 30% tiền thưởng Giáng Sinh, Easter, và mùa
hè cho công chức. Biện pháp cuối tương đương với cắt một tháng lương đối
lối 700.000 công nhân viên nhà nước. Ngày 4-3-2010, Hy Lạp lại tiếp tục
bán vài loại trái phiếu.
Papandreou trước đó đã bác bỏ
các lời cảnh cáo của Brussels và Berlin là phải làm nhiều hơn nữa. Ông đã
thay đổi thái độ sau một nhận định thẳng thắn của Olli Rehn, ủy viên kinh
tế mới của Âu châu nhân chuyến viếng thăm Athens tuần rồi: các biện
pháp kiệm ước mới rất cần thiết để đạt mục tiêu cắt giảm khuy khiếm năm
nay. Giờ đây, Papandreou cho rằng Hy Lạp đã áp dụng tất cả những biện
pháp, đau đớn nhưng cần thiết, để xứng đáng được các đối tác Âu châu ủng
hộ, nhưng không cho biết dưới hình thức nào.
Hy Lạp cần tới 27 tỉ euros
trong hai tháng tới để tái tục số nợ đáo hạn. Theo các ngân hàng gia, nếu
đạt được con số nầy, hơn nửa số 53 tỉ euros cần vay sẽ được bảo đảm và áp
lực của thị trường sẽ giảm bớt. Một phương cách có thể là phải thuyết phục
các quốc gia trong khu vực euro mua trái phiếu của Hy Lạp, có lẽ bằng cách
cung cấp bảo đảm đối với giới đầu tư.
"Chúng tôi muốn có thể vay với
cùng lãi suất như các nước thành viên khu vực euro khác",
Papandreou nói, có lẽ quá lạc quan vì thành tích khuy khiếm khổng lồ và lề
lối kế toán thiếu trung thực của Hy Lạp. Một mặt khác, như ông ta đã nêu
rõ, Hy Lạp không thể đủ điều kiện để tiếp tục vay mượn vô hạn định với bảo
phí 350 điểm cao hơn Đức. Những thành quả của các biện pháp kiệm ước có
thể tan biến bởi bảo phí cao như vậy.
Các cuộc viếng thăm sắp tới
của Papandreou đến Berlin, Paris và Hoa Thịnh Đốn có thể giúp giải quyết
vấn đề nợ nần của Hy Lạp. Thủ Tướng Đức, Angela Merkel, đã xem xét sự khả
dĩ giúp song phương cho Hy Lạp, mặc dù nhấn mạnh bà chưa sẵn sàng để thảo
luận vấn đề viện trợ với Papandreou. Người Đức vẫn còn e ngại một bất trắc
tinh thần: cứu trợ có thể có nghĩa Hy Lạp không phải chịu thiệt hại gì sau
nhiều năm theo đuổi chính sách tài chánh vô trách nhiệm và có thể trở
thành một tiền lệ xấu cho những thành viên không trả được nợ khác trong
khu vực euro. Tòa Án Hiến Pháp Đức hai thập kỷ trước đây đã phán quyết
thỏa ước Maastricht chỉ có thể chấp nhận được nếu "các điều khoản dự
liệu không cứu trợ" được tôn trọng - vì vậy, mọi cứu trợ phải được trá
hình để tránh các thách thức luật pháp. Tuy nhiên các ngân hàng Đức đang
ở trong tình trạng lưỡng nan vì nhiều món nợ của Hy Lạp và các xứ Địa
Trung Hải lớn đến nỗi khó tránh một hình thức trưng cầu ý kiến nào đó của
các cử tri.
Nicolas Sarkozy hình như sẵn
sàng giúp hơn, mặc dù Hy Lạp có thể chịu áp lực mua nhiều chiến thuyền
(frigates) đắt tiền của Pháp cho hải quân. Đây không phải một thỏa ước
Papandreou ưa thích vì Recep Tayyip Erdogan, thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ, vừa mới
đề nghị hai xứ láng giềng thù nghịch trước đây nên thỏa hiệp cắt giảm chi
tiêu quốc phòng.
Để củng cố thế mạnh đối với
các đối tác trong khu vực euro, Papandreou đe dọa sự khả dĩ thương thảo
một khoản vay phòng hờ với IMF. Theo các viên chức Hy Lạp, điều kiện cũng
chẳng khắt khe gì hơn các biện pháp kiệm ước mới đây. Có lẽ Papandreou
cũng đã quá lạc quan. IMF có lẽ sẽ yêu cầu Hy Lạp sa thải hàng nghìn công
nhân viên nhà nước và cắt xén hưu bổng khá quan trọng.Tuy vậy, như một
quan chức Hy Lạp ghi nhận: "Ít ra với IMF, quý vị có thể khỏi lo lắng
phải vay tiền từ đâu để tài trợ các công trái".
Các công đoàn Hy Lạp rất giận
dữ về sự cắt giảm tiền thưởng, trên số cắt giảm 4% lương họ đã gánh chịu.
Đình công lan tràn. Ngày 4-3-2010,các thành phần chống đối đã chiếm bộ tài
chánh trong một thời gian ngắn. Vài người đình công như giới tài xế taxi
không được nhiều người ủng hộ. Nhiều người thông cảm hơn với giới hưu trí
phải gánh chịu vừa tiền hưu bị đóng băng vừa tác động của thuế gia tăng.
Họ sẽ xuống đường. Một thợ ống nước hưu trí ta thán: Bạn không thể sống
với 400 euro mỗi tháng. Cho đến nay, Papandreou còn được ủng hộ. 60%
dân Hy Lạp chấp nhận các biện pháp khắc khổ cần thiết.
Lo sợ đang bao trùm Brussels
về lịch thực thi các kế hoạch mới. Hy Lạp sẽ hoàn tất tái thẩm định luật
thuế vụ nay mai và sẽ đưa ra các đề nghị cải cách chế độ hưu trí nhà nước
hiện chiếm trên 11% GDP. Nạn thiếu nhân viên đủ năng lực sẽ gây khó khăn
cho việc bảo đảm thành đạt các mục tiêu mới. Nếu
Hy Lạp muốn đi đúng hướng, Papaconstantinou và cán bộ của ông sẽ phải bỏ
ra nhiều thời gian cực lực làm việc.
TRƯNG CẦU DÂN Ý Ở ICELAND
Tổng thống Iceland thường chỉ
là một nhân vật tượng trưng phi chính trị ít được biết đến. Nhưng
Olafur Ragnar Grimsson đã trở thành một anh hùng dân tộc khi từ chối
ký duyệt dự luật đã được Althingi - quốc hội Iceland - khít khao thông
qua, để trả nợ cho Anh quốc và Hà Lan. Hai chính phủ Anh và Hà Lan đã cảm
thấy bị bắt buộc phải cứu trợ các khách hàng ký thác tiền ở Icesave, một
dịch vụ internet thuộc quyền sở hữu của ngân hàng Landsbanki đã bị phá
sản, và giờ đây chờ đợi Iceland hoàn trái. Tổng thống Iceland từ chối, và
quyết định đạo luật phải được đưa ra trưng cầu dân ý ngày 6-3-2010, một
việc hầu như chắc chắn sẽ bị một đa số cử tri lớn lao bác bỏ.
Đã hẳn cử tri và tổng thống sẽ
rất hồ hởi, nhưng kết quả trưng cầu dân ý tiêu cực rất có thể bất lợi cho
Iceland. Thủ tướng, Johanna Sigurdardottir, cầm đầu một liên minh
khập khểnh trước cuộc trưng cầu dân ý, rất có thể sẽ sụp đổ. Và điều đáng
lo ngại hơn là các tác động đối với số phận chương trình trị giá 4,6 tỉ
USD của IMF dành cho Iceland. IMF cho biết chương trình nầy không nên tùy
thuộc vào vụ tranh chấp Icesave. Nhưng các quốc gia Bắc Âu, chấp thuận các
khoản cho vay song phương để hổ trợ gói cứu trợ IMF, lại từ chối xúc tiến
thỏa hiệp. Không có hậu thuẩn của các xứ nầy, chương trình đang bị đóng
băng. Áp lực tài chánh đang gia tăng. Để đáp ứng đòi hỏi của các chủ nợ,
Iceland cần phải tìm mọi cách vay khoảng 2 tỉ trong năm 2011 và 500 triệu
trong năm 2012. Cơ quan Moody's đã cảnh cáo là viễn ảnh ngày một ít sáng
sủa của thỏa ước Icesave có thể khiến Moody's phải đi theo các cơ quan
thẩm định tín dụng khác hạ thấp trái khoản của Iceland xuống mức vô giá
trị.
Vụ tranh chấp cũng đang làm lu
mờ hy vọng của bà Sigurdardottir gia nhập Liên Hiệp Âu châu (EU). Ngày
24-2-2010, Ủy Hội Âu Châu khuyến cáo các cuộc thảo luận về thành viên mới
của EU nên bắt đầu và ám chỉ Iceland có thể sớm được gia nhập. Nhưng vì vụ
Icesave, dư luận quần chúng Iceland đang thay đổi. Các cuộc thăm dò công
luận cho thấy một nửa số cử tri chống và chỉ 1/3 ủng hộ việc gia nhập EU.
Hai chính phủ Anh và Hà Lan
cải chính tin cho rằng họ đang gây trở ngại cho thỏa ước IMF-Iceland, hay
việc Iceland đang xin gia nhập EU. Tuy nhiên, rõ ràng họ đang dùng ảnh
hưởng của mình để áp đặt những điều kiện khắt khe hơn đối với việc thanh
toán các khoản nợ Icesave. Trong những cuộc thương thảo gần đây nhằm tránh
trưng cầu dân ý, chính quyền Iceland đã giành được vài nhượng bộ từ phía
chính quyền Anh và Hà Lan. Nhưng cử tri Iceland không mấy hài lòng . Họ
tin hai quốc gia đầy nhẫn tâm nầy đang lợi dụng hoàn cảnh một nước bé nhỏ
đang gặp nhiều khó khăn trong khủng hoảng tài chánh toàn cầu. Lòng tin nầy
sẽ kéo dài trừ phi Anh quốc và Hà Lan đột nhiên hào phóng hơn.
AI CHỊU GÁNH NẶNG
Giải pháp giảm bớt ngạch số
khuy khiếm hay công trái là vấn đề đang tranh cải trong nhiều xứ hiện nay.
Các cuộc tranh luận sẽ gay gắt hơn vì ngạch số khuy khiếm ngân sách hiện
nay quá lớn và kéo dài trong nhiều năm. Với các nền kinh tế phát triển
hiện còn quá yếu, chính quyền còn cần vay mượn nhiều trong một thời gian
khá dài. Nhưng thị trường các trái phiếu ngày một âu lo , nhất là khi các
nền kinh tế Âu châu ngày một yếu kém. Hy Lạp bị buộc phải loan báo một gói
các biện pháp kiệm ước thứ ba trong tuần rồi, sau khi các nỗ lực ban đầu
đã không thành công trong việc xoa dịu âu lo của thị trường và các xứ lân
bang. Mặc dù Anh quốc chỉ có một tỉ suất nợ thấp so với Hy Lạp và thời
gian đáo hạn trung bình 14 năm, đồng sterling cũng đã mất giá trong tuần
qua, với các trái chủ hoảng sợ trước viễn ảnh một quốc hội không đạt được
đồng thuận. Đã hẳn, đối với ba nền kinh tế lớn nhất thế giới - Hoa Kỳ, Đức
và Nhật, áp lực ít nặng nề hơn. Tuy nhiên, Nhật đang nợ nhiều và Hoa Kỳ
với một chính quyền phá sản và thế hệ baby-boomers ngày một già.
Nếu thế giới do các kinh tế
gia lèo lái, việc giảm bớt khuy khiếm có thể là một hành vi tái lập quân
bình vô cùng phức tạp. Đối với các chính trị gia, một câu hỏi rất có thể
lấn át tất cả: Ai sẽ phải trả nợ? Câu trả lời thay đổi tùy xứ. Nhưng danh
sách luôn bao gồm: người chịu thuế, công nhân viên nhà nước, các người
hưu trí, các người sử dụng các dịch vụ y tế công cọng, các nhà đầu tư
ngoại quốc, và các thế hệ tương lai. Trận tuyến cũng đã bắt đầu rõ
ràng: các cuôc đình công của các công đoàn trong khu vực công ở Hy Lạp, và
"phong trào tea parties" với các người phản đối tăng thuế ở Hoa Kỳ.
Theo các nhà phân tích hữu
khuynh, hai câu trả lời dễ được các chính trị gia vồ vập hơn tất cả những
cắt xén chi tiêu và tăng thuế.
Trước hết là phải chân thật về
kích cở của vấn đề. Kế toán của khu vực công thường mang tính xảo thuật.
Các trái chủ sẽ trừng phạt các chính quyền với các con số lẩn tránh, như
người Hy Lạp đã khám phá. Và các cử tri khó lòng có thể phán đoán phải
giảm bớt cái gì nếu họ không biết rõ những gì đã được hứa hẹn. Những đồn
đãi ở lục địa Âu châu về các âm mưu Anglo-Saxon của bọn đầu cơ tham lam
cũng thiếu chân thành. Các nhà đầu cơ không sáng chế ra khuy khiếm hay
khiếm hụt. Như một nhà phân tích ngân hàng đã nhận định:"Anh không thể
chỉ trích gương soi vì diện mạo của mình xấu xí".
Kế đến là phải chú tâm vào
tăng trưởng kinh tế. Tỉ suất tăng trưởng cao sẽ làm thị trường yên lòng,
gia tăng thuế thu nhập, giảm bớt trợ cấp thất nghiệp và an sinh xã hội. Vì
vậy, các chính trị gia phải tránh các chính sách làm giảm tỉ suất tăng
trưởng trong trường kỳ, như bảo vệ mậu dịch và tăng thuế, và phải tập
trung vào các biện pháp tăng cường tiềm năng tăng trưởng, như thị trường
lao động mềm dẻo hơn và các cải cách làm gia tăng năng suất. Dù tăng bất
cứ loại thuế nào, Nhật sẽ không thể giải quyết được các khó khăn tài chánh
nếu kinh tế không tăng trưởng nhanh. Nhiều chính quyền Âu châu cũng đã đi
vào con đường sai lầm đó.
Theo các chuyên gia và chính
trị gia hữu phái, ngay cả khi giả thiết đa số chính quyền các nước sẽ
trung thực hơn và kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh hơn, người ta vẫn đứng
trước nhiều sự lựa chọn khó khăn. Vấn đề chính là giữa các thế hệ. Một vài
hứa hẹn, nhất là hưu bổng trong khu vực công và dịch vụ y tế, có thể áp
đặt một gánh nặng quá đáng lên các thế hệ tương lai. Các người Mỹ trung
niên đã viết chi phiếu tiêu xài dùng các trương mục của con cái. Giảm
thiểu những hứa hẹn đó , chẳng hạn, bằng cách nâng cao tuổi hưu trí, là
điều kiện tiên quyết để cải thiện tài chánh công khắp nơi, ngay cả khi
không giúp giảm bớt được nhiều khiếm hụt trong đoản kỳ.
Trận tuyến trước mặt , như đã
khởi đầu trong nhiều quốc gia Âu châu, là giữa người chịu thuế và các công
nhân viên nhà nước, và giữa tăng thuế và cắt giảm chi tiêu công. Trên
phương diện chính trị, cuộc so tài đang ngang ngửa, giữa các công đoàn
hùng mạnh và các người đóng thuế nhiều - các công ty và các người có lợi
tức cao - những thành phần thường được các chính trị gia lắng nghe và ủng
hộ. Trên bình diện kinh tế, phần lớn sự điều chỉnh phải đến từ hình thức
cắt giảm công chi.
KHÔNG CÓ GIẢI PHÁP THAY THẾ
Theo các tác giã hữu khuynh,
nhà nước nếu phải can thiệp trong thời gian thiếu thanh khoản và trước tầm
vóc của cuộc khủng hoảng ngân hàng, vai trò nới rộng của khu vực công cũng
chỉ nên tạm thời. Họ đưa ra luận cứ: Điều nầy không chỉ mang tính thiên
lệch ý thức hệ hữu phái, các cuộc nghiên cứu kinh tế cũng đều cho thấy các
biện pháp điều chỉnh tài chánh thuế khóa dựa trên cắt giảm công chi
thường đem lại kết quả khả quan hơn dựa trên tăng thuế. Đã hẳn, vài thứ
gia tăng thuế có thể cần thiết về phương diện chính trị để thuyết phục cử
tri gánh nặng đang được sẻ chia; nhưng tăng thuế, như Nhật đã áp dụng năm
1997, có thể giết chết đà hồi phục.
Trong quá khứ, vài chính quyền
đối phó với nợ bằng cách tự xóa nợ hay làm ngơ. Iceland đã bỏ phiếu lựa
chọn một hình thức nhẹ nhàng của một giải pháp như thế trong tuần qua. Sự
đe dọa trầm trọng hơn hiện thời là các quốc gia bị cám dổ giảm nợ bằng
giải pháp tăng lạm phát. Nhưng đây là một lựa chọn nguy hiểm và còn có thể
bất khả thi vì thị trường có thể thấy trước sự khả dĩ nầy và tăng bảo phí
đối với trái phiếu.
Mọi giải pháp các chính quyền
lựa chọn đều khó khăn. Trong khi thời điểm tín dụng quá lỏng lẻo dễ dàng
đã nhường chỗ cho một kỷ nguyên kiệm ước, tính nhất trí trong xã hội trong
nhiều quốc gia đang được thử thách. Không phải tất cả đều sẽ thành công.
Trong vòng vài năm tới, sự nghiệp của nhiều chính trị gia sẽ được quyết
định trên thị trường trái phiếu.
GS Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.