Kinh tế thế giới giàu đang trong tình trạng tồi tệ. Từ đầu tháng 8-2011,
nhiều tín hiệu báo động đã được ghi nhận. Ở Âu châu, tỉ suất lợi
nhuận của trái phiếu thời hạn 10 năm ở Ý và Tây Ban Nha đã lên trên
6%. Hoa Kỳ trong khi đó đã tỏ ra âu lo khi tầm cỡ an toàn tín dụng
đã bị xuống cấp bởi một trong những cơ quan thẩm định lớn - S&P's.
Trên khắp thế giới, các thị trường chứng khoán chao đảo, một vài
thị trường đã ghi nhận mức độ sụt giảm lớn nhất trong một ngày kể từ
2008. Chứng khoán các ngân hàng cũng sụt giảm mạnh, một chỉ dấu bất
ổn trầm trọng trong hệ thống tài chánh.
Các ngân
hàng trung ương đã phải can thiệp. Ngân Hàng Trung Ương Âu Châu
(ECB) cho biết có thể ứng cứu Tây Ban Nha và Ý qua việc mở rộng
chương trình mua trái phiếu của hai xứ nầy. Cùng lúc, Cục Dự Trữ
Liên Bang Hoa Kỳ cũng đã thông báo sẽ giữ mức lãi suất thấp gần số
không ít ra cho đến năm 2013, và ám chỉ có thể có nhiều biện pháp
khác hỗ
trợ nền kinh tế. Tỉ suất lợi nhuận các trái phiếu Ý và Tây Ban Nha
đã sụt giảm phần nào. Đà suy sụp trên thị trường chứng khoán đã tạm
thời dừng lại, dù chỉ ngắn ngủi, khi sự âu lo lan tràn tới Pháp.
Mặc dù
các nền kinh tế đang lên vẫn tăng trưởng đủ mạnh để duy trì tăng
trưởng toàn cầu, làn sóng bi quan ở Âu châu và Hoa Kỳ đang đè nặng
lên toàn thế giới.
ÂU CHÂU
VÀ HOA KỲ
Tâm trạng
bi quan rõ ràng có gốc rễ từ các dữ kiện kinh tế, nhất là từ Hoa Kỳ,
cho thấy đà hồi phục hết sức chậm chạp. Tuy nhiên, cũng cần nhắc đến
nổi ám ảnh với các nguy cơ chính trị. Sau hơn ba năm trông chờ các
chính trị gia giải quyết các vấn đề, các nhà đầu tư đã mất hết tin
tưởng. Một thỏa hiệp tồi tệ nâng mức trần công trái với Quốc Hội Mỹ
và sự bất lực của khu vực euro trong nỗ lực giải quyết các vấn đề
khó khăn không những chẳng tốt lành, mà còn cho thấy các chính trị
gia hoặc đang thất bại hay đang làm tình hình ngày một tệ hại hơn.
Làn sóng
thất vọng cũng đã ảnh hưởng đến lòng tin của giới doanh nhân. The
Economist/FT global business barometer mới nhất, một cuộc thăm
dò các nhà quản lý trên khắp thế giới, tiết lộ những kẻ tin điều
kiện sẽ tồi tệ hơn trong vòng sáu tháng tới vượt quá số người đang
chờ đợi một sự cải thiện đến 10,5 %, một sự đổi chiều lớn so với
cuộc thăm dò trong tháng 5. Các xí nghiệp Hoa Kỳ giờ đây có thái độ
cẩn trọng hơn nhiều trong việc bỏ thêm vốn đầu tư. Chừng nào tình
trạng nầy còn kéo dài, các ngân hàng trung ương, ngay cả khi quyết
định đúng, may mắn lắm cũng chỉ có thể đem lại một liều thuốc giảm
đau.
Chuỗi sụt
giảm trên thị trường chứng khoán trong mấy tuần qua đã gây thêm mất
tin tưởng, nhưng cũng chưa phải lý do để phải quá hoảng sợ. Một sự
điều chỉnh trong giá trị các tích sản Hoa Kỳ lẽ ra đã phải thể hiện
sớm hơn: chỉ số S&P 500 đã tăng gấp đôi kể từ mức thấp nhất trong
tháng 3-2009, và tỉ số giá cả thị trường điều chỉnh theo chu kỳ/lợi
tức
- 20,7, vào ngày 4-8-2011, mức cao hơn rất nhiều so với tỉ số trung
bình 16,4. Đà phục hồi sau suy thoái tài chánh yếu ớt, trong khi khu
vực tư đang trả bớt nợ nần. Từ lâu thị trường trái phiếu đã ghi nhận
thực tế vừa nói, và cuối cùng có thể đã phải cùng chung số phận với
các thị trường chứng khoán. Tuy vậy, kinh tế Hoa Kỳ vẫn còn dấu hiệu
sinh động: tháng 7-2011 đã ghi nhận 117,000 việc làm mới, tuy chưa
đáng kể, nhưng không phải là bằng chứng của suy thoái.
Tuy
nhiên, nguy cơ Hoa Kỳ và các xứ giàu đang rơi trở lại suy thoái là
thực sự. Gốc rễ của vấn đề ở cả hai bên bờ Đại Tây Dương khá giản
dị: quá nhiều nợ nần, thiếu vắng ý chí chính trị để đối phó với hậu
quả. Điều đó cho thấy vấn đề thực sự đang ở đâu.
Trong khu
vực đồng euro, gánh nặng nợ nần, bắt đầu với các quốc gia ngoại vi,
đã lan tràn đến các xứ lớn Tây Ban Nha, Ý và có lẽ cả Pháp. Như
thường lệ, cuộc khủng hoảng đã dừng lại trong vài ngày tiếp theo sau
phiên họp thượng đỉnh khẩn cấp trong tháng 7, để rồi tiếp tục trở
lại với đe dọa mới khi các chính trị gia rõ ràng đã chưa làm đủ, và
hệ thống ngân hàng vẫn đang lâm nguy.
Trong lúc
đó, ở Hoa Thịnh Đốn, các chính trị gia đang tiếp tục cãi vã mặc dù
đã thoát nguy cơ vỡ nợ với thỏa hiệp nâng mức trần công trái, một
thỏa hiệp sai quấy vì hai lý do: (1) Thắt chặt tín dụng ngắn hạn
trong khi nền kinh tế đòi hỏi tăng chi và kích cầu; (2) Chưa có biện
pháp xử lý vấn đề giảm thiểu khiếm hụt trong trung hạn. Vì vậy, tín
dụng bị S&P xuống cấp là điều dễ hiểu.
Câu hỏi
cần được đặt ra là Ngân hàng trung ương có thể làm được gì?
Ở Âu
châu, sự can thiệp của ECB đã đem lại hiệu quả cần thiết: lợi nhuận
các trái phiếu Ý và Tây Ban Nha đã sụt xuống 5%. Jean-Claude
Trichet, chủ tịch ECB, có thể có đủ khôn ngoan để đảo ngược quyết
định nâng cao lãi suất hồi đầu năm: lạm phát trong khu vực đồng
euro đã sụt giảm và cần sụt giảm hơn nữa khi giá các mặt hàng xuống
thấp. Nhưng lãi suất đang ở mức khá thấp, và ECB đang ngần ngại can
thiệp vào địa hạt tài chánh qua hành động mua vào nhiều hơn các công
trái phiếu.
Ở Hoa Kỳ,
chủ tịch Cục Dự Trữ, Ben Bernenke, cần xét đến khả năng nới lỏng
tín dụng đợt ba (in thêm tiền để mua trái phiếu). Tuy nhiên, tác
động của biện pháp nầy có lẽ sẽ rất hạn chế , và có thể gây rắc rối
thêm cho các nền kinh tế đang lên khi các xứ nầy có thể đối diện một
đợt gia tăng tư bản nhập khẩu mới.
GIỚI LÃNH
ĐẠO BARACK OBAMA & ANGELA MERKEL...
Khuynh
hướng hiếu động của ngân hàng trung ương thường mang theo những bất
trắc tinh thần. Nói rõ hơn, đó là nguy cơ khuyến khích các chính
quyền giữ một vai trò thụ động, phó mặc cho người khác làm những
việc chính quyền cảm thấy khó đảm đương. Thái độ nầy là một hành
động chối từ trách nhiệm nguy hiểm và bỏ phí cơ hội.
Ở Hoa Kỳ,
Quốc Hội cần ủng hộ các biện pháp tài chánh đoản kỳ - gia hạn tín
dụng giảm thuế căn cứ trên bảng lương nhân công, gia hạn bảo hiểm
thất nghiệp, và đầu tư vào hạ tầng cơ sở - và một kế hoạch khả tín
cắt giảm khiếm hụt trung hạn qua cải cách thuế vụ và các chương
trình an sinh xã hội. Hiện đang có những kế hoạch lưỡng đảng để làm
những việc nầy. Obama và những đối thủ Cộng Hòa trước đây đã mở cữa
thương nghị những chương trình lớn lao như thế. Một ủy ban mới, phụ
trách giảm thiểu thiếu hụt, là một cơ hội khác.
Các lãnh
đạo Âu châu sẽ phải đối diện với sự lựa chọn khó khăn hơn nhiều -
giữa nguy cơ tan rã của khu vực euro và liên hiệp tài chánh khắng
khít hơn. Cứu vớt đồng euro sẽ đòi hỏi một quỹ cứu trợ lớn lao hơn
là khu vực euro hiện sẵn sàng chấp nhận. Trên bình diện viễn kiến
kinh tế, một ý tưởng mạnh dạn hơn có thể là khả năng phát hành những
trái phiếu Euro được bảo đảm bởi cộng đồng các quốc gia thành viên
trong khu vực. Đây là một quyết định chính trị can đảm, không phải
một điều các cử tri Âu châu chỉ có thể thấy được đưa vào cửa hậu, mà
là một cam kết thực hiện một công trình vĩ đại. Đã hẳn, đây là một
quyết định chính trị vô cùng khó khăn. Nhưng Angela Merkel và
Nicolas Sarkosy không còn nhiều lựa chọn.
Các ngân
hàng trung ương có thể đem lại cho các chính trị gia hai bên bờ Đại
Tây Dương thêm chút ít thời gian. Và đã đến lúc các chính trị gia
phải quyết định.
TRUNG
QUỐC VÀ HOA KỲ
Suốt mùa
đông 2010, các quan chức Trung Quốc và Hoa Kỳ đã cố gắng lật qua một
trang mới trong quan hệ hai nước. Tháng 1-2011, trong cuộc công du
đến Hoa Thịnh Đốn của chủ tịch Hồ Cẩm Đào(Hu Chin
Tao) lãnh đạo hai nước đã nỗ
lực cải thiện quan hệ giữa hai quốc gia. Sau đó, Phó Tổng Thống
Joseph R. Biden đã quyết định sẽ viếng thăm Trung Quốc, vào mùa hè
2011, để gặp đối tác Xi Jinping (Tập Cận Bình), người được chờ đợi thay thế Chủ
Tịch Hồ Cẩm Đào vào năm tới.
Trong khi
Biden đang chuẩn bị lên đường vào hôm thứ ba 12-8, một diễn biến mới
lại bao phủ quan hệ Mỹ-Hoa.
Các lãnh
đạo TQ đặt nhiều câu hỏi quan trọng về nền kinh tế và giới lãnh đạo
Hoa Kỳ. Chính quyền Mỹ đang phải đối đầu với các khó khăn thanh toán
nợ nần và phân hóa đảng phái. Và tê liệt chính trị đã biến tình
trạng nầy thành một cuộc khủng hoảng.
Mặc dù
Biden đã quyết định hoản ngày lên đường trong tháng 7 ngõ hầu giúp
đem lại thỏa hiệp nâng cao mức trần công trái, phương cách duy nhất
thanh toán số nợ đáo hạn trong tháng 8, tuy vậy, vẫn không tránh
được sự kiện Standard & Poor's hạ thấp an toàn tín dụng của Hoa Kỳ
từ AAA xuống AA+. Thông Tấn Xã Xinhua công bố lời bình luận đòi hỏi
Hoa Kỳ phải"chữa trị bịnh ghiền vay mượn và sống
trong giới hạn khả năng của chính mình."
Những khó
khăn kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ đã có những hệ lụy trực tiếp
đến tài chánh TQ. Thực vậy, TQ đang chấp hữu hơn 1,1 nghìn tỉ công
khố phiếu của Mỹ, và đã trở thành trái chủ lớn nhất của Hoa Kỳ.
Không ít người TQ công khai chỉ trích cấp lãnh đạo đã đầu tư quá
nhiều vào công khố phiếu Mỹ.
Các nguy
cơ dai dẳng không trả được nợ nước ngoài sắp đáo hạn của Âu châu,
bóng ma chập chờn đại suy thoái kép của Mỹ, và những xáo trộn trên
các thị trường toàn cầu, càng làm tăng thêm nỗi lo ngại của TQ, một
xứ có tỉ suất tăng trưởng kinh tế tùy thuộc phần lớn vào khu vực
xuất khẩu rộng lớn của mình.
Zhu Feng,
giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại Học Bắc Kinh , cho biết: trong lần
tham dự buổi họp ở Bộ Tài Chánh gần đây, ông nhận thấy các tham luận
viên đều ái ngại âu lo. Theo ông, "mọi người đều cảm nhận kinh tế
thế giới đột nhiên trở nên rất khó tiên liệu. Chẳng ai muốn thấy
kinh tế Hoa Kỳ tiếp tục tuột dốc và một cuộc khủng hoảng kinh tế
mới. TQ và Hoa Kỳ đang giữ một vai trò rất quan trọng - tìm cách duy
trì sự ổn định trong kinh tế toàn cầu."
Trong
bước đầu làm quen, Biden và Xi cũng sẽ thảo luận một số vấn đề an
ninh đang chia rẽ hai nước - Hoa Kỳ bán vũ khí cho Đài Loan, chương
trình hạt nhân của Bắc Hàn, tình hình căng thẳng trên Biển Đông hay
Nam Hải... Nhưng các vấn đề kinh tế đã là những vấn đề nổi trội hàng
đầu.
Theo
Jeffrey A. Bader, Giám đốc kỳ cựu Đông Á Sự Vụ trước tháng 4-2011
trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, "mục tiêu của chuyến công du,
được hoạch định trước các khó khăn kinh tế mới đây, là để làm quen
với Xi Jinping. Đã hẳn những biến cố gần đây trong địa hạt kinh tế
đã là lý do các vấn đề kinh tế Hoa Kỳ và đồng USD được ưu tiên ghi
vào nghị trình."
Theo Da
Wei, Phó Giám Đốc Viện Nghiên Cứu Hoa Kỳ thuộc Liên Viện Quan Hệ
Quốc Tế Đương Đại Trung Quốc ở Bắc Kinh,
đối với TQ, "nợ công khố phiếu Hoa Kỳ là mối lo ngại lớn nhất vì
liên quan đến tính an toàn số đầu tư tài chánh lớn lao của TQ."
Trong khi
đó, theo Hoa Kỳ, những khó khăn quốc nội của TQ đã lấn át các quan
hệ đối ngoại. Các nỗ lực duy trì ổn định xã hội của các lãnh đạo TQ
trong mùa hè đã bị thách thức bởi bạo động sắc tộc trong khu vực
phía tây Xinjiang và các chỉ trích của công chúng về cách xử lý tai
nạn xe lửa cao tốc trong tỉnh Zhejiang của chính quyền.
Có lẽ vấn
đề nhức nhối nhất đối với cấp lãnh đạo TQ là lạm phát gia tăng. Chỉ
số giá tiêu thụ của TQ đã tăng 6,4% trong tháng 6-2011, cao nhất
trong vòng ba năm qua. Các nhà phân tích cho biết lạm phát trung
bình cho cả năm chắc chắn sẽ quá 4%, mức ấn định bởi cấp lãnh đạo.
Lạm phát
sẽ đặt TQ trước các khó khăn về chính sách nếu các xứ Tây phương lại
rơi vào một suy thoái mới. Trong năm 2008, cao điểm của suy thoái
tài chánh toàn cầu, TQ đã trông cậy vào chi tiêu công để kích cầu và
nới lỏng tín dụng bởi các ngân hàng nhà nước, để bơm tiền vào các
chương trình xây dựng hạ tầng cơ sở và các dự án đòi hỏi những khoản
đầu tư lớn lao nhằm duy trì tỉ suất tăng trưởng kinh tế. Ngày nay,
các quan chức TQ đang lo ngại về sự chi tiêu phung phí và đang cố
gắng thắt chặt tín dụng.
Một vấn
đề gay cấn giữa Hoa Kỳ và TQ trước đây nay ngày một bớt căng thẳng
và lùi vào hậu trường: định giá đồng nhân dân tệ -
Yuan hay Renminbi RMB. Chính quyền
Obama trong một thời gian lâu dài trước đây đã thúc đẩy TQ tái định
giá đồng RMB để điều chỉnh những bất quân bình trong cân thương mãi
và giúp tái cơ cấu kinh tế thế giới. Chính quyền TQ đã dè dặt từ
chối, e ngại khu vực xuất khẩu sẽ bị tổn thương.
Tuy
nhiên, đồng nhân dân tệ, nếu được định giá quá thấp một cách giả
tạo, sẽ đưa đến lạm phát. Do đó, gần đây TQ đã để đơn vị tiền tệ,
đồng RMB, từ từ tăng giá đối với đồng USD.
Đề tài
nầy có thể đang mất dần tầm quan trọng trong chính trị Mỹ. Quỹ Tiền
Tệ Quốc Tế (IMF), trong phúc trình tháng 7-2011, đã nói rõ: một đồng
nhân dân tệ mạnh hơn không nhất thiết đã có thể giúp đem lại công ăn
việc làm mới cho Hoa Kỳ.
Chính vì
vậy, thay vì Biden gây áp lực đối với TQ về tiền tệ, các quan chức
TQ rất có thể sẽ gây áp lực với Biden, đòi hỏi Hoa Kỳ phải ổn định
giá trị đồng USD. Trong lúc đó, TQ sẽ tìm cách đánh giá uy lực của T
T Obama, trước những khó khăn đang đối diện trong nỗ lực thuyết phục
phe Cộng Hòa trong Quốc Hội nâng cao mức trần công trái.
Kenneth
G. Lieberthal, một học giả về TQ tại Brookings Institution đã từng
phục vụ trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia dưới thời Clinton, đã cho
biết, "khi họ tin đang làm việc với một tổng thống Hoa Kỳ mạnh,
người TQ luôn ứng xử tử tế. Thật khó lòng bằng cách nào những biến
cố gần đây có thể đem lại một ấn tượng tổng thống Hoa Kỳ là một lãnh
đạo mạnh."
Thứ năm
(18-8-2011), Phái đoàn Hoa Kỳ đã đến Bắc Kinh với e ngại người TQ có
thể bày tỏ lo âu về sự an toàn của số nợ khổng lồ của Mỹ.
Trong
thực tế, Phó T T Joseph R. Biden và các lãnh đạo TQ đã nhấn mạnh nhu
cầu hợp tác kinh tế vào thời điểm kinh tế toàn cầu đang đương đầu
với các khủng hoảng mới. Và các quan chức tháp tùng hiện diện trong
buổi họp cho biết các lãnh đạo TQ đã nói với Biden họ vẫn có lòng
tin ở hệ thống tài chánh Hoa Kỳ và đã không tỏ ra quá lo ngại đối
với số đầu tư khổng lồ vào trái phiếu ngân khố.
Tuy
nhiên, vì các quan chức TQ đã không tiết lộ gì với các phóng viên
ngoại quốc, không ai có thể đoan chắc những gì đã thực sự được trao
đổi. Những bình luận gần đây của các cơ quan truyền thông chính thức
TQ đã phản ảnh tâm trạng hoảng sợ về số đầu tư vào trái phiếu ngân
khố Hoa Kỳ tiếp theo sau cuộc khủng hoảng về trần quốc trái ở Mỹ.
Biden
trong lúc đó vẫn trở lại một đề tài cũ: TQ cần xây dựng một nền kinh
tế vững bền hơn, ý muốn nói một nền kinh tế cơ sở trên tiêu thụ quốc
nội hơn là xuất khẩu. Ông nhấn mạnh một sự tái quân bình như thế là
phương cách TQ có thể giúp kích thích tăng trưởng kinh tế ở Hoa Kỳ
và các xứ khác, và điều chỉnh cơ cấu kinh tế của chính TQ. Thực
vậy, trong cuộc họp chiều 18-8 với Wu Bangguo, chủ tịch Quốc
Hội Nhân Dân và là lãnh đạo số hai ở TQ, Biden đã tuyên bố: "Đó
là lý do chính tôi đã đến đây: để thảo luận về việc làm [nhân dụng]
và tăng trưởng, và như đã được phát biểu sáng nay, tái cơ cấu kinh
tế - của quý quốc và của chính chúng tôi."
Phó T T
Biden nói tiếp: Trên cương vị hai nền kinh tế lớn nhất trong thời
buổi khó khăn, cả hai quốc gia "đang cùng nhau giữ vai trò nòng
cốt không những trong sự thịnh vượng của chính chúng ta, mà còn là
nguồn lực đem lại tăng trưởng và nhân dụng cho toàn thế giới."
Các quan
chức Mỹ cũng đã nhấn mạnh: khía cạnh quyết định chủ chốt của tái
quân bình hai nền kinh tế là cho phép đơn vị tiền tệ TQ, đồng nhân
dân tệ , tăng giá. Và theo các quan chức Mỹ, kể từ tháng 6-2010,
đồng RMB đã tăng giá 7%, nhưng vẫn chưa đủ.
Đây là
chuyến viếng thăm TQ lần đầu của Phó T T Biden kể từ ngày nhận chức.
Mục tiêu chính của chuyên công du, gồm ba ngày họp ở Bắc Kinh và
thị trấn miền Tây Chengdu, là để Biden và các quan chức tháp tùng
làm quen và xây dựng quan hệ với Phó Chủ Tịch Xi Jinping, người
được chờ đợi sẽ trở thành lãnh đạo của TQ năm tới.
Trong
ngày Thứ Năm, Biden đã có hai cuộc họp với Phó Chủ Tịch Xi ở Nhân
Dân Đại Sảnh và dự tiệc tối do Xi khoản đãi.
Biden và
Xi đến Đại Sảnh lúc 10:30 sáng. Bên trong Đại Sảnh, cả hai duyệt qua
hàng quân danh dự cử hành quốc ca Hoa Kỳ và Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc.
Chủ và
khách đã trao đổi lời mở đầu tại bàn hội nghị. PCT Xi nói trước,
nhấn mạnh đề tài chính của cuộc thăm viếng của PTT Biden:
quyền lợi
đan xen chồng chéo ngày một gia tăng, nhất là quyền lợi kinh tế,
giữa hai nước. Ông nói, "Tôi cũng vậy, tôi tin trong hiện tình,
TQ
và Hoa Kỳ có nhiều quyền lợi chung ngày một rộng lớn, và chúng ta
cùng gánh vác nhiều trách nhiệm chung ngày một nhiều và quan trọng
hơn."
Về phía
Mỹ, PTT Biden nhắc lại chuyến thăm TQ đầu tiên năm 1979, khi ông còn
là một nghị sĩ. Trước khi ông có thể hoàn tất lời mở đầu, được soạn
thảo dành riêng cho các quan chức và báo chí, các nhân viên an ninh
TQ đã buộc một số phóng viên ngoại quốc và vài nhân viên Tòa Bạch Ốc
ra khỏi phòng họp. Người ta không rõ đã có sự hiểu lầm gì gây ra sự
lộn xộn, thường hiếm hoi trong các cuộc họp cấp cao như thế, nhưng
các quan chức Mỹ đã từ chối bình luận về sự kiện nầy.
DOLLAR
BẢN VỊ HAY ĐƠN VỊ TIỀN DỰ TRỮ QUỐC TẾ
Ngay sau
khi Standard & Poor's xuống cấp trình độ an toàn của tín dụng Hoa
Kỳ, Alan Greenspan, nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, đã nói:
"Hoa Kỳ có thể trả bất cứ món nợ nào của mình vì lẽ chúng tôi luôn
có thể in thêm tiền để làm việc đó."
Để trả lời, người ta thường nhắc lại trường hợp Zimbabwe. Như Cộng
Hòa Phi châu thiếu may mắn nầy đã chứng tỏ, chính quyền luôn gặp một
giới hạn nào đó đối với số tiền giấy có thể in, trước khi kinh tế
phải đối đầu với siêu lạm phát.
Tuy
nhiên, Zimbabwe không còn bị siêu lạm phát. Theo The Economist
Intelligence Unit, một công ty chị em của The Economist,
lạm phát trung bình chỉ ở mức 5,5% năm nay. Làm thế nào Zimbabwe đã
thành đạt phép lạ đó? Bí quyết là chấp nhận đồng USD như đơn vị tiền
tệ chính thức của mình. Như John Chambers thuộc Standard & Poor's đã
nói: người Mỹ có thể đã đánh mất mức an toàn tín dụng AAA, nhưng
đồng USD sẽ "duy trì cương vị đồng tiền dự trữ quốc tế then chốt
dưới bất cứ kịch bản khả dĩ nào."
Theo con
số mới nhất của IMF, Zimbabwe là một trong 66 quốc gia, ngoài nước
Mỹ, hoặc chấp nhận đồng USD như đơn vị tiền tệ chính thức, ràng buộc
đơn vị tiền tệ của mình với đồng USD, hay thả nổi hối suất theo đồng
USD. Đơn vị tiền tệ cạnh tranh duy nhất hiện nay, đồng euro, chỉ có
một phạm vi ảnh hưởng nhỏ bé hơn, gồm 25 xứ, bên ngoài 17 quốc gia
thành viên của khu vực euro.
Nhóm 66
thành viên trong khu vực USD chiếm một GDP gộp lên tới 9,000 tỉ USD,
hay khoảng 14% kinh tế toàn cầu. Danh sách gồm những xứ nhỏ bé như
St Kitts và Nevis, vài xứ đông dân như Bangladesh, và vài cường quốc
kinh tế bậc trung như Saudi Arabia. Nhóm nầy còn bao gồm các đồng
minh như Qatar, và xứ kình địch như Venezuela, luôn coi thường chủ
nghĩa đế quốc Hoa Kỳ ngay cả khi đã phải hy sinh chủ quyền tiền tệ
của chính mình cho Cục Dự Trữ Liên Bang hay ngân hàng trung ương của
Mỹ.
Trong mọi
trường hợp, tất cả không phải đều tốt đẹp bên trong khối USD. Năm
2010, lạm phát trung bình lên tới 5,6% trong mọi xứ thành viên không
tính theo kích cỡ GDP. Năm nay, tỉ suất lên đến 8%.
Thành
viên lớn nhất trong khối là Trung Quốc, xứ kiểm soát chặt chẽ các
giao động của đồng RMB đối với đồng USD. TQ nuôi mộng tạo dựng một
thứ tiền dự trữ riêng. Nhiều xứ đang theo dõi đồng RMB vì lẽ các xứ
nầy không thể để mất khả năng cạnh tranh đối với một xứ xuất khẩu
lớn lao như TQ. Một phân tích bởi ba kinh tế gia trong Viện Chính
Sách và Tài Chánh Công Quốc Gia ở Delhi cho thấy: đồng RMB đã có
ảnh hưởng đáng kể trên tiền tệ 33 xứ.
Một nền
kinh tế nằm giữa khối USD và khối RMB tiềm năng là Hong Kong. Đồng
dollar Hong Kong được định nghĩa theo đồng USD là một điều dễ hiểu,
vì đồng RMB cũng đang được buộc chặt với đồng USD. Một khi đồng RMB
tách khỏi đồng USD, Hong Kong sẽ bị lôi kéo theo hai chiều hướng
khác nhau. Vài người chủ trương chấp nhận đồng RMB làm đơn vị tiền
tệ chính thức của Hong Kong song song với đồng dollar Hong Kong.
Nhưng các quan chức Hong Kong cho đến nay vẫn luôn giữ thái độ im
lặng về đề tài nầy. Họ e ngại thảo luận vấn đề tiền dự trữ thay thế
sẽ làm suy giảm lòng tin vào đồng dollar Hong Kong. Sau ngày S&P hạ
cấp tín dụng Hoa Kỳ, Norman Chan, chủ nhiệm Hong Kong Monetary
Authority đã cho biết: "sự kết nối với đồng USD đã có tác
dụng rất tốt đối với sự ổn định tiền tệ và tài chánh của Hong Kong
từ năm 1983 đến nay."
Tuy
nhiên, sự trung thành với đồng USD không thể xem như thái độ tự
nhiên, ngay cả trong những xứ đồng USD giữ một vị thế quan trọng
nhất. Newsday số ngày 10-8-2011, một nhật báo ở Zimbabwe, đã tự hỏi:
liệu đã đến lúc Zimbabwe nên rời bỏ đồng USD, e ngại Zimbabwe rồi
sẽ phải nhập khẩu tính khinh suất hay liều lĩnh kinh tế vĩ mô của
Mỹ. Vài người nghĩ đồng rand của Nam Phi có thể là một thứ
tiền dự trữ thay thế tốt hơn. Mặc dù đồng USD vẫn còn là tiền dự trữ
của thế giới, nhưng ngay cả vài người Zimbabwe nay cũng đang tìm đơn
vị tiền dự trữ thay thế, đó không thể là một dấu hiệu tốt đối với
người Mỹ.
Trong bài
nói chuyện ngày thứ sáu, 26-8-2011, đương kim chủ tịch Cục Dự Trữ,
Ben S. Bernanke, quy lỗi cho các chính trị gia đã gây ra nhiều xáo
trộn tài chánh nguy hiểm. Theo Bernanke, thỏa hiệp hồi đầu tháng
8-2011 nâng cao mức trần tối đa chính phủ có thể vay mượn, để đổi
lấy cắt giảm thiếu hụt ít nhất 2,1 nghìn tỉ USD, chưa giảm thiểu số
nợ xuống mức hầu hết các kinh tế gia tin có thể chịu đựng, và những
tranh cãi chính trị hỗn loạn là các lý do Standard & Poor's đã loại
các trái phiếu ngân khố dài hạn khỏi danh sách các cơ hội đầu tư an
toàn.
Bài nói
chuyện đã được nhiều quan chức nóng lòng chờ đợi vì lẽ Bernanke cũng
như các vị chủ tịch tiền nhiệm thường có thói quen đến dự hội nghị
do Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang Kansas City chủ trì, để làm sáng tỏ
quan điểm của mình về tình hình kinh tế và chính sách tiền tệ.
Thay vì
mô tả với đầy đủ chi tiết các giải pháp có thể lựa chọn, Bernanke
lại chỉ chú tâm vào chính sách tiền tệ và tài chánh. Bernanke đã lặp
lại lời kêu gọi cải cách tài chánh quen thuộc nhằm giảm thiểu nợ
liên bang trong dài hạn, cùng lúc tránh các cắt xén chi tiêu hay
tăng thuế trong đoản kỳ có thể gây khó khăn cho phục hồi kinh tế.
Ông cũng nói chính quyền có thể giúp tăng tốc đà phục hồi qua một số
biện pháp kể cả "chính sách gia cư tốt và hiếu động."
Trong khi
đó một số kinh tế gia ngày một đông lập luận: Cục Dự Trữ cần chấp
nhận một tỉ suất lạm phát cao hơn. Vài người nói ngân hàng trung
ương cần cho phép lạm phát cao hơn để giảm thiều thất nghiệp. Vài
người khác còn nói lạm phát có thể hữu ích qua việc giảm thiểu gánh
nặng nợ nần của các hộ gia đình khi họ có thể trả nợ với một đồng
USD ít giá trị hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, các lãnh đạo Cục Dự Trữ
chưa có dấu hiệu chịu thuyết phục.
©Nguyễn
Trường
Irvine,
California, U.S.A.
30-8-2011