Tin tức báo chí thường gọi các tử vong như “chiến binh” hay “tình nghi chiến binh” vô danh, và máy bay không người lái “drone” của CIA không bao giờ đến đủ gần để có thể có những hành động vô luân xúc phạm đến thi thể của họ.
Mọi việc có vẻ tương đối sạch sẽ. Trong năm 2011, con số các cuộc tấn công đã lên khoảng 75, gây thiệt mạng cho 303 nạn nhân từ năm 2004, và số tử vong có thể đã lên hàng nghìn dọc theo biên giới các bộ lạc. Trong thực tế, thế giới đổ nát và chết chóc luôn có vẻ sạch sẽ và gọn gàng, nếu bạn đứng từ xa, như các thiên thần trên thiên đường, như các “phi công viễn liên” cách xa mục tiêu hàng nghìn dặm, hoặc các nhà làm chính sách đứng đằng sau giàn binh bố trận.
Trên chiến địa, tình trạng đã hẳn vô cùng hỗn độn, bẩn thỉu, và buồn nôn. Trong tình hình khuấy động của Pakistan, với sự thiếu nhất trí giữa phe quân sự và chính quyền dân sự, với tin đồn đảo chánh và lủng củng với đồng minh Hoa Kỳ, các cuộc tấn công phi pháp của drone chà đạp lên chủ quyền quốc gia tối thượng và trái với lòng dân chỉ làm tình hình thêm căng thẳng. Drone chẳng giúp ích được nhiều, mà chỉ đem lại cảm nghĩ nguy hiểm và sai lầm về bá quyền tuyệt đối của Mỹ — mọi việc đều có thể, bất chấp luật pháp.
PHI CƠ KHÔNG NGƯỜI LÁI
Vũ khí tân tiến và kỳ diệu như drone, mặc dầu chưa được thẩm định đứng đắn, cuối cùng cũng chỉ là những dụng cụ chiến tranh phản tác dụng.
Trong mọi trường hợp, drone vẫn là vũ khí chính trong hình thức chiến tranh mới của Hoa Kỳ.
Thực vậy, các phản lực cơ chiến đấu của Mỹ đã gầm thét trên không phận vùng quê Iraq, hướng đến phi cơ không người lái MQ-1 Predator, trong khi phi hành đoàn ở California chỉ biết ngồi nhìn trong tuyệt vọng. Một phi vụ trinh sát thông thường đã trở thành một tai họa. Trong phút chốc, phản lực cơ tấn công và rồi mọi chuyện bất ngờ kết thúc: phi cơ Predator, một trong những phi cơ không người lái săn lùng và ám sát của Không Lực, đã bị hủy diệt.
Một báo cáo trong tháng 11-2007, về kết cục đầy ấn tượng của một phi cơ tự động trị giá gần 4 triệu USD, đã được tìm thấy trong tập tài liệu điều tra về tai nạn của Không Lực mới đây. Tập hồ sơ đã liệt kê hơn 70 tai nạn phi cơ tự động kể từ năm 2000, mỗi vụ gây thiệt hại, về phi cơ hay tài sản, trên 2 triệu USD.
Những báo cáo chính thức thuộc loại nầy, được tiết lộ trong khuôn khổ Luật Tự Do Thông tin, đã phơi bày một sự thật bên trong chương trình ám sát và trinh thám mới, phần lớn được che đậy nhưng vẫn mang tính khoa trương, liên quan các phi cơ tự động, không đáng tin cậy như thường được biết trước đây.
Phi cơ không người lái hay drone, loại vũ khí thần kỳ mới nhất trong kho quân cụ Hoa Kỳ, đã được thử nghiệm, phóng đi, điều khiển viễn liên, từ một mạng lưới trên 60 căn cứ trong bóng tối, trải rộng khắp hoàn cầu, thường để hổ trợ các lực lượng hành quân đặc biệt và ưu tú. Nói chung, các tài liệu của Không Lực đã phơi bày hình ảnh một cuộc chiến bằng phi cơ không người lái tân kỳ đáng chú ý, trong một thập kỷ với nhiều tường thuật báo chí luôn rêu rao thành công và đáng sợ , hiếm khi ghi nhận các nhược điểm, nói gì đến lỗi lầm và tai họa.
Những tai nạn và lầm lẫn, do Không Lực mô tả, đã thu hút sự chú ý không những đến các giới hạn kỹ thuật của cuộc chiến drone, mà còn đến những nhược điểm về quan niệm sai lầm nội tại lớn lao hơn, cố hữu trong các cuộc hành quân loại nầy.
Khởi động cất cánh và hạ cánh bởi các “phi hành đoàn” gần các chiến trường trong những nơi như Afghanitan, các phi cơ không người lái trong suốt phi vụ, dưới sự giám sát và điều khiển của các nhân viên kỹ thuật đặc trách các máy điện tử nhạy cảm đa năng (sensor) trong nhiều giờ, từ những căn cứ ở Nevada và North Dakota. Drone, đôi khi còn được kiểm soát qua màn ảnh giám sát bởi các nhân viên an ninh tư, từ các căn cứ như Hurlburt Field ở Florida. Một tường trình gần đây của McClatchy đã tiết lộ: có khi phải cần đến gần 170 người để điều hành chỉ một Predator trong một phi vụ 24 tiếng đồng hồ.
Nói một cách khác, các phi vụ của phi cơ không người lái, cũng giống các người máy, có nhiều bộ phận chuyển động thường bị trục trặc. Chẳng hạn, trong tai nạn Predator ở Iraq trong tháng 11-2007, một rắc rối điện tử đã khiến phi cơ không người lái khởi động cơ chế tự hủy diệt và rơi xuống đất, sau đó các phản lực cơ đã phải tiêu hủy xác phi cơ để khỏi lọt vào tay phe thù nghịch.
Trong vài trường hợp khác, các phi cơ tự động — chính thức được biết như phi cơ được điều khiển viễn liên, remotely piloted aircraft hay RPA — chết máy, thoát khỏi khả năng kiểm soát và giám sát , hay tự hủy vì những lý do như lỗi của phi công, thời tiết xấu, cho đến trục trặc máy móc ở Afghanistan, Djibouti, Vịnh Aden, Iraq, Kuwait, và trong nhiều nơi không được tiết lộ hay bí mật, cũng như ở Hoa Kỳ.
Trong năm 2001, phi cơ không người lái Predator của Không Lực đã bay 7.500 giờ. Vào gần cuối năm 2011, số giờ bay đã lên đến trên 70.000. Cùng với nhịp độ các phi vụ của máy bay tự động liên tục gia tăng, tai nạn cũng trở nên thường xuyên hơn. Trong năm 2001, chỉ hai phi cơ không người lái của Không Lực đã bị hủy diệt. Trong năm 2008, con số đã tăng lên đến 8. Năm 2011, 13 phi cơ không người lái bị nạn. Tuy nhiên, theo báo cáo của Không Lực, số tai nạn trung bình, dựa trên các con số từ năm 2009, nói chung đã sụt giảm.
Cũng cần nên nhớ, trên 70 tai nạn được ghi nhận trong các tài liệu của Không Lực chỉ tương ứng với các tai nạn do Không Lực điều tra, căn cứ trên những quy tắc cực kỳ chặt chẽ. Và nhiều tai nạn của các phi cơ không người lái khác đã không được ghi nhận trong thống kê của Không Lực. Chẳng hạn một phi cơ tự động MQ-9 Reaper do một phản lực cơ bắn hạ ở Afghanistan năm 2009, một trực thăng Hải Quân điều khiển viễn liên đã lâm nạn ở Libya trong tháng 6-2011, một phi cơ không người lái có máy chụp hình đã lọt vào tay các dân quân Afghanistan sau khi rơi trong tháng 8-2011, một phi cơ không người lái R-170 Sentinel mất tích trong một phi vụ do thám ở Iran trong tháng 12-2011, và một phi cơ MQ-9 Reaper rơi ở Seychelles Islands gần đây.
CẦN HAY KHÔNG CẦN NHÂN VIÊN DỰ BÁO THỜI TIẾT
Các phi vụ đã được thực hiện như thế nào – và đôi khi đã gặp phải tai họa – có thể hiểu được nhờ các báo cáo đã được giải mật, kể cả tai nạn phi cơ tự động rơi trong tháng 6-2011 như Không Lực đã tiết lộ.
Vào cuối tháng 12-2011, một phi cơ Predator đã cất cánh từ Căn Cứ Không Quân Jalalabad ở Afghanistan trong một phi vụ giám sát và yểm trợ các lực lượng bộ binh. Do một thành viên thuộc Phi Đội 432 Air Expeditionary Wing từ Căn Cứ Không Quân Whiteman ở Missouri điều khiển, khi gặp phải thời tiết xấu, viên “phi công” đã phải xin phép ngưng nhiệm vụ yểm trợ đoàn quân dưới đất. Chỉ huy của anh ta chưa kịp trả lời. Vì không được trang bị các sensors, như các phi cơ lớn tinh xảo hơn, để giúp phi công đối phó với điều kiện thời tiết xấu, và với bão cát gây trở ngại cho rađa dưới đất, Predator đã gặp khó khăn. Trong chốc lát, vệ tinh nối kết phi công với phi cơ bị gián đoạn. Khi tín hiệu yếu ớt trở lại, phi hành đoàn thấy phi cơ đang đâm nhào xuống đất, rồi họ lại mất tín hiệu lần thứ hai và cũng là lần chót. Vài phút sau, quân nhân dưới đất báo cáo drone đã rơi xuống gần địa điểm hành quân.
Một tháng trước đó, một Predator cất cánh từ quốc gia nhỏ bé Djibouti để yểm trợ chiến dịch Operation Enduring Freedom, bao gồm các cuộc hành quân ở Afghanistan, Yemen, Djibouti, Somalia và nhiều xứ khác. Theo các tài liệu nhận được nhờ Luật Tự Do Thông tin, sau khoảng 8 giờ bay, phi hành đoàn nhận được tín hiệu dầu rò rĩ. Sau 10 giờ bay, họ chuyển quyền điều khiển cho một phi hành đoàn có nhiệm vụ điều khiển drone đáp xuống sân bay Ambouli ở Djibouti, một cơ sở hỗn hợp dân và quân sự bên cạnh Camp Lemonier, một căn cứ Hoa Kỳ ngay ở điạ phương.
Phi hành đoàn phi vụ nầy – cả phi công lẫn chuyên viên kỹ thuật – đã được triển khai từ căn cứ Creech Air Force Base ở Nevada và đã trải nghiệm 1.700 giờ điều khiển các phi vụ của Predator. Họ đã được Không Lực xếp vào hạng có kinh nghiệm. Tuy nhiên, cho đến nay, các máy điện tử nhạy cảm – sensor – đo cao độ của các drone không được chính xác, trong khi mây thấp và độ ẩm cao đã ảnh hưởng đến các máy điện tử nhạy cảm và là nguyên do của các tai họa.
Một cuộc điều tra sau đó cho thấy nếu phi hành đoàn đã tái kiểm tra (crosscheck) đứng đắn các dụng cụ, họ đã có thể ghi nhận một sai lệch từ 300 đến 400 bộ trong cao độ. Thay vào đó, chỉ khi phi cơ RPA đã ra khỏi các lớp mây mù, các kỹ thuật viên mới hiểu phi cơ đã quá gần mặt đất. Sáu giây sau đó, phi cơ drone đã đâm sầm xuống đất, tự hủy cùng với một trong số các hỏa tiễn Hellfire trang bị.
Không chỉ bảo tố, mây mù, độ ẩm, và sai lầm của con người là những bất trắc tự nhiên của drone. Trong tai nạn tháng 11-2008, một phi hành đoàn ở Kandahar Air Field đã phóng một Predator vào một ngày gió lớn. Chỉ sau 5 phút của phi vụ, phi cơ vẫn còn trên bầu trời của căn cứ khổng lồ của Mỹ, phi công đã hiểu phi cơ đã bay chệch đường dự định. Để điều chỉnh, phi công khởi động đổi hướng, một động thái do bản chất luôn táo bạo, điều kiện gió, thiết kế của phi cơ, và trọng lượng bất cân đối của một tên lửa ở một cánh, phi cơ đã chao đảo, xoay quanh, rơi xuống căn cứ, và bốc cháy.
MẤT KIỂM SOÁT
Đôi khi, RPA đơn thuần vuột khỏi tầm kiểm soát của phi công viễn liên. Chẳng hạn, trong một phi vụ kéo dài 8 tiếng đồng hồ vào cuối tháng 2-2009, năm phi hành đoàn khác nhau đã lần lượt chuyển quyền điều khiển một Predator drone, từ đội nầy qua đội kế tiếp, khi đang bay trên không phận Iraq. Bất thần, phi hành đoàn cuối, các thành viên của Vệ Binh Phòng Không Quốc Gia bang North Dakota tại Phi Trường Quốc Tế Hector ở Fargo, mất liên lạc với drone. Đúng lúc đó, phi công, chuyên viên kỹ thuật máy điện tử nhạy cảm, cũng như phi hành đoàn điều khiển phi vụ ở địa phương, không ai biết phi cơ tự động đang ở đâu và làm gì. Không phát cũng không nhận tín hiệu các dữ kiện hay mệnh lệnh chỉ huy, drone trong thực tế đã thoát khỏi tầm kiểm soát. Chỉ về sau, đội chỉ huy mới đi đến kết luận một rắc rối kỹ thuật trong khâu nối kết các dữ kiện đã khởi động cơ chế tự hủy của drone, khiến phi cơ quay tít và lâm nạn trong vòng 10 phút sau khi mất liên lạc với dây chuyền điều khiển.
Trong tháng 11-2009, một Predator phóng đi từ Kandahar Air Field ở Afghanistan mất liên lạc với “phi hành đoàn” 20 phút sau khi cất cánh và biệt tăm. Khi phi hành đoàn không thể tăng cao độ của drone, các chuyên viên kỹ thuật nối kết dữ kiện được gửi tới nhưng cũng chẳng định vị được phi cơ. Trong lúc đó, radar của các kiểm soát viên không lưu đã mất dấu vết phi cơ trên mạng, cũng không hề nhận được tín hiệu radio truyền tin của transponder. Mọi nổ lực nối kết tín hiệu đều thất bại. Hai ngày sau, vào lúc phi cơ cạn nhiên liệu, Không Lực tuyên bố Predator đã thất lạc và tám ngày sau mới tìm được xác phi cơ.
GIẢI PHÁP CẤP TỐC
Vào giữa tháng 8-2004, trong khi nhịp độ hành quân bằng drone trong phạm vi trách nhiệm của CENTCOM lúc một tăng nhanh, “phi hành đoàn” một Predator bắt đầu nhận được làn sóng tín hiệu báo động — động cơ và máy dao điện (alternator) bị trục trặc, cũng như tín hiệu cháy máy. Khi chuyên viên máy điện tử nhạy cảm dùng máy ảnh để phân hình phi cơ, họ mới khám phá được nguyên nhân: đuôi phi cơ đã bốc cháy. Chẳng mấy chốc, phi cơ không còn có thể kiểm soát và đâm sầm xuống mặt đất.
Tháng 1-2007, một phi cơ Predator đang bay ở một nơi nào đó trong vùng trách nhiệm của CENTCOM. Vào giờ thứ 14 trong một phi vụ dài 20 giờ, phi cơ bắt đầu gửi tín hiệu có vấn đề. Động cơ bị trục trặc khoảng 15 phút, nhưng thông tin gửi về vẫn trong phạm vi các thông số bình thường. Vì vậy, phi hành đoàn viễn liên đã không lưu ý. Vào phút chót, họ mới chợt hiểu phi cơ sắp chết máy. Một cuộc điều tra sau đó đã đi đến kết luận, một rạn nứt lúc một lớn dần trong crankshaft của phi cơ đã khiến động cơ tăng nhiệt và bốc cháy. Phi công liền cho phi cơ lượn đến một khu vực không có dân cư. Nhưng nhà cầm quyền cao cấp ra lệnh cho phi công phải lập tức đánh rơi, bởi lẽ phi cơ đang mang theo hai tên lửa Hellfire và các trang bị bí mật. Vài ngày sau, xác phi cơ đã được thu hồi.
TƯƠNG LAI CỦA CHIẾN TRANH ROBOT
Mặc dù đối diện với những giới hạn kỹ thuật trong hình thức chiến tranh viễn liên như đã được ghi rõ trong hồ sơ điều tra của Không Lực, Hoa Kỳ hiện vẫn đầu tư gấp đôi vào các phi cơ tự động drone. Với chiến lược quân sự mới của T T Obama, Không Lực được dự phóng một phần ngân sách gia tăng và các phi cơ tự động được đặc biệt quan tâm triển khai.
Hiện nay, với con số gần 7.500 máy bay drone tí hon, 1/3 tổng số phi cơ quân sự là máy bay tự động.Theo con số chính thức được tiết lộ, 8 trong số nầy là các loại Predator Raper, hay các phi cơ tự động Global Hawk của Không Lực. Kho quân cụ của Không Lực còn gồm cả các máy bay tự động tiền tiến hơn — Sentinel, Avenger — và các máy bay tự động bí mật khác. Một báo cáo của Sở Ngân Sách Quốc Hội phổ biến trong năm rồi cũng đã tiết lộ “Bộ Quốc Phòng có kế hoạch mua khoảng 730 phi cơ không người lái cỡ trung và cỡ lớn”[1] trong vòng 10 năm tới.
Trong thập kỷ vừa qua, Hoa Kỳ ngày một trông cậy nhiều hơn vào các phi cơ không người lái trong nổ lực thũ thắng trong các cuộc chiến của Mỹ. Hồ sơ điều tra của Không Lực cho thấy nhà cầm quyền đã sử dụng các máy bay không người lái ở Iraq rộng rãi hơn là đã được báo cáo trước đây. Tuy nhiên, ở Iraq cũng như ở Afghanistan, các vũ khí thần kỳ nổi tiếng của Hoa Kỳ cũng đã không thành công trong nổ lực giúp quân đội Mỹ tiến đến gần với chiến thắng.
Khá hiệu quả như một mũi nhọn của chương trình làm tê liệt al-Qaeda ở Pakistan, chiến tranh robot trong những vùng dọc theo biên giới các bộ lạc đã đánh mất thiện cảm của toàn bộ 190 triệu dân bản xứ. Nói một cách khác, khoảng 2.000 du kích quân, tình nghi hay nhận diện, cũng như vô số thường dân, đã thiệt mạng. Quần chúng trong quốc gia đồng minh nòng cốt của Hoa Kỳ ngày một trở nên thù nghịch và không ai biết được bao nhiêu chiến binh mới đang tìm cách trả thù chỉ vì các cuộc oanh tạc của các máy bay tự động drone, mặc dù mọi người tin con số thương vong rất cao.
Sau một thập kỷ tinh chế và cải tiến kỹ thuật, chiến thuật, và chiến lược, Không Lực và nhân viên CIA theo dõi các kiểm tra vi tính từ những nơi xa xôi đã liên tục thất bại trong nổ lực phân biệt các dân quân trang bị vũ khí với các thường dân vô can. Và vì vậy, chương trình ám sát đa năng — thẩm-phán-bồi-thẩm-hành-quyết bằng máy bay không người lái — luôn bị lên án đã vi phạm luật pháp quốc tế.
Vả chăng, chiến tranh robot hình như đã đưa đến một hệ quả độc hại — qua sự kết nối với các động cơ kinh tế đi kèm, đã làm gia tăng số thương vong trong thực tế. Thực vậy, như Joshua Foust đã viết trên The Atlantic về các nhà thầu tư nhân tham dự vào quá trình gần đây: “Trong một số chương trình với mục tiêu ấn định, các cán bộ thực thi có những chỉ tiêu để thẩm định — có nghĩa, họ phải tái thẩm một số mục tiêu khả dĩ nào đó trong một khoảng thời gian nào đó. Vì là nhà thầu, việc làm liên tục của lớp người nầy tùy thuộc ở khả năng thỏa mãn những phương thức thẩm định công tác rõ rệt. Vì vậy, họ có động cơ tài chánh để lấy những quyết định sinh tử về số mục tiêu khả dĩ ám sát, với mục đích giữ được việc làm lâu dài. Đây là một tình trạng không thể tha thứ, nhưng vì lẽ hệ thống thiếu minh bạch hay tái thẩm định từ bên ngoài, đây cũng là điều gần như không thể giám sát hay sửa đổi.”[2]
Vì số giờ bay ngày một gia tăng, những khuyết điểm rõ ràng trên đây đã trở nên phức tạp hơn bởi một chuổi các lỗi lầm kỹ thuật và tổn thất ngày một lộ liễu và đều đặn . Chẳng hạn, các dân quân Iraq xâm nhâp vào dữ liệu video các drone , một vi khuẫn vi tính độc hại lan tràn trong không đoàn phi cơ không người lái của Không Lực, phần lớn các phi công drone chịu “áp lực hành quân cao độ” — high operational stress, một tai nạn nổ súng của chuyên viên đồng đội giết hại hai nhân viên quân sự Hoa Kỳ, số phi cơ không người lái lâm nạn gia tăng, và sự khả dĩ drone bị không tặc cưỡng đoạt, cũng như hơn 70 tai nạn tai họa mô tả trong các tài liệu điều tra của Không Lực.
Trong thập kỷ vừa qua, với tâm lý càng nhiều càng tốt, số phi cơ tự động, số căn cứ, số phi công, số tai nạn máy bay drone…ngày một nhiều. Drone có thể hữu hiệu căn cứ trên số thương vong, nhưng còn thành công hơn nữa trong khả năng gây thêm nhiều chống đối và kẻ thù.
Các phúc trình tai nạn của Không Lực đầy dẫy những chứng cứ khiếm khuyết tiềm tàng trong kỹ thuật máy bay tự động, và chắc chắn sẽ còn nhiều hơn trong tương lai. Một thập kỷ phù phiếm đã phơi bày chiến tranh robot tự thân đã đầy tai ương và hủy diệt. Tuy nhiên, định mệnh hình như đang chờ đợi không gian ngày một đầy dẫy máy bay drone, và tương lai sẽ tiếp tục mang lạị những bất trắc hiểm nguy tương tự.
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
19-02-2012