Những bài cùng tác giả
LỐI
SỐNG TÂY PHƯƠNG: CHI TIÊU TRƯỚC TRẢ NỢ SAU
Sức
lôi cuốn của "lối sống hoang phí trên khả năng"
cũng mạnh mẽ không kém rượu và "nicotine". Khi kinh
tế đang lên, giới tiêu thụ trong các xứ Tây phương
thường vay nợ để chạy theo lối sống vật chất (đua
đòi và tiêu xài hoang phí), các công ty để bành
trướng hoạt động, giới đầu tư để kiếm nhiều lợi
nhuận. Chừng nào kinh tế còn thịnh vượng, lời nhận
xét của Micawber còn nổi tiếng, mặc dù có vẽ nghịch
lý: "khi số chi tiêu hàng năm vượt quá lợi tức,
kết quả là hạnh phúc, không phải là khổ đau".
Đã
từ lâu, nợ trong thế giới giàu đã gia tăng nhanh hơn
lợi tức. Không phải chỉ khiếm hụt ngân sách của nhà
nước đã gia tăng. Ở Hoa Kỳ, nợ trong khu vực tư cũng
đã tăng mạnh, từ khoảng 50% GDP năm 1950 lên gần
300% gần đây.
Nguồn gốc của thói quen vay mượn cũng đã bắt đầu từ
xa xưa, phản ảnh những đổi thay trong xã hội và nhân
sinh quan. Trong thế kỷ 19, các con nợ phá sản phải
vào tù. Thế hệ trải nghiệm Đại Khủng Hoảng
1929-33 học được bài học sống đạm bạc và tiết
kiệm. Nhưng sự phổ biến các thẻ tín dụng trong
thập kỷ 1960s đã đưa đến một xã hội "mua ngay bây
giờ sau nầy sẽ trả".
Vỡ
nợ đã trở thành một cách sống lựa chọn.
Người cho vay tham lam và thiếu thận trọng bị lên án
và gánh chịu trách nhiệm nhiều hơn là người vay bất
cẩn và sống hoang phí.
Khi
người tiêu thụ sử dụng nguyên tắc đòn bẫy,
các công ty cũng hùa theo. Giá trị trung bình các
loại trái phiếu đã sụt giảm từ A năm 1981 xuống BBB-
hiện nay, chỉ một nấc trên mức vô giá trị. Các xí
nghiệp giữ tiền mặt trong đối chiếu biểu bị khinh
thường như thiếu sáng kiến kinh doanh, trong khi
luật phá sản, như Chapter 11 ở Mỹ, không cho phép
các trái chủ tịch biên các công ty không trả được
nợ. Chế độ khoan dung nầy đã khuyến khích các doanh
nhân cũng như quá nhiều công ty dở sống dở chết.
Không có ngành kỹ nghệ nào ghiền tác dụng đòn
bẫy hơn kỹ nghệ tài chánh. Các ngân hàng có đối
chiếu biểu với vốn sở hữu ngày một thấp, các công ty
tích sản tư hữu (private equity firms) và hedge
funds, cho vay và vay nợ liều lĩnh, đã sản xuất ra
nhiều tỉ phú. Con đường làm giàu khá đơn giản: mua
các tích sản với tiền vay mượn, rồi cứ ngồi đợi giá
gia tăng.
Tất
cả những xảo thuật đó đã được nhà cầm quyền khuyến
khích. Mỗi khi khủng hoảng và nợ nần đe dọa kinh tế,
các ngân hàng trung ương sẵn sàng cắt giảm lãi suất.
Viễn tượng được cứu nguy đã giúp giảm thiểu bất trắc
và làm yên lòng giới vay nợ. Bong bóng xuất hiện,
trước hết dưới hình thức tích sản tư hữu, rồi đến
nhà ở và bất động sản. Tình trạng leo thang tín
dụng, theo đó mỗi chu kỳ kết thúc với số nợ cao hơn
và lãi suất thấp hơn, ngày một dồn dập. Trò chơi
cuối đã diễn ra trong các năm 2007-08 khi giới đầu
tư hiểu ra phần lớn số nợ khó thể thu hồi. Khi tín
dụng co rút và thắt chặt gây khan hiếm thanh khoản,
ngân hàng trung ương đã phải cắt lãi suất ngắn hạn
xuống 1% hay thấp hơn.
GIỜ
TÍNH Sổ ĐÃ ĐIỂM
Các
xứ trong thế giới giàu nay đối diện với hai loại vấn
đề. Vấn đề cấp thiết nhất là làm sao trả nợ. Nhiều
người đã cắt giảm các khoản chi tiêu dùng thẻ tín
dụng, và nhiều xí nghiệp đã thấy số tín dụng dành
cho mình bị cắt xén, bắt đầu hoảng sợ khi nhìn
chung thấy gánh nặng của thế giới giàu đã không mấy
suy giảm. Phần lớn số nợ chỉ di chuyển từ khu vực tư
qua khu vực công, khi chính quyền can thiệp để hỗ
trợ các ngân hàng và ngăn ngừa kinh tế rơi vào khủng
hoảng. Và trong tương lai, vấn đề là sẽ phải gầy vốn
nhiều hơn, bởi lẽ chính quyền đã cam kết hoặc hứa
hẹn quá nhiều về tiền hưu và bảo hiểm y tế cho thế
hệ baby-boom sắp hưu trí.
Tất
cả số nợ nầy sẽ phải liên tục tái tài trợ và tái
tục. Khủng hoảng lòng tin rất dễ xẩy ra vì đà tăng
trưởng quá chậm của thế giới giàu ; do đó, khả năng
trả lãi của các con nợ cũng phải giảm theo. Tệ hơn
nữa, phần lớn nợ tư nhân đều dựa trên tích sản thế
chấp; trong khi giá trị các trái khoản luôn cố định
, giá trị các tích sản lại có thể sụt giảm. Điều nầy
đưa đến vòng lẩn quẩn: khi con nợ bị buộc phải bán
tích sản, giá tích sản càng bị đẩy xuống thấp hơn.
Vay
thêm nợ không còn là giải pháp có thể lựa chọn. Viễn
ảnh thêm tồi tệ đối với cả con nợ lẫn chủ nợ. Hầu
hết chính quyền các nước đều đối diện với lối đi dây
nguy hiểm: ổn định thị trường và duy trì tỉ suất
phát triển. Chính phủ mới ở Anh quốc đã nhận chức
vào đầu tháng 6-2010 với một ngân sách kiệm ước khẩn
cấp: cắt giảm chi tiêu công từ 47% GDP trong tài
khóa 2009-10 xuống dưới 41%, và nợ công từ 11% GDP
xuống 2%. Nhưng sống với ít nợ, chính quyền mới cũng
sẽ phải đối đầu với một loại thử thách dài hạn khác:
duy trì một tỉ suất phát triển có thể chấp nhận
được.
CON
ĐƯỜNG CHUỘC TỘI
Một
thế giới giàu với ít nợ sẽ rất khác. Các ngân hàng
đang phải đối diện với nhu cầu cần có một tỉ lệ tư
bản dự trữ cao hơn và đối chiếu biểu an toàn hơn.
Giới tiêu thụ Tây phương, đối diện với thuế cao và
tiện ích cắt giảm, sẽ không còn tự do chi tiêu, vì
họ sẽ phải tiết kiệm nhiều hơn khi đang đối diện với
tuổi sống hưu trí dài lâu. Một lần nữa, nhà là nơi
để ở, không còn là phương tiện để đầu cơ. Một vài mô
hình kinh doanh, nhất là tích sản tư hữu, khó lòng
phát triển. Đời sống sẽ khó khăn hơn đối với giới
doanh nhân: hơn phân nữa các xí nghiệp mới đều lệ
thuộc vào tín dụng hay vay mượn để tài trợ đầu tư.
Đối
với các nhà làm chính sách, thứ tự ưu tiên thật rõ
ràng.
Trước hết, họ phải chú tâm vào mục tiêu tăng trưởng.
Hoa Kỳ, với dân số tương đối trẻ và gia tăng, mục
tiêu nầy tương đối dễ theo đuổi. Lục địa Âu châu,
ngược lại, có nguy cơ gặp phải nhiều khó khăn, không
mấy khác Nhật Bản trước đây đã phải mất hai thập kỷ
vật lộn với mục tiêu tăng trưởng trong khi đối diện
với gánh nặng nợ nần và một dân số già cỗi. Thế hệ
trẻ Âu châu, nhiều khả năng và thông minh, có thể
tìm tới những xứ ít gánh nặng tài chánh; và nếu
kinh tế trì trệ, những thành phần không muốn ra nước
ngoài rất có thể phải quyết định hoặc chịu vỡ nợ,
hoặc cắt giảm các dịch vụ an sinh cho người già. Đối
diện với các nguy cơ vừa nói, Âu châu cần chấp nhận
các cải cách mang tính cơ cấu, cần thiết để tăng
tính mềm dẻo và tăng trưởng kinh tế càng nhanh càng
tốt.
Thứ
đến, các nhà làm chính sách cần phải đương đầu với
trách nhiệm lâu dài: tái quân bình kinh tế thế giới.
Trong các xứ Tây phương, các thành phần lao động
trong lứa tuổi 50 có lý do cần phải tiết kiệm để
chuẩn bị hưu trí, thay vì vay thêm nợ tín dụng để
chi tiêu. Nhưng nếu nhiều người tiết kiệm, nhiều
người khác lại phải vay mượn. Trong hiện tình, thế
giới đang phát triển không muốn có quá nhiều khuy
khiếm trong chương mục vãng lai; ngay cả thuyết phục
TQ bớt tiết kiệm cũng đã là một việc vô cùng khó
khăn.
Tuy
nhiên, quyền lợi lâu dài của mọi người đòi hỏi phải
thay đổi lối sống - và thế hệ trẻ trên thế giới cũng
cần giữ vai trò vay mượn. Giúp các xứ giàu thoát
khỏi bệnh ghiền vay mượn sẽ gây ra bệnh trầm cảm.
Kiệm ước, khắc khổ không bao giờ quyến rũ cử tri, họ
luôn có khuynh hướng đổ lỗi cho các chính trị gia và
người ngoại quốc. Nhận xét của Micawber có thể đã
cần được sửa đổi: khi lợi tức hàng năm lên cao
hơn chi tiêu hàng năm, kết quả có thể sẽ khổ đau.
NGUY
CƠ ĐẠI KHỦNG HOẢNG
Suy
thoái thường thấy; khủng hoảng hiếm khi xảy ra. Theo
Paul Krugman, trong lịch sử kinh tế chỉ có hai thời
kỳ được nhiều kinh tế gia mô tả như khủng hoảng:
những năm giảm phát và bất ổn tiếp theo sau Hoảng
Loạn (Panic) năm 1873 và những năm thất nghiệp hàng
loạt tiếp theo sau khủng hoảng tài chánh 1929-31.
Trong cuộc khủng hoảng dài lâu vào thế kỷ 19 cũng
như cuộc đại khủng hoảng trong thế kỷ 20, kinh tế
không phải luôn suy sụp. Thực vậy, cả hai đã diễn
tiến liên tục qua nhiều năm tháng khi suy sụp khi
tăng trưởng. Nhưng tăng trưởng dương đã không đủ
mạnh để hoàn toàn ra khỏi suy thoái ban đầu nên rồi
lại phải rơi vào suy thoái.
Hiện
nay, e rằng chúng ta đang ở trong những chặng đầu
của cuộc khủng hoảng thứ ba và hy vọng là cuộc
khủng hoảng duy nhất trong thế kỷ 21. Cuộc khủng
hoảng đang diễn tiến có nhiều nét tương đồng với
cuộc khủng hoảng dài lâu trong thế kỷ 19 hơn là với
cuộc đại khủng hoảng nghiêm trọng hơn nhiều trong
thế kỷ 20. Tuy nhiên, cái giá phải trả đối với kinh
tế thế giới và, nhất là đối với hàng triệu người
phải mất việc, vẫn vô cùng lớn lao đau đớn.
Lý
do chính yếu đưa đến cuộc khủng hoảng thứ ba hiện
nay là sự thất bại trong chính sách. Khắp nơi trên
thế giới, nhất là tại hội nghị thượng đỉnh G20 cuối
tháng 6 vừa qua ở Toronto, Canada, cấp lãnh đạo các
nước - đang bị ám ảnh bởi viễn ảnh lạm phát, trong
khi giảm phát mới là đe dọa thực sự - luôn thuyết
giảng sự cần thiết phải thắt lưng buộc bụng, quên
rằng vấn đề thực sự chính là suy giảm trong tổng chi
tiêu hay giảm chi.
Trong hai năm 2008 và 2009, nhiều dấu hiệu cho thấy
cấp lãnh đạo các quốc gia trên thế giới hình như đã
học được bài học lịch sử. Khác với các thế hệ tiền
nhiệm thường nâng lãi suất khi đối diện với khủng
hoảng tài chánh, các cấp lãnh đạo hiện nay của Cục
Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ và Ngân Hàng Trung Ương Châu
Âu đã cắt giảm lãi suất và có nhiều biện pháp hỗ
trợ các thị trường tín dụng. Khác với nhà cầm quyền
trong quá khứ luôn tìm cách thăng bằng ngân sách khi
kinh tế suy thoái, các chính quyền ngày nay đã chấp
nhận gia tăng khuy khiếm ngân sách để tài trợ phát
triển (deficit financing). Các chính sách thích ứng
vừa kể đã giúp kinh tế thế giới tránh được sụp đổ
hoàn toàn: cuộc suy thoái do khủng hoảng tài chánh
gây ra lẽ ra đã phải chấm dứt vào mùa hè vừa qua.
Tuy
nhiên, các sử gia tương lai sẽ cho chúng ta biết
cuộc khủng hoảng thứ ba chưa chấm dứt, cũng như một
vài dấu hiệu kinh tế đang đi lên bắt đầu từ năm 1933
đã không có nghĩa cuộc Đại Khủng Hoảng đã chấm dứt.
Xét cho cùng, thất nghiệp - nhất là thất nghiệp dài
hạn - vẫn ở mức đã được xem như tai họa trước đây
không lâu, vẫn chưa có dấu hiệu sụt giảm đáng kể. Và
cả Hoa Kỳ lẫn Âu châu đang trên đường rơi vào giảm
phát kiểu Nhật.
Trước viễn ảnh đen tối đó, nhiều người đã có thể chờ
đợi các nhà làm chính sách phải hiểu rõ họ chưa làm
đủ để đem lại hồi phục. Ngược lại, trong nhiều tháng
vừa qua, nhiều dấu hiệu tín dụng đã bị thắt chặt,
và lý thuyết cổ điển - ngân sách phải luôn cân bằng
- đã trỗi dậy một cách đáng ngại.
Về
mặt lý thuyết, sự hồi sinh của chủ thuyết xa xưa đã
biểu thị rõ nét ở Âu châu, nơi các cấp lãnh đạo hình
như đang lặp lại các diễn văn của Herbert Hoover, kể
cả chủ trương tăng thuế và giảm chi, vì tin các biện
pháp nầy thực ra có thể giúp kinh tế bành trướng,
qua tác động tâm lý làm tăng lòng tin của giới doanh
thương.
Trong thực tế, Hoa Kỳ cũng chẳng mấy khá hơn. Cục Dự
Trữ Liên Bang hình như đã ý thức được hiểm họa giảm
phát - nhưng chẳng có hành động gì để ngăn ngừa.
Chính quyền Obama hiểu rõ những tai hại của chính
sách kiệm ước quá sớm sủa. Thêm vào đó, phe Cộng Hòa
và một số dân biểu nghị sĩ Dân Chủ có khuynh hướng
bảo thủ trong Quốc Hội không cho phép viện trợ thêm
cho chính quyền các tiểu bang; vì vậy, chính sách
thắt lưng buộc bụng đang thắng thế, dưới hình thức
cắt xén một số chương trình hay giảm chi ở cấp tiểu
bang và địa phương.
Tại
sao có sự thay đổi chính sách theo chiều hướng vừa
nói? Các phần tử bảo thủ thiển cận thường đơn cử
những khó khăn đang đối diện Hy Lạp và một số quốc
gia Âu châu để biện minh cho hành động của mình. Quả
thực, giới đầu tư vào trái khoán (bond investors) đã
chỉ trích chính quyền đã để ngân sách khuy khiếm dai
dẳng. Nhưng không có bằng chứng các biện pháp kiệm
ước ngắn hạn trước một nền kinh tế đang suy thoái có
thể trấn an giới đầu tư. Ngược lại: Hy Lạp đã chịu
thắt lưng buộc bụng, chỉ để thấy khó khăn gia tăng
và ngày một tràn lan; Ireland đã cắt xén công chi
khá nhiều, nhưng thị trường đã phản ứng xem Ireland
như một xứ còn tệ hại hơn cả Spain, một nước vẫn đề
kháng các biện pháp kiệm ước bảo thủ cổ điển.
Cuối
cùng, hình như thị trường tài chánh hiểu rõ những gì
các nhà làm chính sách không chịu hiểu: đã hẳn,
trong trường kỳ quân bình ngân sách và trách nhiệm
tài chánh là quan trọng, giảm chi - khi kinh tế đang
suy thoái nặng nề, chỉ làm vấn đề thêm trầm trọng và
dọn đường cho giảm phát - trong thực tế, tự nó sẽ
đưa đến thất bại.
Đây
không phải chỉ đối với Hy Lạp, hay với bất cứ sự
trao đổi thực tiển nào giữa khuy khiếm ngân sách và
công ăn việc làm. Thực vậy, đây chỉ là sự đắc thắng
của phái chính thống và bảo thủ, không dính dáng gì
đến phân tích duy lý: nguyên tắc của phe nầy là áp
đặt kiệm ước và đau khổ lên người khác là cách họ
chứng tỏ khả năng lãnh đạo trong thời buổi khó khăn.
Nhưng ai sẽ phải trả giá cho sự chiến thắng của phái
chính thống? Câu trả lời đã khá rõ ràng: hàng chục
triệu công nhân thất nghiệp, đa số sẽ không có công
ăn việc làm trong nhiều năm, và một số khác sẽ không
bao giờ có cơ hội làm việc trở lại.
CỤC
DỰ TRỮ LIÊN BANG HOA KỲ: ĐIỀU CẦN LÀM
Năm
2002, khi nhận trách nhiệm Chủ Tịch Cục Dự Trữ Liên
Bang, giáo sư Ben Benanke, đã nói chuyện về đề tài:
"Giảm Phát: 'Điều' Phải Cầm Chắc Sẽ Không Xảy Ra
Ở Đây".
Cũng
như nhiều kinh tế gia khác, Benanke rất lấy làm bực tức
trước nạn giảm phát dai dẳng, như vô phương cứu chữa
ở Nhật, "kèm theo nhiều năm tăng trưởng chậm
chạp, thất nghiệp gia tăng, và nhiều khó khăn tài
chánh khó giải quyết".
Tình trạng nầy lẽ ra không thể để xẩy ra trong một
quốc gia tiền tiến với nhiều nhà làm chính sách uyên
thâm và đầy kinh nghiệm.
Vậy
liệu giảm phát có sẽ xẩy ra cho Hoa Kỳ?
Không phải lo xa, Bernanke trả lời: Cục Dự Trữ Liên
Bang có đủ dụng cụ cần thiết giúp nước Mỹ tránh né
"hội chứng Nhật", và sẽ sử dụng các dụng cụ
nầy, khi cần.
Ngày
nay, Bernanke là chủ tịch Cục Dự Trữ - và bài nói
chuyện năm 2002 còn vang vọng như những "danh
ngôn" cuối cùng của chính ông. Trong thực tế,
Hoa kỳ chưa hẳn đã rơi vào giảm phát. Tuy nhiên, lạm
phát thấp hơn mức Cục Dự Trữ ước muốn, 1,7 đến 2%,
rất nhiều, và có khuynh hướng giảm liên tục. Trong
một chừng mức nào đó, chúng ta có thể dự đoán giảm
phát sẽ xẩy ra bất cứ lúc nào trong năm 2011. Trong
giao thời, tỉ suất tăng trưởng quá chậm, thất
nghiệp quá cao, và nhiều vấn đề rất khó giải quyết.
Và phản ứng của Cục Dự Trữ ra sao? Cục Dự Trữ đang
thong dong thảo luận, xem xét đến lúc nào mới cần
làm một cái gì đó để đối phó.
Thực
ra, Cục Dự Trữ không phải là cơ quan duy nhất chểnh
mảng. Từ lâu, nhiều người đã ngạc nhiên và tức giận
khi thấy, trong khi khủng hoảng đang diễn tiến, giới
chính trị vẫn không động tĩnh gì. Hai năm trước đây,
bất cứ ai tiên đoán tình hình suy thoái hiện giờ
(không những thất nghiệp đã ở mức cao tai họa mà hầu
hết các dự báo đều kết luận sẽ kéo dài nhiều năm),
đều bị gạt bỏ như một người báo động điên cuồng.
Ngày nay khi ác mộng đã thành sự thật, ít ra đối với
hàng triệu người Mỹ, Hoa Thịnh Đốn hình như vẫn
tuyệt đối chẳng bận tâm. Dù cho nhiều hy vọng đã
tiêu tan, nhiều xí nghiệp tiểu thương bị vỡ nợ, đời
sống của nhiều người từ lâu đã vất vưỡng, giới chính
trị vẫn bình thản và chỉ âu lo hậu quả tai hại của
khiếm hụt ngân sách.
Người ta có thể còn nuôi hy vọng Cục Dự Trữ sẽ nghĩ
khác. Một mặt, không giống chính quyền Obama, Cục Dự
Trữ còn nhiều tự do hành động, không cần đến 60
phiếu trong Thượng Viện, các giới hạn ngoại vi trong
chính sách của Cục Dự Trữ không do quan điểm của các
nghị sĩ từ Nebraska và Maine áp đặt. Ngoài ra, Cục
Dự Trữ, trên bình diện trí thức, cũng được quan niệm
luôn sẵn sàng đối phó với khủng hoảng. Bernanke
trong nhiều năm đã đủ thời gian suy nghĩ phương cách
tránh né khủng hoảng kinh tế kiểu Nhật, và các bộ
óc nghiên cứu của Cục Dự Trữ trong nhiều năm cũng
luôn ám ảnh bởi cùng một vấn đề.
Nhưng giờ đây, kinh tế rõ ràng đang trên đường rơi
vào giảm phát, và Cục Dự Trữ vẫn đứng yên bất động.
Liệu
Cục Dự Trữ phải làm gì? Chính sách tiền tệ quy ước -
theo đó Cục Dự Trữ có thể giảm lãi suất ngắn hạn
bằng cách mua vào các công khố phiếu ngắn hạn (hay
nợ ngắn hạn của chính phủ Hoa Kỳ) - đã đi đến giới
hạn cuối cùng: lãi suất ngắn hạn đã xuống thấp gần
số không, và không còn có thể thấp hơn nữa. Giới đầu
tư không bao giờ mua trái phiếu với lãi suất âm vì
họ luôn có thể giữ tiền mặt.
Nhưng thông điệp 2002 của Bernanke còn nói đến nhiều
biện pháp khác Cục Dự Trữ có thể sử dụng. Cục có thể
mua công khố phiếu dài hạn, cũng như trái phiếu của
khu vực tư. Cục còn có thể gieo hy vọng bằng cách
loan báo sẽ giữ lãi suất ngắn hạn ở mức thấp nhất
trong một thời gian dài. Cục cũng có thể nâng cao
mức trần lạm phát dài hạn, giúp thuyết phục khu vực
tư vay mượn vẫn có lợi và giữ tiền mặt là một sai
lầm.
Không ai biết chắc hành động nào trong số vừa kể sẽ
hữu hiệu. Tuy nhiên, điều quan trọng là có nhiều
điều Cục có thể và cần làm, nhưng không làm. Tại sao
không?
Nói
cho cùng, các quan chức Cục Dự Trữ, cũng như hầu hết
các nhà quan sát, đều không mấy lạc quan đối với
triển vọng của nền kinh tế. Tuy nhiên, có lẽ họ đã
không đủ bi quan: các vị chủ tịch Cục Dự Trữ - những
người chịu trách nhiệm dự phóng tương lai kinh tế
mỗi lần họp của ủy ban ấn định lãi suất - đã không
dự phóng đủ đúng đắn nguy cơ rơi vào giảm phát. Tuy
nhiên, ngay cả dự phóng của họ cũng đã cho thấy thất
nghiệp cao và lạm phát thấp hơn mức trần, ít ra cho
đến cuối năm 2012.
Như
vậy, tại sao không tìm cách làm một cái gì đó để đối
phó? Người ta có thấy một cố gắng mang tính giải
thích trong bài nói chuyện gần đây của Kevin Warsh,
thành viên Hội Đồng Các Thống Đốc, theo đó ông cho
biết: "điều" năm 2002 Bernanke nhắc đến có
thể phương hại đến "uy tín định chế" của Cục
Dự Trữ (the Fed's institutional credibility). Tuy
nhiên, làm cách nào củng cố uy tín của Cục Dự Trữ
khi Cục đã không hề đối phó với thất nghiệp cao,
trong khi Cục luôn không đạt được các mục tiêu lạm
phát của chính mình? Uy tín của Ngân Hàng Trung Ương
Nhật còn được bao nhiêu sau hơn 15 năm giảm phát?
Dù
tình hình hiện nay ra sao, Cục cũng cần gấp rút tái
tư duy các thứ tự ưu tiên của mình. "Điều"
(giảm phát) năm 2002 Bernanke cảnh cáo phải chận
đứng không còn là một giả thiết khả dĩ, mà hiện có
thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Và Cục Dự Trữ phải làm
tất cả những gì có thể để chận đứng.
©
GS
NguyễnTrường
Irvine, California, USA
14-7-2010
|