Tuần lễ
đầu tháng 8-2011 lẽ ra phải là tuần lễ tốt đẹp cho kinh tế Hoa Kỳ.
Cuối cùng cấp lãnh đạo cũng đã chấm dứt cuộc đọ sức vô trách nhiệm
bên bờ vực thẳm, tránh được cuộc chiến tài chánh quyết liệt toàn
cầu, qua việc nâng cao trần công trái liên bang.
Tuy vậy,
thay vì thở phào nhẹ nhỏm, giới đầu tư vẫn rất e ngại âu lo. Thị
trường chứng khoán khắp thế giới chao đảo. Ngày đạt được thỏa thuận,
2-8-2011, chỉ số S&P 500 đã sụt giảm lớn nhất trong một năm, và lợi
nhuận trái phiếu ngân khố kỳ hạn 10 năm sụt giảm 2,6%, mức thấp
nhất trong 9 tháng, vì các nhà đầu tư lo tìm nơi trú ẩn an toàn cho
tư bản.
Không
phải chỉ riêng Hoa Kỳ. Khu vực euro cũng hỗn độn không kém, và kỹ
nghệ biến chế khắp nơi đều chậm lại. Viễn ảnh kinh tế Hoa Kỳ đã đột
nhiên đen tối. Các con số thống kê tái duyệt và một số thống kê mới,
khá u ám, đã cho thấy đà hồi phục èo ọp hơn chờ đợi và đã chững lại.
Nói rõ hơn, kinh tế dễ dàng rơi trở lại suy thoái, nhất là nếu bị
thêm một cú sốc mới - như Hoa kỳ hiện nay đang đối đầu với liều
lượng thắt chặt tài chánh, còn nghiêm trọng hơn với thỏa hiệp giữa
Bạch Ốc và Quốc Hội mới đây về trần công trái. Nguy cơ đại suy thoái
kép trong năm tới sẽ ở mức rất đáng âu lo, có lẽ trên dưới 50%.
Tiến
trình ra khỏi suy thoái bắt nguồn từ đối chiếu biểu của Hoa Kỳ luôn
chậm chạp và mong manh. Đã hẳn, nhờ ở sức mạnh của các nền kinh tế
đang lên, tai họa của Mỹ không nhất thiết phải quật ngã kinh tế thế
giới. Tuy nhiên, thái độ thiếu cẩn trọng của thỏa hiệp trần công
trái , nhất là không xử lý bất cứ căn nguyên thực sự nào của các vấn
đề tài chánh, đặc biệt là các chi phí chiến tranh và duy trì các căn
cứ quân sự ở hải ngoại, đã gây rất nhiều âu lo.
Câu hỏi
cần đặt ra là liệu các chính trị gia Hoa Kỳ, luôn phân hóa đảng phái
và sẵn sàng đùa giỡn với kinh tế quốc gia, có thể được tin cậy để
không biến một giai đoạn luôn khó khăn không thể tránh thành một đại
khủng hoảng dài lâu?
LÃNH ĐẠO
KINH TẾ MẤT PHƯƠNG HƯỚNG
Thử bắt
đầu với tình trạng hồi phục.
Ngày
29-7-2011, các cơ quan thống kê Hoa Kỳ công bố các con số thống kê
GDP đã được tái duyệt trong mấy năm qua. Tất cả đều chứng tỏ suy
thoái 2008 trong thực tế đã nghiêm trọng hơn nhận thức ban đầu, và
tiến trình phục hồi sau đó rất yếu ớt. Sản lượng chưa trở lại mức
tiền suy thoái và đà phục hồi èo ọp đã tan biến dần.
Sản lượng
trong năm rồi chỉ tăng 1,6%, thấp hơn tỉ suất tăng trưởng các kinh
tế gia chờ đợi rất nhiều, một tỉ suất trong quá khứ luôn dẫn đến suy
thoái. Trong 6 tháng vừa qua, Hoa Kỳ chỉ đạt được một tỉ suất phát
triển 0,8% cho cả năm. Ngay cả những nhà quan sát bi quan, trước đây
chỉ chờ đợi đà phục hồi của Hoa Kỳ trong giai đoạn đầu sẽ ở mức thấp
sát đáy, cũng đã ngạc nhiên trước một tỉ suất thấp như vậy.
Vài yếu
tố ngắn hạn đã giữ một vai trò nào đó. Giá năng lượng tăng vọt đã
giảm thiểu ngạch số tiêu thụ. Tai họa động đất, sóng thần, và hạt
nhân ở Nhật đã gây xáo trộn trong dây chuyền cung cấp các cơ phận và
sản phẩm. Vài kỹ nghệ, nhất là ngành sản xuất xe hơi, đang có dấu
hiệu hồi phục. Nhưng kinh tế nói chung hiện quá èo ọp, đến độ đòi
hỏi nhiều nỗ lực để có thể vực dậy một tỉ suất tăng trưởng phải
chăng.
Nhiều dấu
hiệu cho thấy các cú sốc ban đầu có thể đã để lại nhiều dấu ấn bất
lợi dài lâu trong tâm lý các xí nghiệp và giới tiêu thụ. Chính vì
vậy, các con số mới nhất rất đỗi bi quan. Chi tiêu của giới tiêu thụ
đã sụt giảm trong tháng 6; lòng tin của giới tiêu thụ cũng như đơn
đặt hàng của kỹ nghệ biến chế sụt giảm trong tháng 7.
Đã hẳn,
trên đây chỉ là những hình ảnh sớm sủa, không đầy đủ, nhưng nguy cơ
một suy thoái kép trong năm tới tương đối nhỏ cách đây một tháng
hiện đã tăng lên mức đáng lo ngại. Với số tín-dụng-giảm-thuế cơ sở
trên lương nhân công (pay-roll-tax credit) và phụ cấp thất nghiệp
gia hạn sẽ chấm dứt vào tháng 12 sắp tới, GDP Hoa Kỳ năm tới chắc sẽ
sụt giảm khoảng 2%, lớn nhất trong các quốc gia giàu mạnh, đủ để lôi
kéo một nền kinh tế suy yếu vào suy thoái.
Thỏa hiệp
về công trái, chỉ liên hệ các cắt giảm ngắn hạn mới và khiêm tốn,
không trực tiếp ảnh hưởng đến tình trạng nầy. Tuy nhiên, Quốc Hội lẽ
ra đã có thể, và cần chặn đứng quỹ đạo có tiềm năng tai họa . Cần
duy trì các khoản chi hay đầu tư ngắn hạn, đặc biệt đầu tư vào hạ
tầng cơ sở, để đổi lấy các cắt giảm trung hạn số khuy khiếm qua cải
cách thuế vụ.
Trong
thực tế, Quốc Hội đã hành động hoàn toàn trái ngược, không hỗ trợ
kinh tế trong hiện tại và không tìm cách cắt xén đủ trong thập kỷ
sắp tới để ổn định công trái hay nợ nần. Mọi quyết định khó khăn đều
được trao lại cho một ủy ban - một lối trốn tránh trách nhiệm gây
hoang mang tê liệt trong hàng ngũ công nhân và xí nghiệp. Không ai
có thể hiểu tình trạng hỗn loạn tài chánh sẽ được giải quyết như thế
nào. Thực vậy, hiện nay, các nhà đầu tư khó thể quyết định xây một
cơ xưởng mới khi biết trước thuế lâm thời sẽ phải tăng cao, nhưng
không có mảy may ý niệm loại thuế nào.
Tệ hại
hơn nữa, chính trị độc hại trong mấy tuần qua đã tạo ra nhiều thứ
bất trắc. Hiện nay, các thành viên Tea Party đã thành công
trong việc sử dụng chiến thuật tránh mặt như một vũ khí chính trị,
chiến thuật nầy chắc chắn sẽ được sử dụng khi cần trong tương lai.
Từ chối thỏa hiệp tương nhượng, nay đã nhanh chóng trở thành một
điều danh dự đối với cả hai đảng, đã làm tê liệt một phần Cơ Quan
Quản Trị Hàng Không Liên Bang (Federal Aviation Administration), và
trì hoãn nhiều pháp chế mậu dịch. May lắm, các chính trị gia cũng sẽ
làm giảm tiến độ tăng trưởng vốn đã ngập ngừng; tệ ra, họ còn có thể
sẽ bóp chết đà phục hồi và gây tai hại dài lâu cho guồng máy đem lại
thịnh vượng cho thế giới.
CỤC DỰ
TRỮ LIÊN BANG KHÔNG ĐỦ CAN ĐẢM CHÍNH TRỊ
Có thể
nào tình hình lại phải như thế? Đã hẳn, không nhất thiết. Trong quá
trình bầu cử tổng thống năm tới, Barack Obama hay một trong những
đối thủ Cộng Hòa có thể có đủ can đảm nói rõ sự thật về kinh tế Hoa
Kỳ. Nhưng với các chính khách thiếu trách nhiệm hiện nay, định chế
duy nhất có đủ thẩm quyền và khả năng lèo lái thoát nguy là Cục Dự
Trữ Liên Bang. Với lãi suất cực thấp, điều đó có nghĩa tín dụng sẽ
lỏng lẻo hơn. Trong trạng huống đó, in thêm tiền giấy có thể biện
minh, nhưng vẫn chỉ là một công cụ với
hiệu quả tiệm giảm. Các biện pháp tài chánh - tín dụng và thuế khóa
- có thể hữu hiệu hơn nhiều.
Nếu Hoa
Kỳ thành công tránh được suy thoái và dần dà khởi sự thoát khỏi vũng
lầy, đó chính là bằng chứng sức mạnh tiềm tàng của nền kinh tế. Hoa
Kỳ vẫn còn nhiều lợi thế lớn lao so với các xứ giàu khác: dân số trẻ
trung, gánh nặng thuế khóa tương đối còn nhẹ, kinh tế đầy sáng tạo,
và ít ra hiện nay đồng USD vẫn còn giữ vai trò ngoại tệ dự trữ toàn
cầu chính yếu. Nếu cấp lãnh đạo có viễn kiến, sáng suốt, lành mạnh,
và có đủ can đảm chính trị, cơ may tránh khỏi đại khủng hoảng vẫn
còn hiện hữu.
CÁC QUỐC
GIA ĐANG LÊN
Ngày
29-7-2011, các chuyên viên thống kê Hoa Kỳ đã tái duyệt các con số
GDP thực số trong mấy năm qua. Kết quả cho thấy sản lượng quốc gia
trong quý hai vẫn thấp hơn con số vào cuối năm 2007. Đây cũng là
trường hợp của nhiều quốc gia giàu khác.
Ngược
lại, tổng sản lượng các quốc gia đang lên đã gia tăng gần 20% trong
cùng giai đoạn. Những khó khăn của thế giới giàu rõ ràng đã tăng tốc
khuynh hướng chuyển dịch quyền lực kinh tế toàn cầu qua các nền kinh
tế đang lên.
Câu hỏi
cần được đặt ra là hiện nay tầm vóc thế giới đang lên so với thế
giới phát triển ra sao?
Đường
phân ranh giữa hai thế giới thay đổi tùy theo các tổ chức khác nhau.
IMF, chẳng hạn, hiện đang xếp 11 xứ đang lên trước đây vào danh sách
những nền kinh tế phát triển, trong số nầy có Hong Kong, Nam Hàn,
Cộng hòa Czech và Estonia. Những xếp hạng như thế đã hẳn mang tính
khá độc đoán: GDP tính theo đầu người của Estonia chỉ ở mức 15,000
USD, trong khi các nền kinh tế đang lên như United Arab Emirates và
Qatar có lợi tức trung bình theo đầu người khoảng trên dưới 60,000
USD.
Và nếu
các nền kinh tế đang lên được đẩy lên hàng ngũ các quốc gia phát
triển, vai trò hay ảnh hưởng kinh tế của thế giới đang phát triển sẽ
ngày một bị bào mòn, do đó, tầm quan trọng tiệm tăng của thế giới
đang phát triển đã bị đánh giá quá thấp.
Muốn thẩm
định đứng đắn tầm chuyển dịch quyền lực kinh tế toàn cầu thực sự,
các kinh tế gia đã sử dụng bảng xếp hạng của IMF trước năm 1997. Thế
giới phát triển gồm các thành viên nguyên thủy của Tổ Chức Hợp Tác
và Phát Triển Kinh Tế (OECD) ngoại trừ Thổ Nhĩ Kỳ.
Tất cả các quốc gia khác, kể cả các nền kinh tế tân kỹ nghệ hóa Á
châu như Nam Hàn đều được xếp vào hàng các nước "đang lên".
SO SÁNH
TỈ LỆ TĂNG TRƯỞNG
Sản lượng
gộp tính theo hối suất thị trường
của thế giới đang phát triển đã lên tới 38% GDP toàn
cầu trong năm 2010, gấp đôi con số năm 1990. Với đà nầy, tổng sản
lượng gộp của thế giới đang phát triển có thể vượt quá thế
giới phát triển trong vòng 7 năm.
Nếu GDP
được tính theo mãi lực tương đồng (purchasing-power parity),
vì giá cả thấp hơn trong các xứ nghèo đẩy mãi lực thực sự lên cao
hơn, các nền kinh tế đang lên đã vượt qua thế giới phát triển kể từ
năm 2008 và sẽ có thể lên đến 54% GDP toàn cầu trong năm 2011. Ấn
tượng hơn nữa, thế giới đang phát triển đã chiếm 3/4 tăng trưởng GDP
thực sự trong thập kỷ vừa qua.
Các con
số phân tích của tạp chí The Economist cho thấy các nước đang phát
triển cũng đã đạt nhiều thành quả rất ấn tượng trong nhiều địa hạt
khác. Một bước ngoặc lớn đã đạt được năm rồi (2010) khi số xuất khẩu
của các nền kinh tế đang lên đã vượt quá ranh giới 50% của toàn thế
giới, so với 27% năm 1990. Lợi tức lúc một gia tăng của các xứ nầy
cũng đã đẩy số nhập khẩu lên 47% của toàn thế giới trong năm 2010.
Tỉ suất nhập khẩu của thế giới đang phát triển cũng đã chiếm hơn 50%
số xuất khẩu của Hoa Kỳ trong cùng năm.
Các quốc
gia đang lên cũng đã ghi nhận một kỷ lục khác trong năm 2010 qua
việc thu hút hơn 50% số đầu tư trực tiếp từ các nước ngoài (FDI).
Nhiều doanh nghiệp ngoại quốc cũng đã bị cám dỗ bởi những xứ có thị
trường tăng trưởng nhanh và công xá thấp. Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài chỉ ở mức khiêm tốn 29% nhưng gia tăng nhanh chóng , một phần
do tài nguyên tài chánh dồi dào và nhu cầu nguyên liệu của TQ. Các
nền kinh tế đang lên thực sự đã giữ vai trò áp đảo trên thế giới về
số tiêu thụ các mặt hàng: các xứ nầy tiêu thụ khoảng 60% năng lượng
thế giới, 65% đồng, và 75% thép. Và tiềm năng tiêu thụ vẫn còn khá
lớn. Các thị trường đang lên sử dụng 55% dầu khí thế giới, nhưng
tiêu thụ trung bình tính theo đầu người vẫn còn dưới 1/5 so với thế
giới giàu.
Năm nay,
các nền kinh tế đang lên rất có thể chiếm khoảng trên 50% số tư bản
đầu tư, so với 26% trong năm 2000. Trái với các nước giàu, TQ và Ấn
đã đầu tư một phần GDP ngày một gia tăng trong vòng thập kỷ vừa qua.
Năm 2010, Hoa Kỳ đã đầu tư 16% GDP, so với TQ: 49%. Phần chi tiêu
trong tiêu thụ toàn cầu của các nền kinh tế đang lên chỉ ở mức 34%
(so với 24% năm 2000), nhưng một phần vì giá nhà và các dịch vụ rẻ
hơn so với các xứ giàu . Quan trọng hơn rất nhiều đối với các doanh
nghiệp Tây phương là thị phần bán lẻ thế giới - 46% , 52% thị phần
xe hơi (tăng từ 22% năm 2000), và 82% thị trường điện thoại di động.
Các nền
kinh tế đang lên còn yếu kém về thương mãi và tài chánh, nhưng vẫn
trên đà bắt kịp khá nhanh. Gần 1/4 trong số 500 xí nghiệp Fortune
Global, với thu nhập lớn nhất thế giới, đến từ các thị trường đang
lên; năm 1995, con số chỉ vỏn vẹn 4%.Thị phần vốn trên thị trường
chứng khoán thế giới của các xứ đang lên đã tăng lên 35%, gấp ba lần
con số năm 2000. Các xứ nầy đã tích lũy một bách phân đầy ấn tượng
81% số ngoại tệ dự trữ của chính quyền. Tuy nhiên, phần lớn tài sản
trong khu vực tư vẫn còn trong tay các xứ phát triển. Jonathan
Anderson, kinh tế gia thuộc UBS, ước tính các thị trường đang lên
nắm giữ khoảng 1/4 các tích sản tài chánh toàn cầu (tiền mặt, chứng
khoán, trái phiếu), gấp đôi thị phần của chính họ chỉ 10 năm trước
đây.
Các xứ
đang lên hiện nợ rất ít: chỉ 17% tổng công trái. Trong những năm sắp
tới, những món nợ kếch sù sẽ là một gánh nặng kiềm hãm tỉ suất tăng
trưởng của các xứ giàu. Viễn ảnh dài hạn rất tươi sáng đối với các
nền kinh tế đang lên, với rất ít nợ, dân số thuận lợi, và tiềm năng
nâng cao năng suất khổng lồ.
Hai thập
kỷ trước đây, các mô hình kinh tế xem thường thế giới đang phát
triển, như hoàn toàn chịu mọi chi phối của thế giới giàu. Ngày nay,
các thị trường đang lên đang là đầu tàu chi phối tăng trưởng toàn
cầu, giá cả các mặt hàng, và lạm phát.
THƯỢNG
LƯU LÃNH ĐẠO VÀ TRÁCH NHIỆM
Ba năm
qua là một tai họa đối với hầu hết các nền kinh tế Tây Phương. Lần
đầu tiên sau Kinh Tế Đại Khủng Hoảng 1929-33, Hoa Kỳ đang đối diện
với nạn thất nghiệp trầm trọng dài lâu, và khu vực euro ở Âu châu
đang trên bờ tan rã.
Trước
hết, trường hợp của Hoa Kỳ. Trong những ngày gần đây, người ta được
nghe rất nhiều về nợ nần và khiếm hụt. Câu hỏi cần được đặt ra là
điều gì đã xẩy ra cho số thặng dư trong ngân sách chính phủ liên
bang trong năm 2000?
Câu trả
lời: có ba nguyên nhân chính. Thứ nhất, các đợt giảm thuế cho giới
nhà giàu dưới thời George W. Bush đã gây thêm khoảng 2,000 tỉ công
trái trong thập kỷ vừa qua. Thứ hai, Hoa Kỳ đang sa vào vũng lầy hai
cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan-Pakistan, cũng đã phải vay thêm
khoảng 1,100 tỉ nợ công. Thứ ba, đại suy thoái 2008 đã đưa đến sự
sụp đổ trong số thu nhập và bùng nổ chi tiêu về bảo hiểm thất
nghiệp và các chương trình cứu trợ của chính phủ liên bang.
Tổng
Thống George W. Bush đã giảm thuế, không phải để đáp lại bất cứ đòi
hỏi nào của người dân, mà vì lý do ý thức hệ đảng phái. Và chỉ một
thiểu số giàu có được thụ hưởng số thuế cắt giảm.
Cũng
chính Bush đã chọn tấn công xâm lăng Iraq chỉ vì những gì Bush và
các cố vấn cận thần muốn theo đuổi, không dính dáng gì đến sự kiện
11-9. Trong thực tế, chính quyền Bush đã phải phát động một chiến
dịch tuyên truyền thiếu trung thực, nói rõ hơn, đã phải lừa dối, để
động viên người Mỹ ủng hộ cuộc xâm lăng. Mặc dù vậy, đa số cử tri Mỹ
chưa bao giờ thật sự ủng hộ cuộc chiến như giới chính trị thượng lưu
Hoa Kỳ.
Cuối
cùng, Đại Suy Thoái 2008 là hậu quả của lòng tham thái quá của Wall
Street, được tăng cường bởi quá trình gỡ bỏ pháp chế giám sát tài
chánh một cách vô trách nhiệm. Chính những nhân vật thế lực ở Hoa
Thịnh Đốn, có liên hệ mật thiết với kỹ nghệ tài chánh, phải chịu
trách nhiệm về việc hủy bỏ mọi pháp chế quy định và giám sát.
Tóm lại,
chính giới nầy đã giữ vai trò thiết yếu trong việc cởi bỏ mọi quy
định, giám sát cũng như đứng đằng sau luật giảm thuế cho giới nhà
giàu.
Như vậy,
chính những tính toán sai lầm của giới lãnh đạo chính trị thượng
lưu, không phải lòng tham của người dân bình thường, đã gây ra tình
trạng công trái nợ nần của Mỹ.
Phần lớn
những điều trên đây cũng đúng với cuộc khủng hoảng ở Âu châu. Khỏi
phải nói, đó không phải những gì bạn có thể nghe từ cửa miệng các
nhà làm chính sách Âu châu. Câu chuyện chính thức hiện nay là chính
quyền các nước gặp khó khăn đã nuông chiều quá đáng quần chúng, hứa
hẹn quá nhiều với cử tri trong khi thu thuế quá ít. Công bằng mà
nói, điều đó khá đúng với trường hợp Hy Lạp. Nhưng đó không phải
những gì đã xẩy ra ở Ireland và Tây Ban Nha - cả hai đều rất ít nợ
và có ngân sách thặng dư trước khủng hoảng.
Câu
chuyện thực về khủng hoảng Âu châu là cấp lãnh đạo đã nhất trí phát
hành một đơn vị tiền tệ duy nhất, đồng euro, mà chẳng chuẩn bị những
định chế cần thiết để đối phó với thịnh vượng và suy thoái bên trong
khu vực euro. Và nỗ lực thành đạt đơn vị tiền tệ duy nhất ở Âu châu
là một dự án áp đặt từ trên xuống, một viễn kiến của giới thượng
lưu, và giới cử tri chưa sẵn sàng chấp nhận.
Chính vì
vậy, tại sao chúng ta lại trút lỗi các chính sách sai lầm lên đầu
quần chúng. Câu trả lời đầu tiên là trách nhiệm đơn thuần.
Những ai
chủ trương các chính sách ngân sách bất thăng bằng trong những năm
dưới thời George W. Bush không thể được phép đội lốt diều hâu lớn
tiếng chỉ trích thiếu hụt ngân sách. Những kẻ ca ngợi Ireland như
một mô hình kiểu mẫu không được quyền rao giảng một chính quyền
trách nhiệm.
Ngược
lại, chúng ta sẽ tự đánh mất cơ may học hỏi bài học kinh nghiệm từ
khủng hoảng. Chúng ta cần quy trách đúng người, phải trừng phạt
những lãnh đạo thượng lưu làm chính sách. Nếu không, lớp người nầy
sẽ tiếp tục gây hại trong tương lai.
KHỦNG
HOẢNG VÀ GIẢI PHÁP
Những xáo
trộn trên thị trường trong suốt tuần qua chứng tỏ đại suy thoái kinh
tế bắt đầu từ năm 2008 rõ ràng vẫn chưa chấm dứt. Và những gì chúng
ta đang thấy là những gì đang xảy ra khi giới thượng lưu đầy thế lực
đang khai thác thay vì tìm các giải quyết.
Đã hơn 18
tháng trôi qua kể từ khi T T Obama , trong diễn văn về Tình Trạng
Liên Bang, đã lựa chọn chú tâm vào vấn đề thiếu hụt ngân sách thay
vì tạo công ăn việc làm, các cuộc tranh biện trên các diễn đàn công
luận luôn bị lấn át bởi những âu lo về ngân sách và bỏ quên tình
trạng thất nghiệp. Nhu cầu giảm thiểu ngạch số khuy khiếm trong ngân
sách, được xem là cấp thiết, đã lấn át mọi thảo luận đến độ ngày thứ
hai, 8-8-2011, trong khung cảnh hỗn loạn của thị trường, Obama đã
dành hầu hết bài nói chuyện cho vấn đề thiếu hụt ngân sách thay vì
nguy cơ hiện hữu và rõ ràng suy thoái đang tái diễn.
Thật là
một điều kỳ lạ trong khi thị trường có nhiều tín hiệu rõ ràng - thất
nghiệp thay vì công trái nợ nần là vấn đề quan trọng bậc nhất đối
với Mỹ -, phe diều hâu nay đang lớn tiếng chỉ trích thiếu hụt ngân
sách, trong nhiều năm đã luôn cảnh cáo lãi suất trên số nợ của chính
quyền có thể tăng cao bất cứ lúc nào; và nguy cơ từ thị trường trái
phiếu được xem như lý do người Mỹ phải cắt giảm khiếm hụt ngay tức
khắc.
Tuy
nhiên, cho đến nay, nguy cơ nầy, trong thực tế, vẫn chưa hề trở
thành hiện thực. Và trong tuần, tiếp theo sau sự xuống cấp tín dụng
lẽ ra đã làm nản lòng giới đầu tư tung tiền vào trái phiếu, lãi
suất thay vì lên cao lại sụt giảm xuống mức cực thấp.
Thực tế
trên đây cho thấy điều đáng lo ngại hiện nay không phải là ngân sách
khuy khiếm, mà chính là kinh tế yếu kém. Và kinh tế yếu kém có nghĩa
lãi suất thấp và thiếu cơ hội kinh doanh, và vì vậy, trái phiếu ngân
khố trở thành hấp dẫn thu hút đầu tư ngay cả khi lợi nhuận (yield)
rất thấp. Nếu sự xuống cấp của trái phiếu ngân khố có một hệ lụy, hệ
lụy đó là tăng cường nỗi lo các chính sách kiệm ước hay thắt lưng
buộc bụng, những chính sách sẽ làm trầm trọng các khó khăn kinh tế
hơn nữa.
Nói một
cách khác, những tranh luận ở Hoa Thịnh Đốn chỉ xoay quanh một đề
tài sai lầm. Thực vậy, nguyên nhân là phe Cộng Hòa cực hữu đã giữ
một vai trò quan trọng. Mặc dù phe nầy hình như không mấy quan tâm
đến vấn đề khiếm hụt - bằng chứng là họ luôn chống đối mọi gợi ý
tăng thuế đánh lên giới nhà giàu - họ chỉ lợi dụng tình trạng khiếm
hụt ngân sách như một phương cách hữu ích để tấn công các chương
trình của chính phủ.
Tình hình
càng tồi tệ hơn khi nhiều quan chức thế lực cũng hăng say thay đổi
đề tài - tránh xa đề tài tạo công ăn việc làm, ngay cả khi tỉ suất
thất nghiệp vẫn trên 9%, và đang theo đuổi các nghị trình riêng tư
sẵn có từ trước.
Chẳng
hạn, nhiều quan chức tự xem thuộc phe trung hữu hoặc trung tả lên
tiếng chủ trương không thể có giải pháp đoản kỳ cho các khó khăn
kinh tế, và việc làm trách nhiệm là tập trung vào các giải pháp dài
hạn, đặc biệt là cải cách các chương trình an sinh (entitlement
reform) - có nghĩa cắt xén an sinh xã hội và y tế (Social Security
và Medicare). Những quan chức nầy mới là nguyên nhân chính đã đẩy
Hoa Kỳ vào tình cảnh khó khăn hiện nay.
Thực vậy,
nền kinh tế hiện nay đang cần đến các giải pháp ngắn hạn. Khi hàng
triệu nhân công cần và có thể làm việc bị thất nghiệp, và tiềm năng
kinh tế đang phí phạm theo nhịp 1,000 tỉ USD mỗi năm, điều thiết yếu
là các nhà làm chính sách phải chú tâm đem lại phục hồi nhanh chóng,
thay vì thuyết giảng về nhu cầu khả năng tài chánh trong trường kỳ.
Không
may, thuyết giảng những đức tính cần thiết trong trường kỳ là một
thời trang thịnh hành ở Hoa Thịnh Đốn. Đó là thái độ hay những gì
các quan chức luôn muốn tỏ ra nghiêm túc thường khoác, thường làm,
để chứng tỏ mình nghiêm túc. Vì vậy, khi khủng hoảng xẩy ra và dẫn
đến khuy khiếm ngân sách lớn lao - vì đó là điều dĩ nhiên phải xẩy
ra khi kinh tế co rút và thu nhập của nhà nước sụp đổ - những quan
chức nầy luôn sốt sắng chộp lấy cơ hội để thể hiện những nghị trình
riêng tư có sẵn trong khi kinh tế tiếp tục mất máu.
Vậy giải
pháp là gì? Trước hết, chính quyền trong hiện tình, thay vì giảm
chi, phải chi tiêu nhiều hơn. Với thất nghiệp tràn lan, lãi suất
thấp, chính quyền nên xây trường học, đường sá, hệ thống nước, các
hạ tầng cơ sở... Chính quyền cũng có thể giúp làm nhẹ bớt gánh nặng
nợ nần của giới nghèo qua những chương trình giảm nợ và tái tài trợ
bất động sản. Thậm chí, cục Dự Trữ Liên Bang cũng có thể kích động
nền kinh tế, với biện pháp mở rộng tín dụng rẻ tiền, cố tình gây lạm
phát để giúp giảm thiểu các gánh nặng nợ nần.
Đã hẳn
những kẻ nghi ngờ sẽ lên tiếng tố cáo những biện pháp vừa nói là vô
trách nhiệm. Nhưng vô trách nhiệm chính là thúc đẩy tiếp tục những
việc làm trước khủng hoảng và để mặc kinh tế tiếp tục mất máu.
©Nguyễn
Trường
Irvine,
California, U.S.A.
26-8-2011