| |
Vietsciences-Lê Hoàng 12/01/2010 |
(2) Điểm chốt trên tuyến đường thông thương trên biểnTại buổi họp báo tháng 2/1986, Tổng thống Hoa Kỳ R. Reagan đã trình bày những điểm chốt (Choke point) về quân sự trên Sea Lanes và những điểm chốt nầy có liên hệ như thế nào với tuyến đường vận tài dầu mỏ ? Hơn thế nữa là dầu mỏ đã thông qua tuyến đường biển nào ? Để chuyên chở dầu mỏ từ biển Caspian qua ngõ Vịnh Péc Xích thì phải đi ngang eo biển Holmes xuyên Ấn độ dương vào eo biển Malacca hay eo biển Lombok để tiến vào biển Đông.
Các điểm chốt của tuyến vận tải dầu mỏ, trong trường hợp đi qua Hắc hải phải theo eo biển Bosporus, lượng tàu biển qua eo biển nầy năm 1999 là 47,906 chiếc (trong đó các tàu cỡ lớn cần hướng dẫn là 18,424 chiếc) và trong số đó 5,404 chiếc tàu chuyên chở dầu chiếm 29,3% tuy nhiên vì eo biển nầy chật hẹp nên sự cố xảy ra (mắc cạn hoặc đâm nhau) ngày càng nhiều. Năm 1995 có 4 vụ, năm 1998 là 11 vụ, 1999 là 16 vụ. Mặt khác eo biển Bosporus nằm vắt ngang thành phố Istanbul(Thổ Nhĩ Kỳ) nên qui chế bảo đảm an toàn hết sức nghiêm nhặt, tháng 11/2000 khi TQ (Hồng Kông) mua tàu sân bay( chưa hoàn thành) của Nga bị cấm kéo qua đây với lí do gây nguy hiểm cho thấy nhiều tàu chở dầu cỡ lớn đã không thể đi lại qua vùng biển nầy.
Eo biển Malacca
Tàu bè qua lại ở điểm chốt thứ hai là kênh đào Suez khoảng 14,300 chiếc và phải đưa chuyên gia lên lái tàu qua kênh đào cho nên hạn chế số lượng tàu sử dụng tuyến đường biển nầy. Năm 1998 lượng tàu qua lại kênh đào Suez hàng tháng là 1128 chiếc (bình quân 37,6 chiếc/ngày). Trong số các tàu lớn qua eo biển nầy, số tàu chở dầu là 193 chiếc, chiếm khoảng 12% vào năm 1997, so với năm 1989 là 162 chiếc, lượng dầu hỏa và sản phẩm dầu hỏa đi hướng Nam là 607,700 tấn, phía bắc là 155,500 tấn. Tàu thuyền từ Suez hay Châu Phi hướng về Đông Bắc Á đều phải đi qua Vùng đặc quyền kinh tế(EEZ=Economic Exclusive Zone) theo Công ước về Luật Biển mới của Indonesia đã được công nhận. Vùng EEZ nầy bao gồm cả eo biển Malacca và Lombok nhưng eo biển Malacca là tuyến đường ngắn nhất khi từ Châu Âu hay khu vực Trung Cận Đông đi Đông Nam Á và Đông Bắc Á, vì vậy tàu bè qua lại tấp nập không kém gì eo biển Anh-Pháp, có khoảng 41,800 chiếc qua lại mỗi năm. Vấn đề là eo biển Malacca rất hẹp và độ nông của biển. Đường hàng hải cực nam của eo biển nầy là One Fathan Bank chỉ rộng 1,5 mile và mực nước sâu từ 21,1-22,9 mét, các con tàu cỡ lớn phải chờ thủy triều lên mới có thể đi được.
Nếu sử dụng đường vòng không qua eo biển Malacca thì phải đi qua eo biển Lombok nằm giữa đảo Baki và đảo Lombok, kế đến là eo biển Makassar nằm giữa đảo Kalimantan(Borneo) và đảo Sulawesi(Selebes) có độ sâu 150 mét là eo biển duy nhất không hạn chế trọng tải. Tuy nhiên tàu từ Trung Đông đi vòng theo tuyến nầy dài khoảng 1500 miles, phải tốn thêm 3-5 ngày đường. Đây cũng là tuyến hàng hải quan trọng để chuyên chở các loại quặng sắt, than đá từ Australia xuất khẩu đi các nước Đông Bắc Á.
Mặt khác, eo biển Selat Sunda nằm giữa đảo Sumatra và đảo Java nếu đi qua mũi Cape of Good Hope để đi Đông Bắc Á thì đây lại là con đường ngắn nhất nhưng tàu bè qua lại rất phức tạp, không hạn chế tải trọng vì vậy đối với loại tàu trên 100,000 tấn thì ít khi sử dụng tuyến qua Lombok không phổ biến trong hàng hải quốc tế. Phía đông eo biển Lombok là eo biển Onbei Weter hay Torres nhưng chưa thể dùng làm tuyến hàng hải quốc tế vì thiếu hạ tầng cơ sở, biển báo. Ngoài ra, các vùng biển ở quần đảo Trường Sa, eo biển Đài Loan hoặc vùng biển chung quanh quần đảo Senkaku hoặc Đông Trung Hoa là những nơi tuy không phải là vùng biển chiến lược nhưng khi xảy ra xung đột thì vấn đề an toàn của Sea Lanes vẫn bị đe dọa. Hiện nay, mối lo lớn nhất giữa các nước ASEAN là khả năng tuyến đường thông thương bị cắt đứt, nói khác đi là các cuộc tranh chấp những mỏ dầu đáy biển trong khu vực chung quanh Trường Sa. Trong trường hợp xảy ra xung đột thì chi phí vận tàu bằng đường vòng sẽ làm tăng phí vận chuyển gây ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế.
(3) Độ lệ thuộc về kinh tế vào Sea Lanes
Tiếp theo, chúng ta thử nhìn xem có bao nhiêu tàu thuyền qua lại những tuyến đường biển nầy. GS John H. Noer thuộc Viện Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Gia của đại học quốc phòng Hoa Kỳ cho biết, theo số liệu năm 1993 trên thế giới, số tàu có tải trọng trên 1000 tấn là 26,164 chiếc với 2 triệu 200 nghìn lượt hàng hải, trong đó có 8842 chiếc qua eo biển Malacca 94,000 lần.
Nguyên liệu rất cần cho công nghiệp các nước Đông Bắc Á là dầu thô và sản phẩm từ dầu mỏ, bảng 4 là than đá và than luyện(cocks) và bảng 5 là lượng quặng sắt chuyên chở đi về phía bắc bằng tàu, bảng 6 là lượng hàng hóa (chủ yếu là hàng công nghiệp từ các nước Đông Bắc Á đi ĐNÁ hay Châu Âu. Theo các bảng thống kê nầy dầu mỏ xuất phát từ vịnh Péc Xích đi qua eo biển Malacca là chủ yếu, hàng hóa đi qua eo biển Lombok hầu hết là than đá, quặng sắt xuất phát từ Australia. Hầu hết là chuyên chở cho thị trường Nhật bản. Có thể thấy được rằng sự phát triển và thịnh vượng của Nhật Bản cũng như các nước ĐNÁ phải dựa rất lớn vào “sự tự do đi lại trên biển nhờ vào an ninh và tuyến đường Sea Lanes được đảm bảo.
Mặt khác, trọng lượng và kim ngạch hàng hóa chuyên chở ở nơi gửi đến nơi đến và theo thồng kê thì các nước Bắc Đông Á (Nhật, Hàn quốc, Đài Loan, Hồng Kông) nhập nguyên liệu, còn tàu từ Đông Bắc Á là sản phẩm cho các nước ĐNÁ hay Châu Âu, trong đó Châu Âu là điểm đến lớn nhất. Nhật bản là điểm đến lớn nhất của các loại nguyên liệu và là điểm xuất phát lớn nhất các loại thành phẩm công nghiệp. Bảng 2 và 3 “Xuất nhập khẩu giữa các khu vực qua Sea Lanes ở ĐNÁ” là thống kê lượng hàng hóa và gía cả theo từng nước chuyên chở qua các tuyến hàng hải thuộc các eo biển ở ĐNÁ(Lombok, Malacca, Trường Sa, Sunda) .
Các tuyến Sea Lanes
Biển chiếm 2/3 diện tích địa cầu, là nơi cung cấp phương tiện chuyên chở vừa rẻ lại vừa được số lượng lớn nhất là tài nguyên, chất đốt, sản phẩm công nghiệp. Ngày nay việc chuyên chở bằng đường hàng không tăng nhanh, năm 1995 là 13 triệu tấn, chiếm 28,9% kim ngạch vận tải tuy nhiên nhìn về số lượng thì chỉ tương đương với 0,3%, 99,5% (4678 triệu tấn) vật tư được chuyên chở bằng đường biển.
(4) Các vấn đề Tàu bè và bến cảng
Mạng lưới vận tải biển trên thế giới
Bảng 2. Xuất khẩu giữa các khu vực đi qua các Sea Lanes ở ĐNÁ
*NIEs gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông; Châu Âu không gồm Đông Âu và địa trung hải)
Sea Lane qua eo biển Malacca và các sea lanes khác
Lượng tàu trong đội thương thuyền của Nhật bản vào cuối năm 1999 là 1996 chiếc (6 triệu 727 nghìn tấn), tàu mang quốc tịch Nhật bản là 154 chiếc (11 triệu 280 tấn chiếm 7,7% nếu tính về số tàu, và 16,8% nếu tính theo số tấn hàng hóa chuyên chở. Tỷ lệ số tàu mang quốc tịch Nhật Bản có khuynh hướng giảm sút. Ngoài ra, tàu nước ngoài mang quốc tịch Panama là 1263 chiếc (chiếm 64,2% tổng số), trọng tải 38 triệu 080 nghìn tấn( 56,6%), Liberia là 142 chiếc(7,8%) trọng tải 4 triệu 920 nghìn tấn(8,2%), hầu hết mang quốc tịch vì vấn đề tiện dụng, nếu so với mức 1580 chiếc vào năm 1972 thì đội thương thuyền của NB ngày càng giảm bớt vì không đủ sức cạnh tranh với nước ngoài do chế độ lương bổng của thuyền viên NB theo qui định của hợp tác xã công đoàn thủy thủ toàn Nhật bản, chi phí đăng kí tàu và thuế tài sản cố định quá cao.
Bảng 4. Sự biến đổi cơ cấu tàu bè NB( tàu quốc tịch Nhật và tàu nước ngoài)
Mặt khác, cùng với hoạt động kinh tế ngày càng “toàn cầu hóa”, sự thay đổi quốc tịch tàu sang nước ngoài, mang quốc tịch có lợi nhất càng phổ biến, trở thành vấn nạn khi muốn tìm hiểu quốc tịch của một chiếc tàu nào đó. Thí dụ như chủ chiếc tàu là người TQ(Hồng Kông), nhưng người bỏ vốn đầu tư lại là người Nhật, đăng kiểm tại Panama, thuyền trưởng là người Nhật, máy trưởng là người Hàn quốc, thuyền viên là người Philippines hay Việt Nam, cơ quan bảo hiểm là LLoyde bên Anh quốc, hàng hóa vận chuyển lại là hàng điện máy Nhật sản xuất ở Malaysia…là trường hợp không phải hiếm. Điều nầy dẫn đến nguy cơ là chiếc tàu mang nhiều quốc tịch khác nhau, gây khó khăn cho việc đào tạo thuyền viên, trang thiết bị không hợp lệ và hơn thế nữa là khi xảy ra vấn đề thì đưa đến nhiều vấn nạn liên hệ đến sự tồn vong của quốc gia như không đảm bảo được số thuyền viên, không có đủ lượng hàng nhập khẩu cần dùng…
Trong khi đó, quota cho thuyền trưởng mới lại ít, số người thuyền trưởng cao niên không có người thay thế, nếu tình hình nầy tiếp diễn thì trong 10 năm tới sẽ không còn thuyền trưởng người Nhật. Nếu trong lúc xảy ra “sự biến” mà lại không có tàu treo cờ Nhật (quốc tịch NB) thì sẽ đưa đến cảnh chủ hàng hay chủ tàu phải cho tàu đi qua vùng biển nguy hiểm hoặc thuyền viên nước ngoài đành phải làm việc cho Nhật bản trong khi nơm nớp lo lắng đến sinh mạng của mình, lực lượng hải quân của NB không thể bảo vệ hay hộ tống vì hàng rào luật pháp hiện hành.
Phần lớn dầu mỏ thường được vận tải theo tàu chuyên dụng đến các bến cảng riêng còn những hàng hóa khác chuyên chở bằng tàu ngày càng theo khuynh hướng con-te-nơ hóa, 10% hàng hóa ra vào Nhật bản, tương đương với 88 triệu tấn thì 82,4% là hàng con-te-nơ. Khuynh hướng rõ rệt gần đây là những con-te-nơ nầy thường theo tàu chuyên dụng cỡ lớn cập các cảng chính như Cao Hùng, Hồng Kông, Fusan, sau đó được chuyển sang các tàu con-te-nơ nhỏ đưa hàng cập bến Nhật Bản vị trí của cảng biển Nhật Bản ngày càng sụt giảm như bảng 5. Lý do là các bến cảng từ chối bốc dỡ hàng hóa vào đêm khuya, phí cập bến cao, sau khi bốc hàng lên bờ chi phí chuyên chở trên đất liền cao và các bến cảng ngày càng nông, không đủ sâu cho loại tàu con-te-nơ…
Bảng 5.Thứ hạng của Cảng Con-te-nơ trên thế giới
2. Các vấn đề về con đường chuyên chở dầu mỏ trên biển(1) Các vấn đề phát sinh từ Luật biển mới của LHQ
Năm 1994 Luật biển mới của LHQ bắt đầu có hiệu lực, vùng biển từ bờ đến 200 hải lý được công nhận là khu vực đặc quyền kinh tế, tài nguyên dưới đáy biển cũng như chủ quyền, quyền tài phán của nước dọc ven biển nầy được công nhận. Nhờ vậy khoảng 49% đại dương thuộc vào quyền quản lý của nước nào đó, như lời mở đẩu của Luật biển mới nầy thì tự do hàng hải được chấp nhận.
1/ Tàu bè vô hại nước ngoài có quyền đi lại ở vùng biển quần đảo (điều 1 khoản 52)
2/ Nước quần đảo có thể chỉ định tuyến đường hàng không và tuyến đường trên biển thích hợp với việc đi lại nhanh và thích hợp nhất cho máy bay và tàu thuyền nước ngoài trong vùng biển tiếp với vùng thủy của quần đảo thuộc nước mình hay bầu trời trên vùng lãnh hải(điều 1 khoản 53)
3/ Trong trường hợp nầy các tàu thuyền hay máy bay được đảm bảo quyền đi lại qua vùng hải lộ của quần đảo (điều 2 khoản 53)
Nhưng vấn đề “Các nước quần đảo có thể tạm đình chỉ việc đi lại của tàu thuyền vô hại của nước ngoài ở vùng đặc quyền kinh tế của quần đảo trong trường hợp bất khả kháng nhằm đảm bảo an ninh cho nước mình” (điều 2 khoản 52) hay “Quyền đi lại ngang qua khu vực vùng trời của quần đảo” là“quyền đi ngang hay bay qua vùng trời theo hình thức thông thường (điều 3 khoản 53) đã có ghi rõ trong Luật biển mới, và dựa vào qui định nầy sẽ phát sinh ra vấn đề cấm đoán các tàu chiến, mẫu hạm giữ nguyên biên đội hay chống tàu ngầm, buộc tàu ngầm phải nổi lên mặt biển khi đi lại trong vùng đặc quyền kinh tế.
Mặt khác, một số nước ven bờ đưa ra vấn đề quyền lợi của mình trong việc khai thác tài nguyên biển, xác lập chủ quyền các đảo hay đường biến giới lãnh hải trong khu vực liên quan đến quyền tài phán, tạo ra một sự tranh chấp với các nước đang thông thương trên Sea Lanes. Thí dụ như Indonesia , theo luật biển mới được công nhận quyền kiểm soát của mình trên một vùng biển rộng lớn, trở thành nước có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng một cách ổn định vùng hàng hải quan trọng nối liền Châu Á-TBD với Châu Âu,Trung Đông hay cả với Australia qua các eo biển Malacca, Sunda, Lombok…Tuy nhiên các eo biển quốc tế mà Indonesia được công nhận rất giới hạn, khác với chủ trương về eo biển quốc tế của Hoa Kỳ và các nước khác.
Như vậy nếu chủ trương của các nước ven biển đưa ra “quá đáng” thì vùng biển quản lý thuộc các nước sẽ bị chia cắt, có nguy cơ vi phạm quyền “tự do đi lại” để phát triển kinh tế của xã hội quốc tế.
Mặt khác vấn đề cấm trang bị vũ khí hạt nhân ở thềm lục địa thì giữa Hoa Kỳ và các nước Châu Á cũng khác nhau. Mối quan hệ giữa biển và các nước ASEAN xét về mặt lịch sử thì cũng không sâu sắc, họ cho rằng việc hạn chế những hoạt động của hải quân sẽ giúp cho nền hòa bình của biển được lâu dài, ngày 2/1/195 “Hiệp ước xây dựng phi vũ trang hạt nhân ĐNÁ”(SEANWFZ: South East Asian Nuclear Weapon Free Zone”) đã được kí kết. Chính phủ Mỹ cho rằng hiệp ước nầy nhằm hạn chế “quyền tự do của biển” vì vậy đã đưa ra tuyên bố phản đối như dưới đây: “Ở thời điểm hiện nay, lý do cần tranh luận quan trọng nhất để bảo lưu sự ủng hộ đối với hiệp ước nầy là sự tồn tại của điều khoản “khu vực phi hạt nhân” bao gồm cả vùng đặc quyền kinh tế trên biển(EEZ) và thềm lục địa. Chúng tôi cho rằng điều này xâm phạm đến sự tự do hàng hải trên vùng biển thuộc hải phận quốc tế và bay qua vùng trời đã được quốc tế công nhận. Ngay cả ở vùng biển tự do thuộc hải phận quốc tế, đối với những nước không tham gia kí kết hiệp ước nầy cũng phải có nghĩa vụ nhất định mặc dù họ không đồng ý là điều mâu thuẫn với Luật Biển của LHQ…(lược)…hơn thế nữa EEZ và thềm lục địa cũng nằm trong phạm vi áp dụng hiệp ước nầy còn gây sự mù mờ về đường biên giới phân định trên biển, có nguy cơ tạo ra những cuộc tranh chấp mới..(lược)… việc đưa thềm lục địa và khu vực EEZ vào trong phạm vi của hiệp ước vốn đã mâu thuẫn với nguyên tắc tự do hàng hải hay bay trong vùng trời thuộc hải phận quốc tế trên vùng biển nơi đó.
Những quyền lợi được phép thực hiện trong vùng biển trên thế giới bên ngoài lãnh hải của các nước như tàu chiến, không quân của bất cứ một nước nào, mọi các hoạt động di chuyển của quân đội, tác chiến hàng không, hay diễn tập quân sự nếu như nó không phương hại đến những hoạt động đảm bảo an ninh và quyền lợi của nước khác hay ngăn cản tác chiến hàng không-hạm đội của nước đó. Qui định của hiệp định hiện hành không hạn chế những quyền lợi và hàng hải dọc theo các quần đảo trên Sea Lanes, quyền lợi đi ngang qua các eo biển quốc tế cũng như những quyền lợi về đi lại trên không lẫn trên biển nhưng chúng tôi vẫn lo ngại những ảnh hưởng của nó đối với việc đi lại trên hải phận quốc tế”
(2) Vấn đề khủng bố và cướp biển
Trung tâm Cướp Biển Khu Vực, một tổ chức thuộc Văn Phòng Hải Vận Quốc tế (IMB=International Maritime Bureau) đặt tại Kuala Lumpur, Maylaysia đã được thành lập vào tháng 10/1992. Theo con số thống kê số vụ và vùng biển phát sinh cướp biển như bảng 6. Nếu kể đặc trưng và khuynh hướng của hành vi cướp biển thì từ năm 1992 đến đầu năm 1994 từ Hồng Kông đến vùng biển nối liền Đảo Lu Son, đảo Hải Nam, biển Đông, kế đến là lan rộng ra biển Đông Trung Hoa và eo biển Malacca. Vùng biển có cướp biển nhiều nhất là vùng biển ĐNÁ mà trung tâm là khu vực chung quanh Indonesia, eo biển Malacca, Singapore. Số vụ của năm bắt đầu thống kê 1994 là 90, năm 1995 là 188. năm 1996 là 228, năm 1997 là 247 và năm 1998 là 202, có giảm chút đỉnh nhưng sang năm 1999 lại có 309 vụ. Năm 1998 xảy ra vụ cướp Tenyumaru giết hại 14 thuyền viên và năm 1999 xảy ra vụ Alandra Rainbow( 2 tuần sau giải phóng được 17 người). Cướp biển ngày càng có tổ chức và qui mô hóa.
Ngoài ra từ tháng 3/1991 đến tháng 6/1993, trên biển đông Trung Hoa đã có 31 vụ nã súng uy hiếp của tàu “lạ”, kiểm tra bất thường 23 vụ, phá hoại trang thiết bị 2 vụ, cướp bóc 3 vụ….tổng cộng là 72 vụ bất thường. Phần lớn đầy là những người TQ mặc quân phục đi bằng tàu tuần tra cao tốc nã súng vì vậy giữa năm 1993. hải quân Nga đã cử tàu chiến đến vùng biển nầy. Chính phủ Nhật Bản đưa đề nghị nhà đương cuộc về canh phòng duyên hải của hai nước nên họp lại để bàn về vấn đề đi lại của tàu bè với ngoại trưởng TQ trong lần ông ta sang Nhật Bản, nhờ vậy số vụ năm sau chỉ còn 1. Bối cảnh và ý đồ của những vụ cướp biển nầy chưa rõ, theo GS Hiramatsu Shigeo của Đại Học Kyorin(NB) cho rằng nhằm mục đích loại trừ tàu cá của Nhật ra khỏi biển Đông Trung Hoa để biến thành vùng biển “nằm dưới sự chi phối của TQ”.
Bảng 6. Tình hình phát sinh Cướp biển
Ngoài ra, có những vụ do nước gây khủng bố hay tổ chức khủng bố như bí mật trải mìn, thủy lôi ở bến cảng, kênh đào, eo biển, tấn công bằng tên lửa, phong tỏa bến cảng bằng cách tự đánh đắm, tấn công khủng bố vào các tàu chiến (như khu trục hạm của Mỹ bị khủng bố tự sát tấn công ở cảng vịnh Aden vào tháng 9/2000). Việc phòng thủ trước sự tấn công vào hệ thống điều hành và kiểm soát trên biển với nhiều cơ quan chức năng phối hợp vốn rất khó, đặc biệt là chỉ với một sự tấn công bằng vũ lực ở cấp thấp cũng đủ để gây hại một cách nghiêm trọng.
3. Các vấn đề của từng vùng biển trong Sea Lanes
Sea Lane của TQ
(1) Vấn đề quần đảo Trường Sa
Trên tuyến Sea Lane sau khi đã vượt qua eo biển Malacca, những vùng biển có thể xảy ra tranh chấp là vùng biển chung quanh quần đảo Trường Sa, eo biển Đài Loan, chung quanh các đảo Senkaku và biển đông Trung Hoa. Quốc gia can dự nhiều nhất vào những vấn đề nầy là TQ.
Tháng 1/1974 TQ đưa hải-không quân tấn công chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa lúc bấy giờ thuộc chủ quyền của Nam Việt Nam (Paracel island hay Tây Sa), năm 1988, TQ xây dựng sân bay đường bằng dài 2,600 mét trên đảo Phú Lâm lớn nhất trong quần đảo Trường Sa trong vòng 1 năm. Kế đến là tiến quân vào quần đảo Trường Sa. Quần đảo Trường Sa gồm hơn 180 đảo, rặng đá ngầm, san hô lớn nhỏ, chỉ có 7 đảo là có diện tích trên 100 mét vuông, hầu hết còn lại là đá, bãi cát chìm, chỉ có 20 đảo hay bãi đá là người có thể ở ,đang có 5 nước Đài Loan, Việt Nam, Malaysia, Philippines có chủ quyền trước khi nước CHNDTH được thành lập, TQ tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa nhưng lúc đó không có chiếm giữ một hòn đảo hay bãi cát, dãy đá ngầm nào.
Bước vào thập niên 1980, tàu chiến của hải quân TQ đã tiến công vào vùng biển chung quanh quần đảo Trường Sa và dưới sự canh phòng của lực lượng nầy tàu điều tra hải dương thuộc Cục hải dương quốc vụ viện TQ bắt đầu tiến hành điều tra.
Vào mùa hè năm 1987 TQ tổ chức diễn tập quân sự trên vùng biển Trường Sa, tháng 3/1988 giao chiến với hải quân VN chiếm đóng 6 đảo nhỏ, trong đó có đảo Johnson thuộc quần đảo nầy, dựng cột biển báo “CHNDTH” với sức mạnh hải-không quân vượt trội, quân TQ đã giành chiến thắng áp đảo. TQ đã cắm các cột thép hay xây nhà sàn lên những đảo chìm lúc thủy triều lên và tiếp tục củng cố trong vài năm để biến chúng thành căn cứ quân sự chắc chắn và lâu dài cho tàu chiến. Sự kiện nầy xảy ra ngay trước khi tại cuộc đàm phán để tiến đến hòa giải Trung-Việt, hai bên cam kết kiềm chế hoạt động quân sự ở biên giới Trung-Việt, kí kết văn kiện tạm thời đồng ý khởi động mậu dịch biên giới.
Tiếp đó, trong cuộc hội đàm với tổng thông Philippines Akino vào năm 1988, và trước đó với Tổng thống Marcos khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1975, Phó chủ tịch TQ Đặng Tiểu Bình đã đồng ý “giải quyết vấn đề quần đảo Trường Sa bằng đàm phán “hòa bình và hợp tác hữu nghị qua con đường ngoại giao bình thường”. Hơn nữa, chủ tịch Giang Trạch Dân và tổng thống Ramos trong lần sang thăm vào năm 1993 cũng đã tuyên bố gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác (biển Đông).
Thế nhưng khi quân đội Mỹ rút quân ra khỏi Philippines, hải quân TQ liền chụp thời cơ chiếm đóng dãy đá ngầm Mischief, ẩn dưới mặt nước khi triều lên và xây dựng những tòa nhà cao tầng kiên cố tại những đảo nhỏ chung quanh thuộc phía tây quần đảo Trường Sa (tiếng Philippines là Kalayan Island). Chính phủ TQ biện minh rằng “đây là những cơ sở để tránh gió bão do nhà đương cuộc địa phương về nghề cá xây dựng nhằm giữ gìn sinh mạng của ngư dân và bảo đảm an toàn cho việc đánh bắt mà thôi” nhưng TQ vẫn tiếp tục xây dựng để củng cố.
Vào tháng 2/1995, Tổng thống Ramos đá công bố bức ảnh chụp 9 chiếc tàu chiến của TQ gồm 2 chiếc tàu điều tra hải dương, tàu tiếp tế, tàu đổ bộ ở dãy đảo đá ngầm Mischief nầy để phản đối. Nhưng từ cuối năm 1988 sang năm 1999 những cơ sở nầy đã được xây dựng kiên cố, với đầy đủ trang bị cơ sở hạ tầng lâu dài cho quân đội nhân dân giải phóng sinh hoạt, ăn ở lâu dài (thiết bị lọc nước, trồng rau, điện thoại trực tiếp…) TQ một mặt chủ trương “giải quyết hòa bình” cuộc tranh chấp nhưng mặt khác lại củng cố chiếm cứ bằng sức mạnh quân sự, cố chấp đàm phán song phương với nước có yêu sách về chủ quyền, phản đối việc giải quyết bằng thương lượng đa phương. Mặt khác TQ vừa đưa ra chủ trương “cùng nhau khai thác” tài nguyên đáy biển, “gác lại” vấn đề lãnh thổ với tiền đề là Hoàng Sa và Trường Sa và các đảo nhỏ, dãy đá ngầm khác là của TQ, lập trường xem biển Đông, là vùng biển “mang tính lịch sử”, chủ trương “giải quyết hòa bình” để “cùng khai thác” bằng cách “gác lại” nhưng chính TQ là nước thực quyền chi phối các quần đảo nầy.
Sau đó, vào tháng 5 và tháng 6 năm 1999, Hải quân của Philippines đã nã súng và đánh chìm tàu đánh cá đang thao tác vùng biển phụ cận quần đảo Karawan và máy bay thám thính của Philippines bay trên quần đảo nầy cũng đã bị quân VN bắn vào tháng 6/1999. Ngoài ra, vào tháng 7 Malaysia đã xây dựng căn cứ mới trên đào Vành Khăn cho thấy sự đối đầu của các nước trong việc xác lập quyền chi phối (chiếm cứ) ngày càng leo thang. Nhằm mục đích ngăn chận việc tranh chấp bùng nổ, tại diễn đàn ASEAN vào tháng 7/1999 Philippines đưa ra đề nghị “ nguyên tắc hành động” ngăn cấm hành động chiếm cứ các đảo, dãy đá ngầm mới ở trong khu vực nầy nhưng đã bị từ chối vì không những TQ mà các nước liên quan trong ASEAN cũng đã có những tính toán khác nhau.
Như vậy các nước đã liên tục tăng cường binh lực như bảng 7 dưới đây, năm 2000 so với năm 1998, Indonesia là 123%, Malaysia là 159%, Singapore là 174% và Thái Lan là 133% để chạy đua vũ trang khi sức mạnh kinh tế gia tăng, đối phó với chính sách Nam tiến của TQ và việc thực thi Luật biển mới của LHQ.
Bảng 7.Tổng binh lực của các nước ASEAN
Hải quân là đơn vị được tăng cường hơn cả, Thái Lan đã sắm tàu sân bay(có thể chở máy bay chiến đấu Harrier lên thẳng đứng 6 chiếc và 4 chiếc trực thăng) vào tháng 8/1977, thuê 2 chiếc Khu trục hạm(trong 5 năm) của Mỹ, thuê TQ đóng 4 chiếc Tuần dương hạm (thân tàu là TQ, trang bị vũ khí là các nước phương tây) và 1 chiếc tàu tiếp tế. Hiện đang thuê TQ đóng thêm 2 chiếc Tuần dương hạm, mặt khác Thái Lan tự đóng lấy 3 chiếc loại tàu Corvette(630 tấn) và loại cải tiến(645 tấn) 3 chiếc khác. Qua sự kiện Mischief, Philippines công bố kế hoạch trang bị vũ khí với tổng kim ngạch trị giá 5,4 tỷ USD nhưng vì gặp khó khăn về tài chính nên không thực hiện được là bao.Trang bị chủ yếu của hải quân là 1 chiếc Tuần dương hạm cũ kĩ đóng từ năm 1940, và 10 chiếc Corvette, thêm 3 chiếc Corvette(690 tấn) mua của nước Anh sau khi Hồng Kông được trao trả.
Malaysia có 2 chiếc Tuần dương hạm của nước Anh chế tạo(2270 tấn) , 4 chiếc Corvette (705 tấn) của Anh mua trong hai năm 1997-1998. Ngoài ra còn mua của Mỹ Tàu đổ bộ(8450 tấn), có tin cho biết Malaysia đang thương lượng với các nước như Australia để đào tạo thủy thủ tàu ngầm. Brunei mua 3 chiếc tuần duyên cỡ lớn của Anh, xúc tiến việc hiện đại hóa quân đội nhờ nguồn ngoại tệ dồi dào còn VN gặp khó khăn về tài chính nên không tiến triển là bao. Riêng Singapore năm 1995 đặt mua của Thụy Điển 4 chiếc tàu ngầm và 3 chiếc đang đi vào hoạt động. Singapore đặc biệt quân tâm đến việc tăng cường lực lượng hải quân đặt mua 6 chiếc Corvette(595 tấn) của Đức, tự sản xuất 12 chiếc Corvette(595 tấn), đóng 4 chiếc tàu đổ bộ(8500 tấn) chở được máy bay trực thăng và hoàn thành vàonăm2001.
Là nước hình thành với nhiều đảo, đường bờ biển kéo dài, Indonesia rất cần nhiều tàu chiến để bảo vệ nhưng do tài chính khó khăn, nước nầy đã phải tập trung mua lại tàu cũ của Đông Đức để duy trì binh lực của mình, nhập một lúc 16 chiếc Corvette(769 tấn), tàu quét mìn 9 chiếc, 14 chiếc tàu đổ bộ(1950 tấn và 1700 tấn), tất cả là 39 chiếc.
Phát xuất từ những tính toán về tài nguyên hải dương đi theo việc áp dụng Luật biển mới, các nước ASEAN đã đưa nhau chạy đua vũ trang, ASEAN trở thành thị trường vũ khí lớn nhất thế giới. Trong cuộc chạy đua nầy, các nước nầy chú trọng đến tàu ngầm là phương tiện tấn công thích hợp nhất vào Sea Lanes trong khi còn nghèo về vũ khí.
Bảng 8. Các nước có tàu ngầm ở Châu Á
(2) Vấn đề Đài Loan và eo biển Đài LoanVào ngày 1/10/1999, trong diễn văn đọc tại buổi lễ kỷ niệm 50 năm quốc khánh TQ, Chủ tịch Giang Trạch Dân một lần nữa nhắc lại việc giải phóng Đài Loan, chống lại chủ nghĩa bá quyền, thúc đẩy việc đa cực hóa thế giới, ra sức thực hiện “ phú quốc cường binh, hiện đại hóa, thống nhất tổ quốc”. Tháng 8 năm 1999 Quân khu Nam Kinh, nơi chịu trách nhiệm canh giữ Đài Loan đã tập trận đổ bộ với qui mô 11 vạn lính cho thấy TQ dùng vũ lực để đe dọa, trong cuốn “sách trắng về quốc phòng” công bố vào tháng 10 còn cảnh cáo nhà đương cuộc Đài Loan rằng TQ “sẽ có biện pháp kiên quyết kể cả việc sử dụng vũ lực nếu như Đài Loan bác bỏ vô thời hạn việc giải quyết một cách hòa bình vấn đề thống nhất”. Muốn biết liệu TQ có sử dụng vũ lực hay không cần phải nghiên cứu cách nhìn lịch sử (lịch sử quan) và quan niệm về chiến tranh (chiến tranh quan) của TQ. Đặc trưng thứ 1 về quan niệm về chiến tranh của TQ là bình pháp của Tôn Tử “không đánh mà thắng là điều tốt nhất” xem trọng chiến lược chính trị bằng mưu lược quyền bính. Nhưng nếu nhìn vào lịch sử gần đây, TQ có khuynh hướng sử dụng sức mạnh quân sự áp đảo để giải quyết nhanh trong một thời gian ngắn như việc chiếm cứ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đàn áp ở Tây Tạng, nghĩa là lúc cần thiết thì họ không ngần ngại dùng binh đánh chớp nhoáng để đánh thắng địch.
Hơn nữa là TQ lúc nào cũng giành chính nghĩa về mình trong cuộc chiến do chính họ gây ra, trong tập “28 khái quát về chiến tranh cục bộ” do Viện Khoa Học Quân Sự Trung Quốc biên soạn cho rằng việc đàn áp dân tộc Tây Tạng vì “Tây Tạng là một phần của lãnh thổ thần thánh của TQ”. Quân đội giải phóng TQ tiến quân vào đây để thực hiện nghiêm túc “8 điều chú ý của 3 đại qui luật” được “đông đảo quần chúng nhân dân bộ tộc Tây Tạng ủng hộ và nghênh đón nhiệt tình” nhưng “ tập đoàn phản động tầng lớp trên của Tây Tạng đã bị đàn áp vì gây bạo động bằng vũ lực phản cách mạng” và gọi đây là “chiến dịch bình định bọn phản loạn”.
Liên quan đến chiến dịch tấn công vào lãnh thổ của VN năm 1979, rằng “thực hiện chiến dịch để bảo vệ biên giới của tổ quốc, là cuộc phản kích chiến đấu tự vệ chống lại bọn theo chủ nghĩa bá quyền khu vực ở VN”, tự tán dương “bằng cuộc chiến tranh nầy đạt được mục tiêu trừng phạt bọn xâm lược VN, ghi thêm vào trang sử chói lọi của quân đội giải phóng TQ một chương tráng lệ” và đối với việc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhằm “phản công tự vệ” để thu hồi các đảo thuộc “lãnh thổ thần thánh của TQ” đã bị nhà đương cuộc phản động Nam VN chiếm giữ bất hợp pháp vì vậy TQ đặt tên cho chiến dịch nầy là “tác chiến phản kích tự vệ”. Theo “Khái quan về chiến tranh cục bộ” nêu ở trên TQ luôn đặt tên các cuộc chiến tranh sau thế chiến thứ hai kết thúc bằng những tên gọi như bảng dưới đây. Theo bảng nầy chúng ta có thể hiểu được là khi cần thiết là để thực hiện mục tiêu quốc gia thì TQ không ngại sử dụng chiến tranh làm phương tiện.
Bảng 9. Những cuộc chiến tranh TQ đã thực hiện sau thế chiến thứ hai
Gần đây tại Viện bảo tàngquân sự, quân đội nhân dân giải phóng TQ đã đổi tên gọi thành “Cuộc chiến chống Mỹ viện Triều”
Từ những điều trên, việc sử dụng vũ lực để giải phóng Đài Loan có khả năng xảy ra khi cán cân đối trọng về lực lượng với Đài Loan bị tan vỡ, nhân dân Đài Loan nghiêng về sức mạnh của TQ và các nước trên thế giới bỏ rơi Đài Loan. Cuộc chiến sẽ không xảy ra như một cuộc xung đột bằng vũ lực, mà lúc đầu TQ sẽ dùng hình thức phong tỏa trên biển một cách linh hoạt, gây dao động và khi cục diện cuộc chiến bất lợi sẽ kêu gọi quân Đài Loan khởi nghĩa quay lưng lật đổ từ bên trong.
Đây cũng là điểm nổi bật trong chiến tranh của TQ, dùng âm mưu sách lược tuyên truyền kết hợp với nội gián, và cuối cùng là “khởi nghĩa” nổi dậy từ bên trong. Nhìn vào những cuộc chiến “Quốc-Cộng” đã xảy ra thì cuộc “khởi nghĩa” vào đầu tháng 2/1949 bắt đầu từ tàu chiến “Hoàng An” của quân chính phủ quốc gia, 25/2 lan tỏa sang Tuần Dương hạm “Trùng Khánh”, chiếc tàu biểu tượng của quân đội “chính phủ”(Tưởng Giới Thạch), qua ngày 25/4 8 tàu chiến và 16 pháo hạm thuộc hạm đội thứ hai cũng lần lượt nổi dậy khởi nghĩa.Càng bất lợi trên chiến trường thì càng tăng vụ nổi dậy, quân của chính phủ(Tưởng Giới Thạch ) không đánh mà mất 72 chiến hạm và khi Tưởng ra đảo Đài Loan thì chỉ có hơn 50 chiếc đi theo ông ta. Như vậy hành động quân sự đối với Đài Loan từ quan điểm nầy, chúng ta sẽ thấy TQ không có chiến dịch tấn công qui mô lớn vào Đài Loan mà sẽ cô lập Đài Loan bằng cách phong tỏa trên biển và cuối cùng theo sách lược của “Tam quốc chí”, kết hợp giữa tiến công và nổi dậy khởi nghĩa để dành thắng lợi.
(3) Các vấn đề ở vùng biển Đông Trung Hoa: Okinawa và SenkakuỞ thềm lục địa biển Đông Trung Hoa là vùng biển được xem có nhiều trữ lượng dầu mỏ, nằm vắt ngang trung tuyến giữa Nhật Bản và TQ, thuộc về lãnh hải của phía NB. Tuy nhiên TQ đã dựa vào “Thuyết kéo dài tự nhiên của thềm lục địa” đưa ra chủ trương thềm lục địa ở biển Đông TH thuộc chủ quyền của mình, thêm vào đấy là Đài Loan cũng cho quần đảo Senkaku thuộc chủ quyền của họ và Hàn Quốc cũng tuyên bố chủ quyền đối với thềm lục địa nầy càng làm cho vấn đề trở nên phức tạp.
Nếu việc khai thác tài nguyên dầu mỏ đáy biển ở biển Đông TQ có triển vọng thì TQ đương nhiên hướng quan tâm của mình đến thềm lục địa của phía NB. Bước vào thập kỷ 1980, TQ đã cho khoan thử 20 điểm trên vùng biển thuộc phía TQ dọc theo đường trung tuyến NB-TQ. Bất chấp sự cảnh cáo của NB, tháng 12/1995 Dàn khoan số 3 của TQ tiếp tục đã đào dầu trong vùng biển NB dọc theo đường trung tuyến Nhật-Trung ở vùng biển gần Okinawa, năm 1998 hoàn thành cơ sở khoan-đào giếng, khí đốt thiên nhiên “Bình Hồ”. Hơn thế nữa trong vùng biển thuộc TQ, cách 3 dặm tính từ đường trung tuyến Trung-Nhật, vào tháng 10/1999 Dàn khoan số 3 tuyên bố ầm ĩ là đã thăm dò thành công (trong vùng biển rộng hơn 100 km2 thuộc phía nam giếng dầu Bình Hồ).
Mặt khác,kể
từ năm 1994, những cuộc điều tra hải dương của TQ ở vùng biển gần NB ngày
càng nhiều, năm 1996 có 15 vụ, đến tháng 5 năm 1999 có tất cả là 75 lần,
đặc biệt là tháng 5/1995 tàu “Hướng Dương Hồng” số 9 đã thực hiện điều tra
đáy biển kéo dài trên 1 tháng ở ở vùng biển kéo dài từ đảo Amami-Oshima
đến quần đảo Senkaku. Cuộc điều tra nầy sau đó được mở rộng vùng biển giữa
hai đảo Okinawa-Miyakojima vươn ra vùng biển Thái Bình Dương. Từ tháng
5/2000 đến tháng 6 trong 32 ngày tàu “Hải Vĩnh” 723 hoạt động ở hai eo biển
Tsushima và Tsugaru, tháng 7 tàu “Đông Điều” 232 hoạt động trong vùng biển
từ Tsushima đến Vịnh Đông Hải (từ eo biển Okuma sang vịnh Choshi)
Tranh chấp lãnh thổ giữa TQ-NB
Tàu Cảnh Sát biển của NB đụng độ với tàu TQ trên biển Đông TH
Đối với hành động nầy của TQ, chính phủ NB đã chính thức lập lại quan hệ ngoại giao với TQ vào tháng 9/1972 với thỏa thuận ngầm rằng sẽ “không đụng đến” vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Senkaku. Trong lúc hai bên đang thương thảo về hiệp ước hòa bình hữu nghị Trung Nhật vào tháng 4/1978, một số lượng tàu đánh cá có vũ trang mang quốc tịch TQ đã xâm phạm lãnh hải thuộc quần đảo Senkaku, tạo căng thẳng cho quan hệ hai nước, vì vậy vấn đề chủ quyền lãnh thổ của quần đảo Senkaku đã được “gác lại” theo đề nghị của Đặng Tiểu Bình. Chính phủ NB giữ lập trường quần đảo Senkaku là lãnh thổ của NB, thực tế NB đang chiếm giữ , không có vấn đề lãnh thổ với TQ nhưng TQ chưa bao giờ thừa nhận quần đảo Senkaku là lãnh thổ của NB và không chấp nhận việc NB thực tế đang chiếm giữ quần đảo nầy.
TQ “gác lại” vấn đề lãnh thổ đối với quần đảo Senkaku khi không có khả năng thăm dò và khai thác dầu mỏ đáy biển, và lực lượng của Hải quân chưa đủ lớn mạnh nhưng sau 15-20 năm khả năng thăm dò và khai thác dầu mỏ đáy biển của TQ được nâng lên rõ rệt và sức mạnh hải quân cũng đã được tăng cường. Thái độ tiêu cực của chính phủ NB kéo dài cho đến ngày nay là với lí do quan hệ hữu nghị quan trọng hơn vì thế tách rời vấn đề lãnh thổ, chỉ xúc tiến đàm phán về nghề cá, còn đối với vấn đề nhạy cảm nguy hiểm như khai thác tài nguyên đáy biển hay đánh cá ở biển Đông Trung Hoa thì tạm hoãn, cho lùi về phía sau.
Về phía TQ, họ huy động cảnh sát biển và lực lượng hải quan (Thuế) xua đuổi tàu đánh các của NB ra khỏi vùng biển Đông Trung Hoa, cử đoàn điều tra hải dương học với danh nghĩa điều tra học thuật đến đây, và sau đó là đưa tàu chiến đến bảo vệ. Hành động nầy nhằm để bảo vệ hay giành lấy những lợi ích hải dương, biểu thị sự thống trị (quyền khống chế hải phận) của quốc gia bằng sức mạnh. Có thể nói sự gia tăng hoạt động diễn tập, mở rộng vùng biển hoạt động của tàu chiến hay hoạt động của các tàu điều tra của TQ song song tương ứng với việc khai thác tài nguyên đáy biển hay đánh bắt của ngư nghiệp TQ từng bước biến biển Đông Trung Hoa thành “biển TQ”(ao nhà của TQ).
4. An ninh của Sea Lanes và hải quân TQ
|
Tuyến phòng thủ | Khu vực biển | Quân lực phòng thủ |
Tuyến 1 |
Vùng biển trong vòng 150 hải lý từ bờ |
Tến lửa đối hạm tự hành, Tàu cao tốc có tên lửa |
Tuyến 2 | Eo biển Triều Tiên, Ryukyu và quần đảo Trường Sa | Hộtống hạm và máy bay có tên lửa |
Tuyến 3 | Tuyến Ogasawara | Tuần dương hạm cỡ lớn, tàu ngầm có tên lửa và từ năm 2020 có tàu sân bay tham gia |
Trong bài viết của Lâm, thời gian chỉnh đốn binh lực theo chiến lược mới được chia ra làm 2 thời kỳ; thời kỳ đầu là năm 2000 và thời kỳ thứ hai là cho đến năm 2050. Thời kỳ đầu đặt trọng điểm vào việc tăng cường máy bay tiêm kích tầm trung đặt căn cứ trên đất liền và máy bay lên thẳng đặt trên tàu chiến, là thời kỳ phát triển cân đối các loại máy bay tiếp dầu trên không, máy bay thám thính, thăm dò, chiến đấu và trang thiết bị điện từ gây nhiễu cho radar, còn thời kỳ thứ hai là lúc phải có tàu sân bay.
Tuy nhiên trong bài viết công bố vào năm 1989, để đối phó với chiến tranh cục bộ trên biển có khả năng xảy ra ở vùng cận duyên trong khoảng trước và sau năm 2000, phải trang bị đầy đủ năng lực hạt nhân nhất định để uy hiếp và khả năng mạnh mẽ thích ứng tức thời, năng lực khống chế vùng trời, vùng biển một cách độc lập, khả năng tác chiến lâu dài trên vùng biển Đông Trung hoa và các quần đảo ở biển Nam Trung Hoa (biển Đông). Nhưng sức kinh tế và kĩ thuật hiện nay chưa cho phép tăng gia chi phí quân sự một cách rộng rãi vì vậy trong giai đoạn 1 cần tập trung xây dựng lực lượng chiến đấu tấn công chủ yếu bằng đơn vị không quân tầm trung xuất phát từ đất liền và tàu ngầm, khả năng tác chiến chi viện tàu chiến tầm trung có khả năng chuyên chở máy bay lên thẳng. Giai đoạn 2 là giai đoạn trang bị tàu sân bay ,xây dựng hạm đội có khả năng tác chiến chống tàu ngầm, chống trên không, chống trên mặt biển, bố trí đơn vị cơ động có trang bị tàu ngầm tương ứng với tình hình phát triển kinh tế, từ nam đến bắc từng bước trang bị 3 chiếc tàu sân bay.
Kế đến, chúng ta hãy nghiên cứu khả năng chiến đấu ứng phó của hải quân TQ.Thật khó đánh giá lực lượng hải quân TQ đang ở trình độ nào, có người cho rằng sức mạnh của hải quân của TQ còn thấp hơn Bộ đội phòng thủ trên biển(hải quân—Kaijo Jieitai) của NB, nói chi đến nước Mỹ, khả năng phòng không trên biển hay khả năng chiến đấu điện tử đang bị tụt hậu đáng kể.
Tuy nhiên, việc hiện đại hóa hải quân TQ đang được tiến hành cấp tốc như nhập 2 chiếc khu trục hạm hạng Soveremenny(6600 tấn) cho trang bị tên lửa đối hạm SS-N-22 mà hải quân Mỹ rất ái ngại, 4 chiếc tàu ngầm loại Kilo của Nga có trang thiết bị điện tử hiện đại. Có nhiều nguồn tin liên quan đến việc sở hữu tàu sân bay nhưng với trình độ kĩ thuật cũng như tài chính hiện tại TQ khó có thể có khả năng xây dựng bộ đội cơ động lấy tàu sân bay để tấn công như hải quân của Hoa Kỳ,mặc dù ý đồ muốn khống chế biển khơi kiểu Mahan(Alfred Thayer Mahan)4*.
Nếu TQ có tàu sân bay thì “bất chiến cũng khuất phục được kẻ địch, nếu đe dọa không hiệu quả thì sẽ tấn công hiệu quả” vì vậy trong tương lai, khi tài chính dồi dào thì TQ nhất định sẽ sở hữu tàu sân bay. TQ sẽ đưa tàu sân bay đến Nagasaki, Kobe, Tokyo như “Định Viễn” “Trấn Viễn” xưa kia, đẩy người Nhật vào khủng hoảng khi triển khai “chính sách ngoại giao chiến hạm” đối với NB và các nước Châu Á.
Chiến hạm“Định viễn”
Chiến hạm “Trấn Viễn” thuộc Hạm đội Bắc Dương TQ
Các nước Châu Á-TBD chênh lệch với nhau về văn hóa, chính trị, lịch sử, luôn có vấn đề về dân tộc, lãnh thổ với nhau. Hiện có tổ chức ASEAN(10 nước), Diến Đàn Khu Vực Châu Á (ARF—Asian Regional Forum gồm 28 nước,10 nước ASEAN + NB, Hoa Kỳ, các nước Châu Âu và Papua New Guenia), Hội nghị ngoại trưởng ASEAN mở rộng, APEC…cũng chỉ là “Diễn Đàn” hay “hội nghị “ mà thôi chứ không phải là một tổ chức thường trực.
Ngay cả ARF là nơi hội nghị giữa nhiều nước Châu Á được xem là thành công nhất thường kêu gọi một sự phối hợp về kinh tế, văn hóa, giáo dục, tránh né việc xây dựng cơ chế hay khung hợp tác quân sự, dừng lại một cơ chế bảo đảm an ninh rất thấp.
Mặt
khác, khung cho cơ chế bảo đảm an ninh song phương ở Châu Á thì có Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ, Hiệp ước phòng
thủ chung Mỹ-Hàn, Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Phi, Luật liên quan đến Đài
Loan( nguyên là Hiệp ước phòng thủ Mỹ-Hoa), Hiệp ước hợp tác Mỹ-Pakistan,
ANZUS(Hiệp ước đảm bảo an ninh Thái bình Dương)…là những tổ chức hay cơ chế
lấy Hoa Kỳ làm trung tâm để bảo đảm an ninh, ngoài ra còn có hàng loạt hiệp
ước, hiệp định về quốc phòng như Hiệp định 5 nước về phòng thủ (Five Power
Agreement) gồm Nước Anh, Australia, New Zealand cùng Malaysia và Singapore để
bảo vệ hai nước nầy, Australia và Phillipines thì có Hiệp ước Manila, và
Australia và Indonesia có hiệp định Timor bảo về vùng biển ở
đây.
Xét
về tính hiệu quả của cơ chế đảm bảo an ninh ở Châu Á thì Hiệp ước phòng thủ
chung Mỹ-Phi thì dù vẫn tồn tại nhưng hiệu quả trên thực tế là một vấn đề vì
Thượng viện Philippines đã phủ quyết hợp đồng cho Mỹ thuê căn cứ hải quân
Spik hay căn cứ không quân Clark và quân Mỹ đã rút khỏi. Hiệp ước phòng thủ
chung Mỹ-Hàn là cơ chế cho phép quân đội Mỹ tự động can thiệp để bảo đảm an
ninh của Hàn Quốc vì quân đội Mỹ trú đóng và triển khai hoạt động áp sát
biên giới với Triều Tiên. Từ cách nhìn nầy có thể nói hiệp ước phòng thủ
Mỹ-Hàn có hiệu quả mạnh mẽ hơn hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ.
So sánh với trường hợp Hàn Quốc, Hiệp Ước an ninh Nhật-Mỹ chịu nhiều khống chế nhưng với giá trị chiến lược đặc biệt của Okinawa, hiệp ước nầy không thể không có trong việc bảo đảm an ninh của vùng Cực đông. Hiệp ước phòng thủ chung Hoa-Mỹ với Đài Loan đã mất hiệu lực khi quan hệ Trung Mỹ được bình thường hóa, nhưng Mỹ vẫn dùng luật nội địa để bảo vệ Đài Loan, thực chất vẫn đảm bảo an ninh cho khu vực nầy như xuất khẩu vũ khí, Đài Loan cho phép quân đội Mỹ có căn cứ quân sự và vẫn tiếp tục phát huy vai trò mặc dù gặp nhiều phản đối của TQ.
Trong một cơ chế yếu ớt bảo đảm an ninh giữa nhiều nước ở Châu Á, tổ chức tương đối phát huy được rõ rệt là “Hiệp định phòng thủ 5 nước” đã nêu ở trên và hiện nay quan hệ hợp tác về duy trì hệ thống phòng không, huấn luyện, giáo dục giữa Australia với Malaysia và Singapore vẫn hoạt động bình thường. Tháng 9/1999 Indonesia đã quyết liệt phản đối việc can thiệp nhân đạo của Australia vào Đông Timor, đơn phương phá bỏ hiệp ước quân sự với Australia, biến thành “hữu danh vô thực” nhưng hiện nay tình hình có cải thiện, khôi phục trở lại qua chuyến thăm Australia của thủ tướng Abib.
Khuynh hướng rõ rệt nhất gần đây trong động thái quân sự của các nước ASEAN là những “biện pháp xây đắp lòng tin”(CBM=Confidence Building Measures) giữa các nước láng giềng trong khu vực như gia tăng việc huấn luyên chung, hay tham gia vào những cuộc diễn tập do Mỹ đứng đầu.
Hơn nữa, trong xu thế nầy, điều đáng quan tâm là Australia rất chủ động về mặt quân sự, và ngày càng nâng cao tầm ảnh hưởng trong khu vực ASEAN. Việc hợp tác quân sự trong nội khối ASEAN như Singapore tập trận mang tên “Pelican” chung với hải quân Brunei, hằng năm còn có diễn tập phòng không “Air Guard”, với Indonesia, lần đầu tiên thực hiện cuộc diễn tập bay giám sát trên biển chung mang tên “Chamal Indopura”(?) vào tháng 8/1999.
Malaysia và Thái Lan diễn tập chung hằng năm mang tên “Shacks Tamal”, Malaysia và Indonesia cùng tuần tra chung trên biển “Optima”, hay Singapore và Indonesia thường xuyên hợp tác cảnh bị chống cướp biển.
Australia là nước đóng vai trò chủ động trong những cuộc diễn tập trong khu vực và qui mô ngày càng lớn như cuộc diến tập của “hiệp định phòng thủ 5 nước” mang tên “Kakadoo” còn có Indonesia, Papua New Guinea, Philippines tham gia, Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc gửi quan sát viên đến dự…với 22 tàu chiến và 35 máy bay tham gia ngoài những cuộc diễn tập Hải-Không quân phối hợp như “Star Decks”.
Tàu chiến của Mỹ tham gia diễn tập chung với các nước
Những cuộc diễn tập do Mỹ dẫn đầu cũng có khuynh hướng gia tăng, riêng năm 1999 đã có những cuộc diễn tập chung định kỳ giữa các nước, như Singapore-Thái Lan có “Cobra-Tiger” về không quân; Malaysia, Singapore, Indonesia, Thái Lan có “Kalat” về chiến đấu đối phó trên biển, Brunei, Australia, Malaysia, Hàn Quốc, Indonesia, NB cùng diễn tập trong “Cooperative Thunder” về không quân phối hợp..v..v...
Cuộc tập trận chung giữa Mỹ và Thái Lan có tên “Cobra Gold” được tổ chức vào tháng 5/2000 lần đầu tiên có cả `Singapore tham dự và Malaysia, Philippines và Australia cử quan sát viên đến xem.
Hiện nay, các nước Châu Á duy trì đường lối hợp tác về mặt ngoại giao với TQ, mục đích của những cuộc tập trận nầy là biện pháp xây dựng sự tin cậy giữa các nước. Nhưng trong tình thế không thể tránh được sự bành trướng thế lực của TQ, buộc Philippines và Singapore cũng như các nước khác cần đến sự có mặt của quân đội Mỹ để “ủng hộ về tinh thần”(moral support) chuyển sang chấp nhận việc tàu chiến , máy bay của quân đội Mỹ tạm thời sử dụng cơ sở hạ tầng tại đây thông qua “hiệp định về việc thăm viếng của quân đội Mỹ”(Visiting Forces Agreement).
Mặt khác,
Mỹ cũng không đòi hỏi các nước ASEAN cung cấp các căn cứ quân sự một cách
lâu dài dễ gây ra các vấn đề chính trị
,
chuẩn bị sắn sàng triển khai đối phó cấp kỳ khi xảy ra nguy cơ bằng các căn
cứ chủ lực ở NB và Hàn Quốc, với 41,570 người ở NB và 36,563 người ở Hàn
Quốc. Bảng 13 dưới đây cho thấy số lần thăm viếng của tàu chiến, diễn tập
quân sự giữa các nước, ssos nhân viên liên lạc đặt ở các nơi khắp ASEAN.
Bảng 11.Binh lực triển khai ở Châu Á-TBD
Nước |
Tổng cộng | Lục quân | Hải quân | Lính thủy đánh bộ | Không quân |
NB | 40,157 | 1,811 | 5,216 | 19,283 | 13,847 |
HQ | 36,563 | 27,486 | 290 | 126 | 8,658 |
Australia | 343 | 12 | 49 | 16 | 266 |
Singapore | 152 | 6 | 87 | 16 | 43 |
Indonesia | 45 | 6 | 24 | 10 | 5 |
Thái Lan | 119 | 40 | 8 | 41 | 30 |
Nguồn: Sách trắng Jetro năm 2000
Nói thế, ba nước Nhật-Mỹ-Trung đang có quan hệ dựa lẫn vào nhau về kinh tế, để ba nước nầy phát triển thì chính sách bao vây TQ cứng rắn của Mỹ đối với NB là điều không mong muốn. Chính sách bao vây TQ cứng rắn nầy của Mỹ sẽ làm cho NB phải chịu nhiều nguy nan vì là nước nằm ở vị trí tiền tiêu trong tranh chấp. TQ đang nỗ lực để tham gia vào WTO gây hi vọng cho nhiều người về việc chuyển đổi từ nhà nước nhân trị sang nhà nước pháp trị, đẩy mạnh nhân quyền và dân chủ hóa. Nên lưu ý mặt tiêu cực của lý luận cho rằng TQ là mối đe dọa sẽ làm cho TQ chạy đua vũ trang để đối phó cũng như phát xuất từ một sự cảnh giác cao độ đối với bên ngoài do nhiều năm nằm dưới sự thống trị của chế độ thực dân, cần phải được thông cảm việc TQ thường đặt nặng việc tăng cường quân bị một cách thái quá do bối cảnh lịch sử nầy. Để làm dịu đi sự cảnh giác thái quá của TQ, việc nầy còn khó hơn việc duy trì sự cân bằng đối trọng về quân sự, nhưng liệu có thể nào thể nào tìm ra một giải pháp thích hợp từ kinh nghiệm lịch sử. Nhật Bản có biển cả là bức tường ngăn cách tuyệt hảo đối với TQ, cần phải phòng thủ cẩn thận, giữ khoảng cách, “không gần mà cũng chẳng xa”, không lọt vào cơ chế “Hoa-Di”, duy trì quan hệ bình đẳng, mậu dịch không phải là “ mậu dịch triều cống” , NB chớ nên học lối mua bán xưa kia khi bị từ chối thì biến thành “cướp biển”, lúc thì ngang hàng, lúc lại là kẻ khiêu khích. Bước vào thế kỷ 20 NB nhờ sự đối trọng của cán cân lực lượng của các nước đồng minh(Nhật-Anh, Nhật-Mỹ) hùng mạnh bên kia bờ đại dương yểm trợ nên đã bảo đảm được nền an ninh của quốc gia. Ngày nay, điều NB cần là khí phách và trí thông minh của tiền nhân. Sự thay đổi của cơ chế chiến tranh lạnh hay tình hình thế giới biến đổi trong đó TQ đã trở thành một quốc gia hùng mạnh về quân sự thì chiến lược quốc gia hay chiến lược hải dương phải thay đổi tương ứng. Nhưng dù cho có sự biến đổi thì có 3 bộ phận không hề đổi thay. Một là NB là một quốc gia đất hẹp, tài nguyên nghèo nàn, phải nhập hầu hết từ bên ngoài năng lượng, lương thực và nguyên liệu, từ đó sản xuất ra những mặt hàng có giá trị gia tăng đủ sức cạnh tranh trong thị trường quốc tế, xuất khẩu trở lại trên con đường của quốc gia mậu dịch vốn là thể chất của đất nước nầy. Điều cần thiết của một quốc gia mậu dịch là phải xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với những nước cung cấp tài nguyên cho chúng ta để các nước nầy sẵn lòng cung cấp tài nguyên cho chúng ta một cách ổn định . Hai là các nước sẵn sàng mua những sản phẩm do NB làm ra và ba là phải đảm bảo an ninh cho tuyến đường vận tải hàng hóa nguyên liệu vượt hàng nghìn cây số, các nước mua hàng hóa, sản phẩm của NB phải được sống trong hòa bình và phồn vinh, không tranh chấp với nhau trên một tuyến Sea Lanes dài và bao la. Không có nước nào trên thế giới mong mỏi hòa bình như Nhật Bản, không thể chỉ có một nước Nhật phồn vinh cho dù là hòa bình. Tuy nhiên, trải qua 50 năm sau chiến tranh, NB vẫn chưa gỡ bỏ được “hiến pháp” đã “tự trói” buộc mình. Vì một nền hòa bình và an ninh của thế giới, quan điểm xây dựng một cơ chế bảo đảm an ninh tập thể, cho phép sử dụng những biện pháp bao gồm sức mạnh quân sự vẫn còn mong manh, vỏ bọc của “một nước theo chủ nghĩa hòa bình” khép kín trong ốc đảo, bác bỏ việc trở thành “một nước bình thường”. Cách đối phó như vậy của nước Nhật sẽ đánh mất đồng minh là nước Mỹ, đi ngược lại sự tin cậy và mong đợi của các nước Châu Á về một nước Nhật đối trọng với TQ, có khả năng bị cô lập trên trường quốc tế. Tương lai của Châu Á đang lệ thuộc vào sự “quyết đoán” của Nhật Bản và đây là điều người dân Nhật ít ra nên lý giải (xem Phụ lục) . ____________________________________________________________ http://www3.ocn.ne.jp/~y.hirama/yh_ronbun_senryaku_araboilhtm.htm「21世紀に於けるわが国への石油資源輸送ルート(シーレーン)に関する安全保障上の問題点」
Chú giải của Hồng Lê Thọ(1*) Friedrich Ratzel, người Đức (30/8/1844 - 9/8/1904), được xem là ông tổ của ngành Địa lý chính trị học và “hoàn cảnh quyết định luận”. Ông phát minh ra cụm từ “Lebensraum”(không gian sinh sống—Living Space) trong tác phẩm nổi tiếng “Politische Geographie oder die Geographie der Staaten, des Verkehrs und des Krieges”, 1897. (Địa chính trị của các Nhà nước, Giao thông và Chiến tranh) Johan Rudolf Kjellén (13 June 1864 – 14 November 1922), nhà khoa học chính trị Thụy Điển, người đã phát minh ra cụm từ “Địa-Chính trị học”(Geopolitics), chịu ảnh hưởng sâu đậm của Friedrich Ratzel (2*)Karl Ernst Haushofer (1869年8月27日 - 1946年3月13日)nhà địa lý học người Đức, bạn thân của Hitler.Ông phát minh ra cụm từ “Không gian sinh tồn” cơ sở của tư tưởng chủ nghĩa bành trướng của Đức Quốc Xã. Xem việc Nhật bản thống trị Triều Tiên là một thí dụ tốt của chủ nghĩa bành trướng mà Đức nên theo đuổi, tìm cách thống trị các nước Đông Âu để đối phó với Mỹ-Anh trong thời kỳ trước khi thế chiến thứ nhất bùng nổ. (3*) “Trường Thanh niên”(The Jeune Ecole) được sáng lập vào thế kỷ 19 dựa trên khái niệm chiến lược hàng hải, dùng lực lượng nhỏ nhưng tinh nhuệ, vũ trang mạnh mẽ để chiến đấu với các đội tàu lớn hơn, và trở thành cướp biển để kết thúc quan hệ mua bán với quốc gia đối địch. Chiến lược nầy phát triển giữa các nhà lý luận về hàng hải nước Pháp, lúc bấy giờ là nước có hải quân mạnh đứng thứ hai sau Nước Anh, lấy tư tưởng nầy để cạnh tranh với cường quốc trên biển. Trường do tướng pháo binh Henri-Joseph Paixhans sáng lập, là người phát minh ra súng thần công trên chiến hạm trong những năm 1820. (4*) Alfred Thayer Mahan (27/9/1840 – 1/12/1914) nhà chiến lược địa lý(Géotrategist) Mỹ, sĩ quan hải quân và là nhà giáo dục. Ý tưởng của Ông về một cường quốc về biển đã ảnh hưởng rất lớn đến hải quân đến thế giới, giúp đỡ việc xây dựng một lực lượng hải quân trước thế chiến thứ nhất. Tác phẩm The Influence of Sea Power Upon History, 1660-1783 (1890) rất nổi tiếng trong lịch sử hàng hải. Nhiều tàu chiến của hải quân Hoa kỳ mang tên USS Mahan. (5*) Sir Halford John Mackinder (15/2/1861 – 6 /3/1947) là một nhà địa lý học người Anh, được xem là cha đẻ của Địa-Chính trị học và Địa lý chiến lược. Ông còn đưa ra Lý luận Heartland trong bài viết "The Geographical Pivot of History”(1904) ảnh hưởng lớn lên chính sách đối ngoại của các cường quốc. (6*) Kurobune (黒船(くろふね) “thuyền đen” là tên gọi các chiến thuyền phương tây cập cảng Nhật trong thời Edo, đặc biệt thì hạm đội 4 tàu chiện của Mỹ do đề đốc chiếc tàu Perry(Matthew Calbraith Perry) cập cảng Uraga(1853) thì cụm từ “Chiến thuyền đen” được sử dụng rộng rãi.
Chiến thuyền đen cập bến NB
(7*)Takako Doi (土井 たか子 Doi Takako) sinh ngày 30/11/1928. Nhà hoạt động chính trị nổi tiếng Nhật Bản, nguyên Chủ tịch Đảng Xã Hội NB(đã giải tán), cựu Chủ tịch Hạ viện Quốc hội. Phản đối Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ ,căn cứ quân sự của Mỹ tại Nhật là đường lối chung của phe cánh tả NB. Doi Takako còn là người ủng hộ VN tích cực trong cuộc chiến đấu chống Mỹ ở VN. (8*) Hua Yi ( Hoa-Di thể chế 華夷体制) Tư tưởng xem Trung Hoa là trung tâm(cái rốn) của thế giới, các nước chung quanh Trung Hoa ở khu vực Châu Á như NB, Triều Tiên, Mông cổ, Việt nam, Xiêm La(Thái Lan)….là “man di mọi rợ”, các nước chư hầu có nghĩa vụ phải triều cống và thần phục hoàng đế Trung Hoa. (9*) KatoTakaaki(25/1/1860-8/1/1926),nhà ngoại giao, thủ tướng NB thứ 24 thời Minh Trị Duy Tân. (10*) Locarno Treaties là hiệp ước được soạn thảo ở Locarno(Thụy Sĩ) vào tháng 10/1925 và kí kết ngày 1/12/1925 tại Luân Đôn giữa 5 nước Anh, Pháp, Đức ,Italia và Bỉ trong đó các nước cam kết giữ nguyên hiện trạng biên giới giữa Pháp-Bỉ, xác nhận vấn đề phi vũ trang Ireland. Các nước Đức, Pháp, Bỉ cam kết không xâm phạm lẫn nhau, bảo đảm an ninh khu vực thuộc 5 nước. Qui định việc tranh chấp quốc tế được giải quyết bằng một tòa án hòa giải trung gian. Nhờ vậy Châu Âu đã có một thời kỳ tương đối ổn định.
Phụ lục:GS Samuel Hungtington trong cuốn “Sự va chạm của các nền văn minh”NXB Lao Động 2003 , đoạn viết về ASEAN, tranh chấp Việt-Trung và sự chọn lựa của châu Á như sau:“….Đến thập kỷ 80, Singapore đã thay đổi cách nhìn nhận của mình, và các nhà lãnh đạo nước này đã tích cực tranh luận với Hoa Kỳ và các nước khác chấp nhận sự thực về sức mạnh của TQ. Với số dân người Hoa đông và các xu hướng chống phương tây trong các nhà lãnh đạo, Malaysia cũng đã hướng mạnh mẽ về phía TQ. Thái Lan đã duy trì độc lập trong các thế kỷ 19 và 20 bằng cách ủng hộ chủ nghĩa đế quốc châu Âu và Nhật bản, và hiện cho thấy rất có ý định làm như vậy đối với TQ, ý định nầy được củng cố bởi mối đe dọa an ninh tiềm tàng mà Thái Lan nhận thấy từ phía VN. Indonesia và VN là hai nước ĐNÁ có chiều hướng thiên về việc lập thế cân bằng và kiềm chế TQ hơn cả. Indonesia là một nước lớn, theo đạo Hồi và cách xa TQ, song nếu không có hậu thuẩn của các nước khác, Indonesia không thể ngăn cản TQ xác lập quyền kiểm soát ở biển Đông. Mùa thu năm 1995, Indonesia và Australia ký một thỏa thuận về an ninh theo đó hai nước cam kết tham khảo ý kiến của nhau trong trường hợp có những “thách thức đảo ngược” đến an ninh của hai nước. Mặc dù cả hai bên đều không cho rằng đó là một thỏa thuận chống TQ, họ đã coi TQ là nguồn tiềm tàng nhất có thể gây ra những “thách thức đảo ngược”. VN có nền văn hóa chủ yếu là Khổng giáo, song trong lịch sử đã có mối quan hệ đối kháng với TQ và năm 1979 đã tham gia vào một cuộc chiến tranh ngắn với TQ. Cả VN và TQ đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa( và cả quần đảo Trường Sa—HLT bổ sung), và lực lượng hải quân hai bên đã từng đụng độ nhau trong các thập kỷ 70 và 80. Trong những năm đầu thập kỷ 90, tiềm năng quân sự của VN đã giảm sút tương đối so với TQ. Hơn bất kỳ quốc gia Đông Á nào, VN do vậy luôn có ý thức tìm kiếm đối tác để lập thế cân bằng với TQ( và luôn phải có chính sách hòa hoãn nếu không nói là hợp tác toàn diện chiến lược như hiện nay với TQ—HLT). Sự gia nhập của nước nầy vào ASEAN và việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ năm 1995 là hai bước đi trong đường lối nầy. Tuy nhiên, sự chia rẽ bên trong ASEAN và sự miễn cưỡng liên kết nhằm thách thức TQ làm cho ASEAN khó có thể trở thành một liên minh chống TQ, hay ASEAN sẽ tích cực ủng hộ VN trong cuộc đối đầu với TQ. Hoa Kỳ có thể là nướcsẵn lòng kiềm chế TQ hơn, song trong giữa thập kỷ 90, điều không rõ là Hoa Kỳ sẽ đi xa đến đâu trong việc chống lại sự đòi chủ quyền của TQ đối với biển Đông. Cuối cùng, thì đối với VN, sự “chọn lựa ít tồi tệ hơn cả” có thể là ủng hộ TQ…. Sự nổi lên của TQ sẽ đặt ra một thách thức lớn đối với NB, và người Nhật sẽ có những quan điểm rất khác nhau về chiến lược mà họ sẽ theo đuổi. Liệu NB sẽ ủng hộ TQ, có thể chấp nhậnsự thống trị chính trị-quân sự của TQ để đổi lấy sự thừa nhận vị thế hàng đầu của NB trong kinh tế hay không ? Liệu NB có đưa ra một ý nghĩa hay sức mạnh mới trong liên minh Mỹ-Nhật với vai trò là một liên minh chủ chốt nhằm tạo thế cân bằng và kiềm chế TQ ? Liệu NB có ý định phát triển tiềm lực quân sự cho riêng NB và bảo vệ lợi ích của mình chống lại bất kỳ sự tấn công bất ngờ nào của TQ ? NB sẽ có thể né tranh cho đến khi tìn ra lời đáp rõ ràng cho các câu hỏi trên. …Sự lựa chọn đối với Châu Á là giữa quyền lực được cân bằng với cái giá là xung đột với hòa bình được đảm bảo với cái giá là sự bá quyền. Các xã hội phương tây có thể lựa chọn xung đột và cân bằng. Lịch sử, văn hóa và quyền lực cho thấy rất rõ là châu Á sẽ lựa chọn là hòa bình và bá quyền. Thời đại bắt đầu bằng sự xâm lược của phương Tây từ những năm 1840 đến 1850 đang kết thúc, TQ đang khôi phục lại vị thế là một nước bá quyền khu vực, và phương Đông đang bước vào kỷ nguyên của chính mình(trang 338-342—HLT bổ sung). |
Nguồn: http://bauvinal.info.free.fr
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Lê Hoàng |