Thanh toán Osama bin Laden chưa chắc
đã có thể giúp Barack Obama tái đắc cử. Cũng như trong quá trình tranh
cử của Bill Clinton năm 1992, phương châm vận động của Obama năm 2012
vẫn phải là kinh tế.
Ngày nay, thị trường nhân dụng khập
khiễng, giá thực phẩm và xăng dầu ngày một lên cao, thị trường bất động
sản trong tình trạng suy sụp..., nguy cơ không mấy khác một không tặc
nào đó đang lái phi cơ đâm sầm vào nền kinh tế. Chẳng hạn, trong giới
trẻ, thành phần cử tri nòng cốt của Obama, hơn bốn triệu thanh niên nam
nữ từ 16 đến 24 tuổi đang thất nghiệp.
Như câu chuyện ngụ ngôn về thời buổi
kinh tế khó khăn, ngày 19-4-2011, hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh
McDonald, lần đầu tiên, phát động ngày tuyển dụng nhân viên cho các
chi nhánh trên toàn quốc và đã thu nhận 62.000 nhân công mới. Để có một
ý niệm trung thực, đó là con số công ăn việc làm một công ty đem lại
trong vòng một ngày - nhiều hơn tổng số công ăn việc làm mới trong năm
2009 cho toàn nền kinh tế Hoa Kỳ. Và nếu đó là con số ngoài sức tưởng
tượng, thử nhớ lại con số bao nhiêu nhân công đã nộp đơn xin việc tại
các chi nhánh McDonald trên toàn quốc trong cùng ngày đã phải ra về tay
không và thất vọng: 938.000 người. Với 6,2% tỉ suất ứng viên trúng
tuyển, McDonald đã có tỉ suất tuyển chọn khó khăn hơn cả các đại học
danh tiếng Hoa Kỳ như Princeton, Stanford, hay Yale... khi tuyển chọn
sinh viên.
Điều nầy chẳng có gì đáng ngạc nhiên
khi gần 14 triệu người Mỹ đang thất nghiệp và trên dưới một triệu quá
nản lòng để tiếp tục tìm kiếm việc làm. Trong trạng huống đó, họ chẳng
còn lựa chọn nào khác, mặc dù kỹ nghệ thức ăn nhanh trả mức lương thấp
nhất: trung bình 8,89 USD mỗi giờ, so với mức lương trung bình trong
toàn khu vực kỹ nghệ Mỹ: 15,95 USD.
Tính theo lương hàng năm, trung bình
một nhân công trong kỹ nghệ thức ăn nhanh nói chung được trả 20.800 USD,
xấp xỉ 50% số lương trung bình 43.400 USD trong toàn quốc. Mức lương
McDonald trả còn thấp hơn nữa, ít ra đối với nhân công mới được tuyển
dụng. Trong bản tin gửi báo chí vào ngày tuyển dụng toàn quốc, McDonald
cho biết đã phải trả cho đợt tuyển dụng mới 518 triệu USD mỗi năm, hay
8.340 USD mỗi nhân công tân tuyển. Vì vậy, từ điển Anh văn Oxford đã
định nghĩa việc làm ở McDonald hay "McJob" như "một việc làm
lương thấp đòi hỏi ít kỹ năng và ít cơ hội thăng tiến."
Thực vậy, nếu chỉ đọc các tiêu đề,
người ta những tưởng bức tranh nhân dụng đang được cải thiện. Nền kinh
tế đã có thêm 1,3 triệu việc làm trong khu vực tư từ tháng 2-2010 đến
tháng 01-2011, và thất nghiệp đã sụt giảm, từ 9,8% xuống 8,8%, từ tháng
11-2010 đến tháng 3-2011. Nhưng thất nghiệp lại tăng lên 9% trong tháng
4-2011, mặc dù sự gia tăng đã ít bi quan hơn với mẫu tin: kinh tế đã có
thêm 244.000 việc làm mới trong tháng 4 (chưa kể 62.000 McJobs), vượt
quá mức các kinh tế gia chờ đợi.
Tuy nhiên, bên dưới những mẫu tin hơi
lạc quan đó, người ta nhận thấy những dòng nước ngầm thật sự đen tối. Đã
hẳn, hiện đang có một số việc làm mới, nhưng loại nào, với mức lương
bao nhiêu? Có thể nào những công việc mới có thể đem lại một mực sống
khiêm tốn và đủ để trả các chi phí tối thiểu? Hay người Mỹ đang sống qua
thời kỳ phục hồi với McJobs?
McWORKERS
NGÀY MỘT GIA TĂNG
Bằng chứng cho thấy kinh tế đang "hồi
phục với McJobs". Theo phân tích gần đây của Dự Án Luật Nhân Dụng
Quốc Gia (National Employment Law Project - NELP), tăng trưởng lớn
nhất trong khu vực nhân dụng tư trong năm 2010 đã diễn ra trong các khu
vực bán lẻ với lương thấp, như dịch vụ hành chánh và ẩm thực. Trong khi
23% số việc làm đã thất thoát trong Đại Suy Thoái 2008 thuộc loại lương
thấp (9-13 USD/giờ), 49% việc làm mới trong "phục hồi trì trệ"
cũng thuộc các kỹ nghệ loại nầy. Đối với việc làm lương cao
(19-31 USD/giờ), tỉ lệ thất thoát vì Đại Suy Thoái chiếm 40% trong khi
số việc làm mới nhờ Phục Hồi Trì Trệ chỉ lên tới 14%.
Để so sánh, tình hình nhân dụng hiện
nay còn tệ hơn nhiều, so với lần suy thoái tiếp theo sau bong bóng công
nghệ xìu xẹp năm 2001.
Những ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất
lần nầy là tài chánh, biến chế, và đặc biệt là xây cất đang bị hủy hoại
tiếp theo bong bóng bất động sản xìu xẹp năm 2007 và vẫn chưa thể phục
hồi. Trong khi đó, theo NELP, công việc tạm thời trong các ngành quản lý
rác thải, hành chánh, y tế, và dĩ nhiên, thức ăn
nhanh, đã gia tăng.
Thực vậy, trong năm 2010, 25% việc
làm mới trong khu vực tư là những việc làm tạm thời, với rất ít phúc lợi
và chẳng mấy ổn định. Và cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, khi phái chủ
thường khởi đầu sử dụng lao động tạm thời trong khi chờ đợi gầy dựng lại
vị thế vững vàng hơn sau Đại Suy Thoái. Nhưng lần nầy, các công ty đã
tuyển dụng một tỉ lệ nhân công tạm thời lớn lao hơn rất nhiều so với
các thời kỳ tiếp theo sau các lần suy thoái trước: 26% trong năm 2010 so
với 11% sau suy thoái đầu thập kỷ 1990, và chỉ 7% sau năm 2001.
Như nhiều kinh tế gia lao động đã nêu
rõ, trong ba thập kỷ vừa qua, chúng ta đã và đang chứng kiến hiện tượng
phân cực ngày một gia tăng trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Chúng ta cũng đã và
đang thấy phần lớn tỉ lệ tăng trưởng lao động tập trung ngày một nhiều
ở hai cực đối nghịch của quang-phổ-kỹ-năng-và-công-xá -- nói rõ
hơn, trong các loại việc làm cao cấp và loại việc làm tệ hại nhất.
Tại một cực tăng trưởng việc làm, tập
trung ngày một nhiều các nhân công làm burgers, trả lời điện
thoại, săn sóc trẻ con, chùi dọn nhà cữa, và những công việc lương thấp
khác. Tại cực bên kia là các kỹ sư, bác sĩ, luật sư, và các ngành nghề
sáng tạo cấp cao, tiền lương hậu hỹ. Ở khoảng giữa, các việc làm trung
cấp - lương đủ sống, giúp bành trướng giai cấp trung lưu Hoa Kỳ vào
giữa thế kỷ 20 - hiện nay, với phục hồi khập khiễng
bất cân xứng, ngày một khan hiếm và biến khỏi thị trường, tương tự như
những gì đã và đang xảy ra với máy đánh chữ, và
điện thoại hữu tuyến.
Vì lẽ hình thể của lực lượng lao động
ngày một phình lớn ở hai cực đối nghịch và gầy ốm teo tóp ở khoảng giữa,
các kinh tế gia đã bắt đầu nói đến "hiệu ứng Barbell",
có nghĩa: đối với những người bám vào cuộc sống trung lưu trong thời
buổi công ăn việc làm ngày một hiếm hoi, một "đời sống ác mộng"- a
nightmare life. Trong thực tế, hình thể phân phối lực lượng lao động
hiện nay đang làm suy yếu khả năng thăng tiến xã hội (social mobility)
một thời đã đem lại hãnh diện cho Hoa Kỳ. Và ngày nay chỉ còn lại một
dốc tuột xuống chân đồi hiện hữu.
Hiệu ứng Barbell
cũng đã đưa đến các thang bậc bất bình đẳng về lợi tức lớn lao chưa từng
thấy kể từ các thập kỷ trước Kinh Tế Đại Khủng Hoảng. Trong khoảng thời
gian từ 1979 đến 2007, đối với giới trung lưu, lợi tức trung bình mỗi hộ
gia đình sau khi trừ thuế đã nhích lên từ 44.000 USD đến 55.300 USD.
Ngược lại, đối với 1% giàu có trên đỉnh, lợi tức trung bình mỗi hộ gia
đình đã tăng vọt từ 346.000 USA năm 1979 lên gần 1,3 triệu USD năm 2007.
Nói rõ hơn, mức lợi tức các gia đình giàu có đã gia tăng 11 lần nhanh
hơn các gia đình trung lưu.
Câu hỏi cần được đặt ra: Điều
gì đã gây ra tình trạng phân cực trong lợi tức phân phối?
Nguyên do rõ ràng nhất là kỹ thuật
hay công nghệ. Như David Autor, kinh tế gia Viện MIT, đã ghi nhận,
"các công tác tổ chức, bảo quản, truy cập, và vận dụng thông tin"
trước kia được thực hiện bằng tay, ngày nay đã được điện toán
hóa. Và khi các máy vi tính không thể đảm nhiệm những việc làm của thư
ký hành chánh cơ bản, các chủ nhân luôn xuất khẩu loại việc làm nầy ra
nước ngoài - những nơi phí tổn lao động rẻ và
không có phúc lợi nào khác.
Một nguyên do khác là giáo dục. Trong
nền kinh tế Barbell ngày nay, chứng chỉ hay văn bằng đại học
quan trọng hơn bao giờ hết. Điều nầy có nghĩa bất cứ ai với học vấn cấp
trung học ngày một bị dồn xuống cực thấp nhất trên thị trường nhân dụng,
với rất ít hy vọng tiến thủ. Tệ hơn nữa, hố cách biệt trong lương bổng
giữa một người có học vấn cao và một người với học vấn thấp ngày một sâu
thẳm hơn: năm 1979, lương giờ người có bằng đại học cao gấp rưỡi (150%)
người chỉ tốt nghiệp trung học ; năm 2009, tỉ lệ lên gần gấp đôi
(200%).
Với bách phân trong số người, thuộc
lứa tuổi từ 25 đến 34, tiếp tục học lên đại học, ngày một sụt giảm ở Hoa
Kỳ, không có gì đáng ngạc nhiên khi chênh lệch trong mức công xá ngày
một tệ hại hơn. David Autor viết, "các nền kinh tế tiền tiến như Hoa
Kỳ luôn lệ thuộc vào các nhân công có học vấn cao để phát huy và thương
mãi hóa các sáng kiến - những lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế."
Người Mỹ bình thường cũng hiểu rõ
hiệu ứng gây méo mó của nền kinh tế Barbell. Trong cuộc thăm dò
Gallup gần đây, đa số dân Mỹ đều đồng ý Hoa Kỳ hoặc đang trong tình
trạng khủng hoảng (29%) hoặc suy thoái (26%). Tuy nhiên, khi phân loại
theo lợi tức, những người có mức lợi tức trên 75.000 USD mỗi năm thường
có khuynh hướng tin: không có suy thoái hay khủng hoảng, kinh tế đang
tăng trưởng. Điều nầy cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Xét cho cùng,
chính họ là tầng lớp đã được hưởng lợi từ thị trường chứng khoán và
doanh lợi của các đại công ty và Wall Street đang lên cao trở lại. Ngược
lại, đối với tầng lớp trung lưu, 55% nhận định nền kinh tế đang gặp
nhiều khó khăn. Họ đang mong đợi hồi phục.
VAI TRÒ CÁC ĐẠI CÔNG ĐOÀN NGÀY MỘT MỜ
NHẠT
Tuy vậy, những thay đổi lớn lao trong
toàn bộ nền kinh tế, như David Autor và nhiều kinh tế gia khác đã mô tả,
vẫn chưa phản ảnh đầy đủ thực trạng kinh tế. Chúng ta cần lưu ý thành tố
chính trị quan trọng trong hiện tượng rỗng ruột của lực lượng lao động
và ngày một nghèo khó của giới trung lưu: ảnh hưởng ngày một mờ nhạt
của lao động có tổ chức. Kể từ thập kỷ 1950, ảnh hưởng của các công
đoàn trong cả hai khu vực công và tư đã luôn suy giảm, hàng ngũ đoàn
viên ngày một thưa thớt, và ảnh hưởng chính trị ngày một suy yếu khá
nhiều. Đã từ lâu, đâu còn những ngày lãnh đạo các công đoàn - như George
Meany của AFL-CIO hay Walter Reuther của UAW - luôn được các tổng thống
lắng nghe...
Thực vậy, Kevin Drum của tạp chí
Mother Jones đã ghi nhận: một sự rạn nứt, trong hai thập kỷ 1960 và
1970, giữa các nghiệp đoàn lao động lớn và Đảng Dân Chủ. Năm 1972,
AFL-CIO đã lánh xa phe Dân Chủ khi từ chối ủng hộ ứng cử viên tổng thống
của Đảng - George McGovern.
Cùng lúc, giới đại doanh nhân đã được
động viên và kết hợp thành những nhóm vận động lớn lao, như Bàn Tròn
Doanh Nghiệp (Business Roundtable), và Phòng Thương Mãi
Hoa Kỳ (U.S.Chamber of Commerce), hai guồng máy vận động hành lang
hùng mạnh. Trong hai thập kỷ 1980 và 1990, Đảng Dân Chủ đã nghiêng dần về
phía hữu và hướng đến một cộng đồng doanh nghiệp ngày một áp đảo - thiết
lập Hội Đồng Lãnh Đạo Dân Chủ (Democratic Leadership Council),
thiên về Phe Các Đại Công Ty Hoa Kỳ (corporate America). Theo
Kevin Drum, "Đây không phải vì giới lao động đã từ bỏ Đảng Dân Chủ.
Sự thật trái ngược: Đảng Dân Chủ hầu như đã từ bỏ tầng lớp lao động."
Thực vậy, Đảng Cộng Hòa đã có một
lịch sử lâu dài chống phá lao động có tổ chức, và không có gì rõ ràng
hơn là sự tấn công gần đây của đảng đối với quyền lợi giới lao động. Hỗ
trợ bởi làn sóng dâng cao năm 2010, phe Cộng Hòa với đa số mới trong cơ
quan lập pháp các tiểu bang, từ Wisconsin đến Tennessee đến New
Hampshire, đã là tác giả nhiều pháp chế nhằm đảo ngược thành quả qúa
trình thương lượng tập thể của công đoàn trong khu vực công, thành trì
cuối cùng tương đối vững mạnh của giới lao động có tổ chức.
Những tính toán bên sau cuộc chiến
chống công đoàn trong khu vực công khá rõ rệt: đập quỵ gối đại công đoàn
là đạp đổ trụ cột căn bản của Đảng Dân Chủ. Trong cuộc bầu cử giữa nhiệm
kỳ, Liên Hiệp Công Nhân Viên các Tiểu Bang, Quận, và Thị Xã (the
American Federation of State, County, and Municipal employees - AFSCME)
đã chi ra gần 90 triệu USD để tài trợ các chiến dịch vận động qua truyền
hình, truyền thanh, điện thoại, điện thư, báo chí, truyền thông, và
nhiều hình thức yểm trợ các ứng viên Dân Chủ khác. Pháp chế chống công
đoàn, do Đảng Cộng Hòa chiếm đa số trong cơ chế lập pháp bảo trợ, đã gây
nhiều tai họa nghiêm trọng cho AFSCME và nhiều công đoàn trong khu vực
công, cũng như đã làm suy yếu hàng ngũ đoàn viên và thế lực thương thảo
tập thể.
Và như đã được chứng tỏ bởi tiểu bang
vừa mới tham gia vào cuộc chiến chống phá các công đoàn, không những chỉ
phe Cộng Hòa đã và đang nổ lực bào mòn thế lực của giới lao động. Ở
Massachusetts, tiểu bang thuộc khuynh hướng tự do, Quốc Hội Tiểu Bang,
với phe Dân Chủ chiếm đa số, gần đây cũng đã biểu quyết hạn chế quyền
thương nghị tập thể tranh đấu cho quyền lợi y tế của giáo chức, lính cứu
hỏa, và công nhân viên nhà nước.
Thế lực thương thảo là thiết yếu đối
với các công đoàn, bởi lẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến mức công xá và
quyền lợi hàng tháng của đoàn viên. Theo dữ liệu của Văn Phòng Thống
Kế Lao Động (Bureau of Labor Statistics), lương hàng tuần
của đoàn viên cao hơn lương các nhân công không phải đoàn viên, trung
bình khoảng 200 USD, hay 28%. Các quyền lợi của đoàn viên còn cao hơn
đối với phụ nữ và sắc dân thiểu số: 34% đối với nữ đoàn viên và 51% đối
với các đoàn viên gốc La Tinh.
Nói một cách khác, vào lúc giới lao
động trung lưu đang cần một thế lực đòn bẩy thương thảo mạnh mẽ để có
thể duy trì một mức công xá đủ sống trong nền kinh tế Barbell,
các công đoàn ở Mỹ lại phải đối diện với một viễn tượng đen tối đang mất
dần những quyền lợi thiết thân vừa nói.
Những thực trạng phân tích trên đây
nêu lên một số câu hỏi: Bằng cách nào người Mỹ có thể cứu vãn giới trung
lưu và tái định hình cơ chế phân phối lợi tức trong nền kinh tế
Barbell hiện nay? Hay liệu diễn tiến phục hồi méo mó của kinh
tế Hoa Kỳ sẽ dọn đường cho một nền kinh tế méo mó hơn nữa (more warped
McEconomy), với những người-nghèo-khó-yếu-kém ở một cực, những
người giàu-sang-có-tất-cả ở cực đối nghịch, và khoảng giữa với
đám người ngày một thưa thớt hiếm hoi?
©
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.D.
17-6-2011