Việt Nam chuẩn bị trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO- World Trade Organization). WTO được thành
lập từ ngày 1-1-1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều
tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân là
GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại).
Ngân sách của WTO tính đến năm 2004 là 162 triệu
Francs Thụy Sĩ. Chức năng chính của WTO là quản lý
các hiệp định về thương mại quốc tế, là diễn đàn cho
các vòng đàm phán thương mại, là nơi giải quyết các
tranh chấp thương mại và giám sát các chính sách
thương mại , là cơ quan trợ giúp về kỹ thuật cho các
quốc gia đang phát triển và cũng là đầu mối để hợp
tác với các tổ chức quốc tế khác. Nói đơn giản WTO
như Ban quản lý cái Chợ toàn cầu, đang chiếm tới 97%
thương mại toàn cầu. Khi đã có 149 nước vào trong
chợ rồi (và 30 nước khác đang xin gia nhập) thì Việt
nam không có lý gì để đứng mãi bên ngoài chợ ! Cơ
quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ
trưởng WTO họp ít nhất 2 năm 1 lần. Thấp hơn là Đại
hội đồng -thường họp nhiều lần trong 1 năm tại trụ
sở chính của WTO ở Genève (Thụy Sĩ) để giải quyết
các tranh chấp thương mại và rà soát lại các chính
sách của WTO.
Vào WTO các nước
thành viên phải tuân thủ các quy tắc thống nhất về
hệ thống chính sách thương mại, về môi trường thể
chế pháp lý (bảo hộ sở hữu trí tuệ, các quy định về
tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn xã hội, tiêu chuẩn
môi trường). WTO hướng tới một hệ thống chính sách
thương mại minh bạch, một luật chơi thống
nhất, nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại.
Gia nhập WTO có nghĩa là tranh
thủ cơ hội và chấp nhận thách thức.
Đối với nông dân nước ta thì Cơ hội và
Thách thức ấy gồm những gì? Cần biết rằng cư dân
nông thôn hiện chiếm đến 73,7% cư dân và chiếm 67%
lực lượng lao động của cả nước, với 13,2 triệu hộ
trong đó có 11 triệu hộ chuyên sản xuất nông nghiệp,
nguồn lực tạo ra từ nông nghiệp chiếm 21% GDP
chung,
Cơ hội:
Gia nhập WTO chúng ta có thể thâm
nhập vào thị trường nông sản thế giới (có kim ngạch
tới 548 tỷ USD/ năm). Nông sản, thủy sản xuất khẩu
của Việt Nam sẽ chịu mức hàng rào thuế quan thấp
nhất, nhiều hàng rào phi thuế quan sẽ được bãi bỏ.
Người nông dân nước ta cũng sẽ được lợi từ việc
chuyển đổi các bí quyết công nghệ nhằm năng cao hiệu
quả sản xuất. Công ghệ mới của các tập đoàn đa quốc
gia sẽ được du nhập vào nước ta. Mức tăng trưởng
xuất khẩu của nông nghiệp Việt Nam đã đạt mức 4,3%
hàng năm, dự kiến kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản
sẽ đạt tới 9-19 tỷ USD vào năm 2010. Gia nhập WTO
nông dân sẽ được tiếp cận thị trường nhiều hơn do
nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trên thế giới.
Nông dân sẽ biết được từng lộ trình cắt giảm thuế
xuất khẩu, khi nào mặt hàng nào có thuế bằng 0% để
định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh về
chất lượng và giá cả.Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ đem
lại cơ hội đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến nông
sản, từ đó mà nâng cao được năng lực cạnh tranh của
các sản phẩm. Dưới sức ép của luồng hàng nhập khẩu
mạnh mẽ, các doanh nghiệp chế biến hàng nông lâm
thủy sản buộc phải phấn đấu vươn lên để nâng cao
chất lượng và hiệu quả sản xuất. Cũng như mọi thành
phần xã hội khác người nông dân cũng sẽ được tự do
lựa chọn rất nhiều mặt hàng phong phú và có chất
lượng cao của toàn thế giới. Việc gia nhập WTO thúc
ép việc biến nông thôn thành sân sau của sản xuất
công nghiệp và thương mại. Không thể tồn tại mãi 11
triệu hộ tiểu nông sản xuất nhỏ mà phải có những
liên minh Ba nhà, Bốn nhà với các doanh nghiêp, các
nhà đầu tư, các nhà khoa học để đẩy mạnh việc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và
nông dân nước ta.
Kinh nghiệm
của Trung Quốc :
Sau 3 Sau 3 năm gia nhập WTO đến năm 2004 đã có 43
664 hợp đồng đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào các
ngành nông lâm ngư nghiệp với tổng kim ngạch tới
153,48 tỷ USD, vốn sử dụng thực tế là 60,63 tỷ USD.
Cùng với việc bố trí lại và tăng cường đầu tư trong
nông nghiệp mà 800 triệu nông dân Trung Quốc đang
nhận được sự cải thiện rõ rệt trong đời sống. Sản
lượng lương thực, thực phẩm, thủy sản... của Trung
Quốc tăng dần từng năm sau khi gia nhập WTO (triệu
tấn):
Sản phẩm
2001 2002 2003 2004
Lương thực: 452,62 457,11 430,67 469,67
Chè: 0,69 0,74 0,78
0,84
Hoa quả: 65,36 68,09 114,7
152,43
Thịt: 63,4 65,9 69,2
72,6
Thủy sản: 43,75 45,13 46,9
48,55
Ngày nay Trung Quốc đã đứng hàng thứ 8
trên thế giới và đứng đầu Châu Á về xuất khẩu nông
sản và chẳng mấy chốc sẽ biến thành nông trạo của
thế giới. Bước đi của Trung Quốc về chuyển hóa
tam nông (nông nghiệp, nông thôn và nông dân)
sau khi gia nhập WTO là những kinh nghiệm rất đáng
để chúng ta tham khảo. Đó là việc thông qua các
phương thức như tăng cường sản xuất, mở rộng thu
nhập của nông dân, tăng cường chi phí chuyển dịch
tài chính đối với nông nghiệp, nâng cao trình độ
dịch vụ công cộng cơ bản ở nông thôn. Từng bước thực
hiện công nghiệp trợ giúp nông nghiệp và yêu cầu
thành thị ủng hộ nông thôn...
Thách thức:
Thách thức lớn nhất đối với nông
nghiệp khi gia nhập WTO là khả năng cạnh tranh khốc
liệt của các hàng nông sản trong nước với hàng ngoại
nhập có chất lượng cao. Nông dân do thực thi quyền
sở hữu trí tuệ sẽ phải mua giống, vật tư, tư liệu
sản xuất nông nghiệp với giá cao và do đó làm tăng
chi phí sản xuất. Các nước giàu tiếp tục duy trì trợ
cấp và các rào cản đối với thị trường nông sản khiến
ngành nông nghiệp khó có thể sử dụng các biện pháp
tự vệ đặc biệt để đối phó. Hiện vẫn còn tồn tại
những hàng rào phi thương mại áp dụng đối với gạo,
đường, phân bón... Kinh tế nông thôn nước ta phần
lớn còn phát triển theo hướng tự phát, thiếu quy
hoạch, rất bị động trong việc tiêu thụ sản phẩm. Các
ngành nghề phi nông nghiệp sản xuất thiếu ổn định do
thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và sử dụng công nghệ
lạc hậu.Nhìn vào danh mục 94 dự án trọng điểm quốc
gia mời gọi vốn FDI trong giai đoạn 2006-2010 (gần
26 tỷ USD) ta thấy rất rõ sự mất cân đối giữa khu
vực công nghiệp- xây dựng với khu vực nông nghiệp-
nông thôn. Trong danh mục này chỉ có 1 dự án dành
cho nông nghiệp-chăn nuôi-lâm nghiệp và 4 dự án dành
cho thủy sản. Sản xuất nông nghiệp- nông thôn thường
gặp nhiều rủi ro do chịu ảnh hưởng của thời tiết,
thiên tai và thiếu đảm bảo về điều kiện hạ tầng. Hơn
nữa hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách trong lĩnh
vực này còn nhiều bất cập và chưa hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành
thị và nông thôn còn rất lớn, theo Tổng cục thống kê
là cách nhau khoảng 3,7 lần. Chính sách nông nghiệp
của ta trước đây là lo đủ ăn và cố gắng có dư thừa
để xuất khẩu. Nay phải hướng sang giai đoạn phát
triển có hiệu quả cao và bền vững. Bây giờ phải lo
hướng dẫn nông dân tiếp cận được các thông tin về
thị trường, đàm phán thương mại, kiểm tra chất lượng
và đăng ký thương hiệu nông sản... Kế hoạch phát
triển nông nghiệp phải hướng tới ba lĩnh vực chủ yếu
là: chuyển giao tiến bộ khoa học- công nghệ, nhất là
các thành tựu về Công nghệ sinh học; tạo môi trường
đầu tư thuận lợi cho kinh tế nông thôn ; tập trung
xây dựng các cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và nông
thôn. Thật đáng lo ngại khi giá gạo xuất khẩu của ta
là thấp nhất trong 6 nước xuất khẩu gạo (gạo Việt
Nam- 218 USD/tấn trong khi của Thái Lan là 278,33
USD, của Australia là 509,9USD). Theo báo cáo của Tổ
chức Lương nông của Liên Hiệp Quốc (FAO) thì đang có
1 tỷ tấn nông sản ở Châu Á sẵn sàng... đổ bộ
vào Việt Nam sau khi nước ta gia nhập WTO (!). Nông
dân nước ta sẽ phải cạnh tranh quyết liệt trên thị
trường cả ngoài nước lẫn trong nước. Các giống lúa
của nước ta được mặt này thì hỏng mặt kia (cao sản
thì dễ đổ, chất lượng gạo ngon thì lép nhiều và
kháng bệnh kém. Nông dân không mặn mà với giống mới
vì phải mua với giá cao trong khi vẫn bán ra theo
giá bình thường. Công nghệ sau thu hoạch của ta còn
rất bất cập, trong khi cam Mỹ. quýt Thái Lan sau cả
tháng vẫn tươi nguyên. Theo Bộ NN&PTNT thì thất
thoát sau thu hoạch về lúa thường là 10-17%, có nơi
tới 30% (!). Vì thiếu sân phơi nên gạo phải sấy sau
khi xát và dẫn đến gãy nát, xỉn màu.
Chúng ta chưa sản
xuất được sản phẩm nông nghiệp chuẩn mực như nhiều
nước khác vì chưa có nền sản xuất lớn, chưa sản xuất
tập trung, chưa có các quy trình kỹ thuật chuẩn,
chưa kết nối được giữa sản xuất và tiêu thụ... Cho
đến nay mà 90% sản phẩm nông nghiệp còn được bán ra
ở dạng thô và 60% sản phẩm bị bán ép với giá thấp.
Sản xuất còn rất manh mún, nhỏ bé. Bình quân mỗi hộ
nông dân chỉ có 2,5 lao động (phần lớn là lao động
nữ), và chỉ có khoảng 0,7 ha canh tác. cả nước đang
có tới trên 70 triệu thửa ruộng riêng rẽ và manh
mún. Theo điều tra của Bộ NN&PTNT thì chỉ có khoảng
25% nông dân tiếp cận được với các thông tin thị
trường trong khi 75% nông dân không biết gì cả. Mặc
dầu cả nước đã có khoảng 8000 điểm bưu điện văn hóa
xã nhưng chỉ có khoảng 4000 điểm có thể kết nối
Internet và số nông dân được tiếp cận với công nghệ
thông tin còn rất ít, hơn nữa thông tin giúp nông
dân tiếp cận được với thị trường cũng còn hết sức
hạn chế. Đáng lưu tâm là trong khi Thái Lan chỉ có
260 nghìn ha trồng cây ăn quả (Việt Nam- 750 nghìn
ha) nhưng hoa quả Thái Lan tràn lan khắp thế giới,
kể cả thị trường Việt Nam (!).Đã đến lúc phải tạo ra
các khu chuyên canh rộng lớn để phấn hoa không thể
thụ phấn chéo gây nên lai tạp bất thường theo kiểu
vườn nhà như tình trạng hiện nay.
Tiến sĩ
Việt kiều Nguyễn Quốc Vọng (Viện Gosford, Australia)
cho rằng: “Chúng ta không thể vào WTO với cung
cách cấy lúa bằng tay, gặt lúa băng liềm và gánh lúa
bằng vai”.
Phát biểu sau
khi hoàn thành thỏa thuận Việt Nam- Hoa Kỳ về việc
Việt nam gia nhập WTO, Bộ trưởng Trương Đình Tuyển
nhận xét :
“ Nói chung với bất
cứ nước nào, nông nghiệp luôn là ngành nhạy cảm. Vấn
đề đặt ra quyết liệt hơn là chúng ta cần nghiên cứu
kỹ lưỡng, thấu đáo hơn về nông nghiệp và phát triển
nông thôn. Khi đất nước Đổi mới, thành phần nào cũng
được hưởng thành quả, nông dân cũng vậy. Song so với
các lĩnh vực khác, nông dân là người thụ hưởng ít
nhất. Do đó rất cần thiết phải tổ chức lại nông
nghiệp, tăng cường khuyến nông, đào tạo nghề cho
nông dân...”
Phát triển
trên báo Thanh niên tác giả Nguyễn Minh Nhị
tâm sự:
“ Giông bão hằng năm
dân ta quá khổ và thiệt hại nhiều rồi, nhất là dân
đi biển bị bão số 5 và mới đây là bão số 1. Nhưng
với "bão thị trường" khi gia nhập WTO thì ai sẽ cảnh
báo và ai sẽ tổ chức cho nông dân tránh bão đây ?”
Tác giả Nguyễn Trung phát biểu trên
Vietnamnet:
“Hiện nay, 2/3 số dân nước ta còn đang
sống trong khu vực nông thôn, nông dân lại là lực
lượng chủ lực trong những giai đoạn cách mạng vừa
qua, nên phát triển nông nghiệp và nông thôn còn là
vấn đề phát triển đất nước nói chung và là một vấn
đề chính trị.
Hội nhập kinh tế thế giới, nhất là sau khi gia nhập
WTO còn đặt ra vấn đề sản phẩm nông nghiệp nước ta
cạnh tranh như thế nào với cả thế giới về giá cả,
chất lượng, điều kiện lao động, vệ sinh an toàn thực
phẩm, môi trường.., nhất là các nước phát triển
thường hỗ trợ cho sản phẩm nông nghiệp của họ tới 30
- 40% giá thành và nhiều dịch vụ kỹ thuật khác.
Ngoài ra để nâng cao vị thế cạnh tranh, vấn đề thời
sự trong nông nghiệp nước ta là làm gì để nâng cao
hàm lượng chế biến trong sản phẩm nông nghiệp, phát
triển những sản phẩm nông nghiệp cao cấp khác có thị
trường tiêu thụ trong nước và trên thế giới.
Cái khó lớn nhất của nông nghiệp và nông thôn nước
ta là cái nghèo, đặc biệt là cái nghèo ở các vùng
sâu vùng xa. Song bù lại, nhìn chung nước ta có lực
lượng lao động trong nông nghiệp và nông thôn hùng
hậu, có đức tính lao động cần cù, phần lớn được
hưởng chế độ giáo dục phổ cập, có nhiều ngành nghề
phi nông nghiệp, có nhiều tiềm năng tiếp thụ tiến bộ
kỹ thuật cho sản phẩm mới.
Nhìn vào những kinh nghiệm thành công ở nông thôn
nước ta, ở nông thôn các nước Trung Quốc, Đài Loan,
Hàn Quốc.., phải chăng phát triển nông nghiệp và
nông thôn của Việt Nam thời hội nhập nên đi trên cả
2 hướng:
- Nâng cao chất lượng và giá trị gia
tăng của những sản phẩm nông nghiệp hiện có, phát
triển sản phẩm nông nghiệp mới.
- Phát triển
những xí nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa phục vụ những
yêu cầu của địa phương, phục vụ phát triển công
nghiệp cả nước nói chung, khuyến khích trực tiếp
tham gia xuất khẩu.”
GS Nguyễn Lân Dũng