Những bài cùng tác
giảChân học là một
nền học vấn cung cấp cho học trò những kiến thức
thiết thực để làm người và hành nghề phục vụ xã hội.
Ngược lại, hư học là một nền học vấn sính chuộng
hình thức và hư văn – những thứ chữ nghĩa có cái vỏ
hào nhoáng, "hàn lâm", "bác học", nhưng thực chất
rỗng tuếch, vô bổ, thậm chí làm rối loạn nhận thức
của học trò.
Trong cùng một nền
học vấn, có thể có phần chân học, có phần hư học.
Chẳng hạn, trong Nho giáo có chân nho và hủ nho.
Trong giáo dục toán học cũng có "chân toán" và "hủ
toán".
Một trong những
thí dụ tiêu biểu của chân toán là việc biến Cái
Không trừu tượng của triết học cổ Ấn Độ thành Sunya,
tức số 0 phổ dụng ngày nay.
Phần 1: Sunya, Cái Không của người Ấn
cổ
 Sunya, hay
Sunyata, là một từ cổ Ấn Độ, có nghĩa là
Zero, tức số 0. Trong dãy chữ số thập phân, 0
và 1 đứng cạnh nhau, nhưng từ 1 đến 0 lại là
cả một hành trình vĩ đại của tư duy.
Thật vậy, sau
số 1 phải đợi một thời gian dài đằng đẵng
hơn 15 thiên niên kỷ số 0 mới có thể ra đời
tại Ấn Độ! "Cơn đau đẻ vật vã" này là kết
quả của sự "hôn phối" giữa bà mẹ toán học
với ông cha triết học –
những tư tưởng thâm thuý sâu xa, trừu tượng và
cao siêu của Cái Không (The Nothingness) mà trong
quá khứ dường như chỉ xứ Ấn Độ mới có. Cái
Không ấy đã được Denis Guedj, giáo sư lịch sử
khoa học tại Đại học Paris, diễn đạt tóm tắt
trong cuốn "Số
– Ngôn ngữ phổ quát"
bằng ngôn ngữ hiện đại như sau: "Số 0 là
cái chẳng có gì nhưng lại làm nên mọi thứ".
Nhưng tưởng cần
phải hỏi tại sao một Sunya vốn cao siêu trừu
tượng như thế mà ngày nay lại trở nên đơn
giản, thông dụng và quen thuộc với mọi người
như thế ? Công lao phổ cập cái cao siêu trừu
tượng này thuộc về ai, nếu không thuộc về
các nhà giáo dục thông thái hàng ngàn năm qua
đã chú tâm truyền bá ý nghĩa cụ thể và ứng
dụng của nó, thay vì thổi phồng ý nghĩa triết
học cao siêu để làm khổ học trò?
Vì thế, lịch
sử của Sunya rất đáng được chú ý nghiên cứu
học hỏi, để từ đó rút ra những bài học bổ
ích nhằm suy tôn tinh thần hiện thực và cụ
thể trong giảng dạy toán học ở trường phổ
thông.
1* Hành trình
của Sunya:Ba con số tạo
nên nền tảng của hệ thống số là số 0, số
1, và số vô cùng (∞). Việc tìm hiểu sự
hình thành một hệ thống số phải bắt đầu từ
1, vì 1 là khởi thuỷ của mọi con số.
Dấu hiệu cổ xưa
nhất về các con số trong những nền văn minh
đầu tiên của loài người mà hiện nay khoa khảo
cổ học đã nắm được trong tay là những vạch
đếm được khắc trên sừng hươu thuộc kỷ
Paleolithic, thuộc niên đại khoảng 15000 năm
trước C.N. Di tích này có 2 ý nghĩa: Một, nó
cho biết tuổi của toán học; Hai, nó khẳng
định toán học ra đời từ nhu cầu đếm.
Việc đếm hiển nhiên phải bắt đầu từ 1. Vì
thế, 1 từng được Pythagoras coi là biểu tượng
của Thượng Đế – cái bắt đầu của mọi sự.
Về mặt triết học, 1 có nghĩa là tồn tại,
hiện hữu. 1 còn có ý nghĩa là đơn vị,
nhiều đơn vị gộp lại thành số nhiều. Nếu số
nhiều này là hữu hạn thì nó được gọi là
arithmos. Việc nghiên cứu arithmos được gọi
là arithmetics, tức số học. Điều đáng
kinh ngạc là trải qua một thời gian dài
dằng dặc mười mấy ngàn năm kể từ xã hội
nguyên thuỷ thuộc kỷ Paleolithic đến các thời
kỳ văn hoá cổ đại rực rỡ nhất như văn hoá
Hy-La, văn hoá Hebrew (Do-thái), văn hoá cổ
Trung Hoa, mặc dù số học đã phát triển tới
trình độ rất cao, rất phức tạp nhưng vẫn
chưa thể nào sản sinh ra số 0! Thật vậy,
trong các chữ số của người Trung Hoa gồm nhất
(1), nhị (2), tam (3), tứ (4), ngũ (5), lục (6),
thất (7), bát (8), cửu (9), thập (10), bách
(100), thiên (1000), hoặc của người La Mã gồm
I (1), V (5), X (10), L (50), C (100), D (500),
M (1000 hoặc 1000000), hoặc của người Do Thái
gồm aleph (1), beth (2), gimel (3),... hoặc của
người Hy Lạp gồm alpha (α = 1), beta (β = 2),
gamma (γ = 3),... tất cả đều vắng bóng số 0!
Xem thế đủ biết
việc sáng tạo ra số 0 khó khăn đến nhường
nào, và không có gì để ngạc nhiên khi các
nhà nghiên cứu lịch sử khoa học đều nhất trí
đánh giá rằng việc phát minh ra số 0 là
một trong những cột mốc vĩ đại nhất trong
lịch sử nhận thức.
Thật vậy, để
sáng tạo ra số 0, toán học chưa đủ, mà cần
đến một tư tưởng hoàn toàn mới lạ. Tư tưởng
ấy đã được nhen nhóm và chín mùi tại Ấn Độ
cổ – cái nôi của Phật giáo. Cần biết rằng
suốt trong giai đoạn các nền văn hoá lớn quanh
Địa Trung Hải như Hy Lạp, La Mã, Do Thái, và
nền văn hoá cổ Trung Hoa thời Tần, Hán, Tấn,
lần lượt thay nhau đạt tới độ cực thịnh thì
Phật giáo đã trưởng thành từ vài trăm tới
ngót một ngàn tuổi – một thời gian đủ để
các tư tưởng tinh vi của nó thấm đượm vào
đầu óc các bậc hiền triết, tu sĩ, học giả,
nghệ sĩ, những người đã đóng góp lớn lao
vào việc tạo dựng nên nền văn hoá trác việt
của Ấn Độ cổ đại. Một trong những tư tưởng
trác việt đó là Cái Không, một khái
niệm kỳ lạ đồng nhất cái không có gì với
toàn thể vũ trụ mà trên thế giới từ cổ
chí kim duy nhất chỉ có Phật giáo mới nói
đến.
Ngay từ những
năm khoảng từ 300 đến 200 trước C.N. người Ấn
Độ đã có một hệ thống á thập phân (gần
thập phân) gồm chín ký hiệu cho các số từ 1
đến 9, và các danh từ dành cho các "bội của
mười". Cụ thể "mười" được gọi là "dasan", "một trăm" được gọi là
"sata", v.v... Chẳng
hạn để thể hiện số 135 như ngày nay ta viết,
người Ấn Độ cổ viết là "1 sata, 3 dasan, 5",
hoặc để thể hiện 105, họ viết "1 sata,5",
v.v... Phải đợi mãi đến khoảng năm 600 sau
C.N., người Hindu mới tìm ra cách xoá bỏ các
danh từ trong khi viết số nhờ vào việc phát
minh ra ký hiệu của số 0. Với ký hiệu
này, "1 sata, 5" sẽ được viết là 105 như ngày
nay.
Vào khoảng những năm 700, người Ả-rập đã
học số học của người Hindu.
Vào khoảng
những năm 800, một nhà toán học Ba Tư đã
trình bầy số học với hệ thập phân của người
Ấn Độ trong một cuốn sách bằng tiếng Ả-rập.
Khoảng 300 năm sau cuốn sách này được dịch ra
tiếng La-tinh. Từ đó hệ thống số Ấn-Ả-rập xâm
nhập vào Châu Âu, rồi từ Châu Âu được truyền
bá ra khắp thế giới như ngày nay. Thực ra
người Babylon cổ đại là người đầu tiên tìm ra
số 0. Người Maya ở Châu Mỹ cũng đã tìm thấy
số 0 vào thế kỷ 1, tức là trước người Ấn Độ
khoảng 500 năm. Nhưng số 0 của người Babylon và
người Maya không có đầy đủ ý nghĩa và chức
năng như số 0 của người Ấn Độ mà ngày nay ta
dùng. Phải đợi đến số 0 của người Ấn Độ thì
hệ thống số mới thực sự đạt tới một bước
ngoặt lịch sử trong khoa học và trong nhận
thức nói chung bởi công dụng vô cùng tiện lợi
và ý nghĩa triết học sâu xa của nó.
2* Ý nghĩa
triết học của Sunya:
Theo Guedj, số 0
khác hẳn với các số khác về mặt khái niệm
ở chỗ nó không gắn liền với đồ vật hoặc
đối tượng cụ thể nào cả. Việc đưa số 0
vào trong hệ thống số là sự trừu xuất các
số ra khỏi đối tượng cụ thể. Thực ra số
0 ra đời ở Ấn Độ sớm hơn một chút: nó đã
xuất hiện trên các bản thảo ở thế kỷ 5 sau
C.N. Ký hiệu đầu tiên của người Ấn Độ đối
với số 0 là một vòng tròn nhỏ gọi là
Sunya, theo tiếng Sanskrit (tiếng Ấn cổ)
nghĩa là "cái trống rỗng" hoặc "cái trống
không" (emptyness). Dịch ra tiếng Ả Rập là
sifr, ra tiếng La-tinh là zephirum rồi thành
zephiro, và cuối cùng thành zero như ngày nay.
Guedj viết tiếp: "Với sự sáng tạo ra số 0,
khái niệm không có gì trở thành khái niệm
tồn tại. Đây là sự gặp gỡ giữa hai hình
thức của cái không, đó là sự trống rỗng về
mặt không gian và sự phi tồn tại về mặt
triết học, và điều này đã tạo ra một biến
đổi căn bản về trạng thái ý nghĩa các con
số. Khái niệm chẳng có gì đã biến
thành khái niệm có cái không... Sự chuyển
tiếp từ trạng thái không có đến trạng thái
có zero, từ một số zero như một vị trí bị
bỏ trống đến một số zero như một số
lượng có thật, điều này đã tạo ra một bước
chuyển biến căn bản trong lịch sử nhận thức".

Đó là "lần đầu
tiên, khái niệm trừu tượng của Cái Không đã được
trình bầy bằng một ký hiệu cụ thể sờ thấy", như
Simon Singh đã mô tả trong cuốn "Định lý cuối cùng
của Fermat".
Tính chất "cụ thể sờ thấy" ấy cũng được Georges
Ifrah trình bầy rõ trong cuốn "Từ 1 đến 0: Lịch sử phổ quát
của số" như sau: "Số 0 của người Ấn Độ
dùng để diễn tả sự trống không hoặc sự không
hiện diện, nhưng đồng thời diễn tả không gian,
vòm trời, bầu trời các thiên thể, bầu khí
quyển, cũng như để diễn tả cái chẳng có gì,
một số lượng không thể đếm được, một phần
tử không thể diễn tả cụ thể được".
Như vậy việc
sáng tạo ra số 0 thực chất là lấy hình
để diễn tả cái siêu hình (lấy vòng tròn
Sunya diễn tả cái không có gì, cái trống
rỗng). Nói cách khác, cái siêu hình đã
được cụ thể hoá bởi hình (cái không có gì
được cụ thể hoá bằng vòm trời, vũ trụ), ngược
lại hình chỉ là biểu lộ của cái không có
gì mà thôi. Đây chính là tư tưởng "sắc
sắc không không" của Phật giáo, trong đó Cái
Không vừa là cái trống rỗng vừa là toàn bộ
vũ trụ. Tư tưởng này rất khó hiểu đối với
ngay cả người lớn, nếu không nghiên cứu học
hỏi các lý thuyết Phật giáo một cách nghiêm
túc, chứ đừng nói đến trẻ em.
3* Bài học về
giáo dục từ Sunya:
Sẽ không có nền
văn minh hiện đại, không có computer, … nếu không có
Sunya.
Bài học lớn nhất
từ Sunya là bài học về giáo dục: Những nhà giáo dục
chân chính là những người biết biến cái phức tạp
thành đơn giản, biến cái cao siêu trừu tượng thành
cái phổ dụng, mang lại lợi ích thiết thực cho mọi
người. Đó chính là nền chân học, hoàn toàn trái
ngược với nền giáo dục hủ nho hoặc nền giáo dục sính
chuộng hư văn mà "Chủ nghĩa Frege mới"
(neo-Fregeanism) là một thí dụ điển hình. Chủ nghĩa
này là gì?
Phần 2: "Chủ nghĩa Frege mới"

Nếu lịch sử về Sunya là thí dụ điển hình của một nền
chân học mang lại kiến thức bổ ích cho con người thì
ngược lại, "chủ
nghĩa Frege mới" (neo-Fregeanism) là thí dụ điển
hình của một nền hư học chuộng hình thức, sính chữ
nghĩa sáo rỗng, xa rời cuộc sống, không mang lại
kiến thức bổ ích và làm rối trí học trò.
Thông thường cái
gì đã bị chứng minh là SAI thì sẽ mất hết uy tín.
Nhưng lịch sử giáo dục thế kỷ 20 chứng kiến một
"ngoại lệ kỳ quái": tư tưởng hình thức của Gottlob
Frege đã bị chứng minh là SAI, vậy mà nó vẫn được
một số nhà toán học và giáo dục ra sức bắt chước,
tạo nên cái gọi là Chủ nghĩa Frege mới. Đỉnh cao của
chủ nghĩa này là trào lưu "Toán học mới" (THM) ở Tây
phương những năm 1960-1970 mà "di căn" của nó đến
nay vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt.
1* Từ Frege đến THM:
Đầu thế kỷ 20,
giống như nhiều nhà toán học "mơ mộng" khác, Frege
khao khát tìm ra một thứ Số học "sạch sẽ", "không
vương chút bụi trần", ngõ hầu vươn tới một hệ thống
Số học chính xác tuyệt đối. Ước mơ ấy giúp ông viết
nên tác phẩm đồ sộ "Cơ sở Số học" với nền tảng là
những định nghĩa về số: Số 2 là cái đặc trưng cho
tất cả các "cặp đôi" (pair) – tập hợp chứa 2 phần
tử; số 3 là cái đặc trưng cho tất cả các "bộ ba"
(triple) – tập hợp chứa 3 phần tử; v.v.
Ngay trong định
nghĩa này, Frege đã rơi vào một cái vòng luẩn quẩn:
ông muốn "giải thoát" số ra khỏi ý nghĩa số lượng,
nhưng định nghĩa của ông vẫn dựa vào số lượng phần
tử trong tập hợp – Frege muốn bay lên trời nhưng
chân vẫn bị trói chặt trên mặt đất!
Bất chấp sai lầm
"ngây thơ" đó, "vẻ đẹp bác học" của hệ thống ký hiệu
và suy diễn logic hình thức của Frege vẫn làm cho
thiên hạ bị choáng ngợp. Họ coi phương pháp của
Frege như mẫu mực của toán học hiện đại. Ngay cả
Bertrand Russell – người chỉ ra chỗ sai trong nền
tảng lý thuyết của Frege
– vẫn tin rằng con đường Frege đang đi là đúng, do
đó chỉ cần điều chỉnh một chút là sẽ tới "thiên
đường toán học"!
Phải chờ mãi đến
năm 1931, khi Kurt Godel công bố "Định lý bất toàn"
(Theorem of Incompleteness) thì những người khôn
ngoan nhất như John von Newman mới đau xót nhận ra
rằng không bao giờ có cái "thiên đường" ấy. Nhưng
dường như đa số vẫn muốn "tẩy chay" Định lý Godel,
hoặc không hiểu hết ý nghĩa của định lý đó, do đó tư
tưởng hình thức của Frege vẫn tiếp tục sống, mặc dù
chính Frege đã từ bỏ nó. Bằng chứng là đã ra đời
nhóm Bourbaki với những công trình vĩ đại nhằm "xét
lại" (viết lại) toàn bộ toán học trên cái nền của lý
thuyết tập hợp, tức là làm sống lại tư tưởng hình
thức mà David Hilbert, Gottlob Frege, Bertrand
Russell, … đã xới lên từ đầu thế kỷ 20.
Trớ trêu thay,
Bourbaki ra đời ở Pháp – quê hương của Henri
Poincaré, nhà toán học vĩ đại từng quyết liệt chống
đối chủ nghĩa logic hình thức! Nếu Poincaré sống
thêm vài chục năm nữa, chắc hẳn ông sẽ ủng hộ Định
lý Godel để chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa
hình thức ở Pháp, không để cho THM cùng những thứ hư
văn của nó "đổ bộ" vào trường phổ thông rồi gây nên
những thảm hoạ giáo dục như ta đã thấy.
2* Thảm hoạ của
THM:
Một "cựu nạn nhân"
của THM là nhà vật lý nổi tiếng
Phạm Xuân Yêm, giám
đốc nghiên cứu tại CNRS (Trung tâm quốc gia về
nghiên cứu khoa học của Pháp), giáo sư Đại học
Pierre và Marie Curie tại Paris. Trong một thư gửi
cho tôi, GS Yêm viết:
"Vụ Bourbaki ở
Pháp những năm 1960 tôi là nạn nhân chứng kiến.
Khi ấy, 1958, tôi học năm cuối cử nhân toán với
Gustave Choquet, Claude Chevalley, Henri Cartan,
toàn những đỉnh cao của Pháp. Nhưng các vị ấy mang
vào lớp cử nhân này lần đầu như một thử nghiệm
trường phái Bourbaki, cả giờ ông Choquet chỉ nói và
không viết một dòng trên bảng! Chính vì thế mà tôi
bỏ toán ra làm vật lý lý thuyết. Đã thế về sau họ
còn mang théorie des ensembles (lý thuyết tập hợp)
vào trung học làm khủng hoảng môn toán trung học một
thời gian, may mà họ sửa chữa lại sau này".
Theo tài liệu do
GS Yêm cung cấp, từ 1967 đến 1972, dưới sự lãnh đạo
của Uỷ ban cải cách giáo dục toán học, đứng đầu là
Lichnerowicz, cái gọi là "toán hiện đại" đã được đưa
vào trường phổ thông. Khẩu hiệu của THM là "Đả đảo
Euclide!" (À bas Euclide!),
có nghĩa là vứt bỏ hết mọi cái cũ truyền thống để
thay thế bằng "toán hiện đại": dạy toán học hình
thức dựa trên lý thuyết tiên đề (các cấu trúc đại
số, các không gian vector, lý thuyết tập hợp…). Từ
năm 1971 đến 1977, ngôn ngữ tập hợp và cấu trúc đại
số được dạy ngay từ trung học và giới thiệu ngay từ
tiểu học.
Kết quả là "việc
nhấn mạnh đến các môn học khó hiểu như Lý thuyết tập
hợp tỏ ra phản tác dụng … Chương trình quá chú trọng
tới toán học ở trình độ cao này dẫn tới sự trả giá
là mất kiến thức cơ bản", đó là nhận định của
Bách khoa toàn thư Americana.
Nhưng tại sao một
cơ quan quan trọng như Uỷ ban Lichnerowicz, với rất
nhiều giáo sư, tiến sĩ, lại dấn thân vào một cuộc
"phiêu lưu" vô ích đến như vậy?
Câu trả lời thiết
tưởng đã quá rõ:
Vào giữa thế kỷ
20, ảnh hưởng của chủ nghĩa hình thức vẫn còn quá
lớn. Lúc ấy cái bóng của Bourbaki che lấp cái bóng
của Godel. Nếu thấm nhuần Định lý Godel, có thể Uỷ
ban Lichnerowicz sẽ không phiêu lưu, vì họ sẽ ý thức
được rằng nhận thức có giới hạn. Nhưng vào thời điểm
đó, số người biết Godel, hiểu Godel và đánh giá đúng
tầm vóc của Định lý Godel dường như còn quá ít, chưa
đủ tạo nên một lực hãm đủ mạnh đối với khát vọng vô
chừng vô độ của chủ nghĩa hình thức.
Hơn thế nữa, Uỷ
ban cải cách giáo dục phổ thông của Lichnerowicz lại
chẳng hiểu gì về mục tiêu của giáo dục phổ thông.
3* Mục tiêu
giáo dục phổ thông:
Giáo dục phổ
thông, bản thân tên gọi của nó, đã cho thấy kiến
thức ở trường phổ thông phải là kiến thức dành cho
mọi người. Vậy câu hỏi đặt ra là cái gì cần thiết
cho mọi người? Cái gì chỉ cần cho một số ít người?
Hơn ai hết, các
nhà giáo dục cần phải trả lời rõ ràng và dứt khoát
những câu hỏi đó trước khi đặt bút viết sách giáo
khoa!
Câu chuyện sau đây
có thể có ích trong việc tìm câu trả lời:
Một tạp chí điện
ảnh ở Mỹ phỏng vấn Cameron Diaz, nữ diễn viên xinh
đẹp trong cuốn phim nổi tiếng The Mask. Cuối buổi
phỏng vấn, phóng viên đặt câu hỏi:
- Cô còn muốn nói
gì với độc giả nữa không?
- Tôi muốn biết
"thực ra công thức E = mc2 có ý nghĩa
gì?", Diaz trả lời.
Thế là cả hai cùng
phá lên cười. Cuộc phỏng vấn kết thúc.
Nghe chuyện này,
có người cho rằng Einstein quá vĩ đại, vì một người
như Diaz cũng phải bận tâm tới công thức của ông.
Nhưng nếu để ý Diaz hỏi mà không cần nghe trả lời
thì có thể nghĩ Diaz chỉ mượn công thức của Einstein
để gợi ý với chúng ta một điều gì đó. Mỗi người có
thể hiểu ý của cô theo cách riêng. Riêng tôi, tôi
nghĩ cô muốn nói với giới "celebrities" (người nổi
tiếng) rằng Cái Đẹp chân chính không cần phải trang
điểm bằng những thứ loè loẹt phù phiếm (E = mc2
là một thứ phù phiếm đối với giới nghệ sĩ điện ảnh).
Chủ nghĩa Frege
mới – thói chuộng logic và tập hợp ở trường phổ
thông – cũng chỉ là một thứ trang điểm loè loẹt mà
thôi.
4* Thay lời kết:
Ngay từ đầu thế kỷ 20, Henri Poincaré đã tuyên chiến
với Chủ nghĩa hình thức. Ông nói: "Nhà toán học thuần tuý
dường như lãng quên sự tồn tại của thế giới
bên ngoài, giống như một hoạ sĩ biết cách
kết hợp hài hoà màu sắc và hình dạng nhưng
lại bị tước đi vật mẫu – điều đã làm cho
sức sáng tạo của anh ta bị khô héo đi một
cách nhanh chóng".
Albert Einstein cũng ghét loại toán học đó đến mức
phải tuyên bố: "Tôi
không tin vào toán học".
Tại sao những
người thông minh lại ghét thứ toán học ấy đến thế?
Đơn giản vì nó
sáo rỗng, không đếm xỉa đến thực tiễn!

Tư tưởng toán học
đề cao logic đến mức không đếm xỉa đến thực tiễn đã
manh nha từ lâu. Đặc biệt, sự ra đời của Hình học
phi-Euclid đã khuyến khích ý nghĩ cho rằng bằng con
đường suy diễn logic thuần tuý, toán học có thể khám
phá ra những chân lý tuyệt đối.
Tư tưởng này lên tới tột đỉnh vào cuối thế kỷ 19 đầu
thế kỷ 20 để từ đó hình thành nên một chủ nghĩa, một
đường lối, một chương trình vĩ đại nghiên cứu toán
học: đó là chủ nghĩa hình thức, mà linh hồn
của nó nằm trong tuyên ngôn của Bertrand Russell: "Toán
học là một khoa học mà trong đó người ta
không bao giờ biết là người ta đang nói về
cái gì, miễn là cái điều người ta nói là
đúng".
Chẳng hạn, 2 + 3 =
5 là đúng, không cần biết 2, 3, 5 đang nói về cái
gì. Khi đó phép cộng không phải là "thêm vào", mà là
một "ánh xạ"… Đó chính là những gì nền giáo dục đang
nhồi vào đầu trẻ em, xuất phát từ tư tưởng "xa
rời thực tế mới là điểm mạnh của toán học",
như một giáo sư có ảnh hưởng lớn trong ngành giáo
dục hiện nay từng tuyên bố.
Có nghĩa là với
những nhà giáo dục này, có một thứ toán học "thiêng
liêng" đứng trên và đứng ngoài xã hội, bởi vì xã
hội không thể không biết những con số của mình đang
nói về cái gì, về USD hay VND, về m hay inch, về
nhiệt độ C hay nhiệt độ K, về newton hay coulomb,
v.v.
Được biết, có lần
một tên lửa vũ trụ của NASA đã nổ tung trên quỹ đạo
chỉ vì một lỗi rất "tầm thường": các chương trình
điều khiển do các bộ phận khác nhau viết ra đã không
sử dụng một hệ đơn vị đo lường thống nhất!
Không biết các nhân viên của NASA có cho rằng "xa rời thực tế
mới là điểm mạnh của toán học" hay không? Nhưng
chắc chắn quan điểm đó sẽ làm hỏng nền giáo dục toán
học ở trường phổ thông!
Ngày
17/09/2011
|