Gần đây tôi có dịp đến thăm các cơ sở
sản xuất dược liệu của nhiều Công ty Dược phẩm danh tiếng trên thế
giới ở Đức , ở Nhật và tôi thấy một tình hình hoàn toàn khác hẳn so với
nhiều năm trước. Người ta không còn chú ý đến việc chiết rút hoạt chất
từ các cây thuốc, cũng không dồn sức vào việc tổng hợp theo con đường
hóa học. Hiện thấy ở mọi Công ty toàn là các nồi lên men khổng lồ đang
lên men tạo ra dược phẩm nhờ vi sinh vật, nhưng không phải là các vi
sinh vật bình thường như trước đây mà toàn là các vi sinh vật mang ADN
tái tổ hợp (recombinant ADN). Nguồn gen quý hiếm có thể lấy từ thực
vật, từ động vật nhưng chủ yếu là nhận được từ các vi sinh vật đã được
lựa chọn. Vi sinh vật dùng để tiếp nhận gen là những chủng đã được
biết rất rõ về bộ gen (genom), chẳng hạn như một vài chủng
Escherichia coli hay một vài chủng nấm men Saccharomyces
cerevisiae.
 |
 |
Escherichia coli |
Saccharomyces cerevisiae |
Về chuyển gen từ thực vật vào vi
sinh vật có thể lấy ví dụ từ thuốc Artemisinin chống sốt rét:
 |
 |
Artemisia
annua |
Artemisinin |
Trong khi sốt rét đang là bệnh của 500
triệu trường hợp nhiễm ký sinh trùng sốt rét hàng năm thì người ta
phát hiện được chất Artemisinin trong cây Thanh hao hoa vàng (Artemisia
annua). Cây này đã được trồng rộng rãi tại Trung Quốc, Việt Nam để
chiết rút Artemisinin. Công trình nghiên cứu này tại Việt Nam đã được
nhận giải thưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên hiện nay vì giá thành của
thuốc chiết rút từ Thanh hao hoa vàng là quá đắt cho nên người ta đã
tiến hành tách được 2 gen từ cây này liên quan đến việc tổng hợp ra
acid artemisinic. Acid này chỉ qua vài phản ứng hóa học sẽ dễ dàng
chuyển thành Artemisinin. Sau đó người ta đã chuyển thành công 2 gen
này vào tế bào men rượu (Saccharomyces cerevisiae). Việc đưa
chủng nấm men mang gen tái tổ hợp sinh Artemisinin vào sản xuất trong
các nồi lên men đã làm hạ giá thành xuống chỉ còn 10% so với phương
pháp tách chiết từ Thanh hao hoa vàng và không còn cần tới đất để sản
xuất cây này nữa (!). Đó là một thành tựu tuyệt vời của nhóm nghiên
cứu ở trường Đại học Berkeley (California, Hoa Kỳ) mới công bố tháng
4-2006 (Dae-Kyun Ro, et al., Nature, Vol. 440, 13
April 2006, 940-943; Towie, Narelle, Nature, Vol 440, 13 April
2006, 852-853).Phương pháp này đang được thử nghiệm sản xuất
tại Viện vì một thế giới khỏe mạnh(Institute for OneWorld Health),
hợp tác với công ty Amyris Biotechnologies và với
 |
Farnesyl pyrophosphate (FPP) |
sự trợ giúp tới 42.6
triệu USD của tổ chức Bill and Melinda Gates Foundation. Hy vọng với
sự sản xuất ở quy mô công nghiệp này thì nhiều bệnh nhân ở các nước
nghèo mới có cơ hội được chữa trị dễ dàng bệnh sốt rét. Ông Jay
Keasling và đồng nghiệp của nhóm nghiên cứu này đã dùng 3 giai đoạn để
tạo nấm men rượu mang gen tái tổ hợp: giai đoạn đầu là thay đổi một số
gen của nấm men bằng phương pháp gây đột biến để gia tăng việc sản
xuất farnesyl pyrophosphate (FPP), giai đoạn hai là đưa gen
amorphadiene synthase (ADS) của cây Thanh hao hoa vàng vào tế bào nấm
men để tổng hợp FPP thành amorphadiene, và giai đoạn cuối là đưa gen
cytochrome P450 của cây Thanh hao hoa vàng vào nấm men để oxid hóa qua
3 bậc chuyển amorphadiene thành acid artemisinic .
 |
Cấu trúc insulin-t3r3 |
Về chuyển gen từ
động vật thì có thể lấy việc sản xuất Insulin làm ví dụ: Insulin là
một loại kích tố thuộc loại polypeptid do tụy tạng của người và động
vật sinh ra. Thiếu insulin thì không duy trì được đường huyết, không
tích lũy được glycogen và lipid, không điều hòa và khống chế được
nhiều quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Theo Tổ chức Sức
khỏe Thế giới (WHO) thì trên toàn cầu có ít nhất 171 triệu người bị
bệnh tiểu đường, con số này sẽ có thể tăng lên gấp đôi (336 triệu) vào
năm 2030. Tiểu đường týp I xảy ra do tuyến tụy không sản xuất đủ
insulin. Tiểu đường týp II hay là loại bệnh không phụ thuộc vào
insulin, xảy ra do cơ thể không sử dụng insulin một cách hiệu quả.
Loại này chiếm 90% các trường hợp tiểu đường trên toàn cầu, phần lớn
là hậu quả của tình trạng tăng cân và ít hoạt động thể lực.
Trước đây để điều trị tiểu đường cần phải chiết
xuất insulin từ tụy tạng bò hoặc lợn nên số lượng rất hạn chế và rất
đắt. Insulin gồm 2 chuỗi polypeptid, chuỗi A gồm 21 acid amin, chuỗi B
gồm 30 acid amin. Người ta đã tách được gen mã hóa chuỗi A và chuỗi B
rồi phân biệt chuyển vào plasmid pBR322 của vi khuẩn E.coli để
bắt chúng tổng hợp một cách độc lập ra 2 chuỗi này (gắn với
b-galactosidase), sau đó dùng phương pháp phá thành tế bào và tinh chế
2 chuỗi , rồi ôxy hóa để gắn hai chuỗi này lại thành phân tử insulin
nguyên vẹn. Gần đây còn có phương pháp lên men để tạo ra proinsulin
sau đó chuyển hóa thành insulin. Từ năm 1982 Công ty Eli Lilly đã bán
ra thị trường và doanh thu riêng về dược phẩm này năm 1992 đã lên đến
625 triệu USD (!). Tương tự như vậy là trên 50 dược phẩm quý
giá được ra đời từ các tế bào mang gen tái tổ hợp đã được phê chuẩn
trong điều trị: Đáng lưu ý là Kích tố sinh trưởng người (rhGH) với các
sản phẩm như Humatrope của Lilly, Serostim của Serono; Kích tố
Follicle-stimilating (FSH) của Pergonal; Nhân tố VIII với sản phẩm
Kogenate của Bayer; Eythropoietin (EPO) với sản phẩm Epogen của
Amgen; Nhân tố Granulocyte colony-stimulating (G-CSF) với sản phẩm
Neupogen của Amgen của Neupogen; a-galactosidase A với sản phẩm
Fabrazyme của Genzym; Laronidase (rhIDU) với sản phẩm Aldurazyme Của
BioMarin và Genzyme; Galsulfase (rhASB) với sản phẩm Naglazyme của
BioMarin; DNAse Pulmozyme của Genetech; Tissue plasminogen activator
(TPA) với sản phẩm Activase của Genetech; Glucocerebrosidase với sản
phẩm Ceredase của Genzyme, Interferon -b-1a với sản phẩm Rebif của
Serono, IF-b-1b với sản phẩm Betaseron của Schering, Insulin-like
growth factor 1 (ILGf1)... Các vaccin tái tổ hợp gen liên tiếp ra đời
nhằm phòng chống có hiệu quả hơn các bệnh viêm gan B, viêm não Nhật
Bản, sởi, dịch tả, bại liệt, dại, lở mồm long móng, sốt rét...vaccin
chống viêm gan B bán được khá nhiều là sản phẩm Engerix của hãng
SmithLline Beecham
Các dược phẩm và
vaccin dựa trên CNSH
hiện đại được đưa ra thị trường trong giai đoạn 1982-1994 mỗi năm chỉ
là 2-7 loại, có năm không có. Nhưng từ 1995 đến tăng lên 16-32 loại
mỗi năm và năm 2005 có đến 85 sản phẩm mới. Tổng số các protein tái tổ
hợp dùng làm dược phẩm đã lên đến 300 loại. Chúng có khối lượng nhỏ bé
nhưng giá trị kinh tế rất cao. Năm 1999 cả thế giới chỉ sản xuất được
cả thảy 1 172 921 g ( hơn1,17tấn) nhưng có giá trị tới 30 tỷ USD (!),
năm 2004 thu được 6 557 118 g (hơn 6,4 tấn), trị giá 43 tỷ USD. So
với giá 1 tấn gạo thì đúng là một trời một
vực. Riêng về Kháng thể đơn dòng (monoclonal antibody-Mab) hiện có tới
700 loại do 260 công ty sản xuất ra, 200 loại đã được thử nghiệm lâm
sàng ở các mức độ khác nhau. Năm 1999 bán được 2,8 tỷ USD, năm 2004
bán được 9,8 tỷ USD.
Thông qua vài số liệu nói trên ta thấy
ngành Dược trên thế giới đang mạnh mẽ chuyển dần sang sản xuất các sản
phẩm dựa trên công nghệ ADN tái tổ hợp. Những nhà máy chiếm diện tích
chẳng bao nhiêu, thiết bị chủ yếu vẫn là các nồi lên men như ở các nhà
máy sản xuất bột ngọt , nhưng nhờ có các chủng vi sinh vật mang những
gen tái tổ hợp quý giá mà càng ngày người ta càng sản xuất ra được
nhiều loại dược phẩm có giá trị khoa học và giá trị kinh tế rất cao.
Các phòng nghiên cứu của các Công ty dược phẩm tư nhân còn lớn hơn
nhiều so với các Viện nghiên cứu của Nhà nước. Và cái quý giá nhất để
tạo nên các sản phẩm này vẫn là các nguồn gen tìm kiếm được từ thế
giới vô cùng phong phú của các loài vi sinh vật.
Đó cũng là con đường đi tất yếu của các
nhà nghiên cứu Sinh học, Dược học và các công ty dược phẩm của nước
ta. Chúng ta đang bị bỏ cách một khoảng quá xa, nhưng tính đa dạng vi
sinh vật ở nước ta chẳng thua kém bất kỳ quốc gia nào, thiết bị sản
xuất cũng không phải là quá đắt tiền. Chỉ cần có một cách nhìn khách
quan và khẩn trương về chiến lược, một quyết tâm cao trong đầu tư và
đào tạo, nhất định chúng ta sẽ có thể sản xuất ra được ngày càng nhiều
các dược phẩm thế hệ mới ,thay thế dần cho việc nhập khẩu với giá rất
cao như hiện nay. Việc chúng ta tự sản xuất trong nước được hai loại
vaccin phòng chống viêm gan B và viêm não Nhật Bản là các bằng chứng
rất rõ rệt.
Đã
đăng trên Kiến Thức Ngày Nay số 590
(1-1-2007).