Sông Mekong: Thách thức từ mất rừng và chuyển nước

Vietsciences- Nguyễn Ngọc Trân            24/12/2010

 

Những bài cùng tác giả

 

Dòng sông sẽ suy yếu nghiêm trọng, thậm chí sẽ "chết" đi, nếu nó liên tục bị chích mất nước, giống như một cơ thể con người liên tục bị chích máu.

Liên quan đến những thách thức đối với sông Mekong, việc xây dựng các đập thủy điện đã được đề cập khá nhiều [1]. Có ý kiến cho rằng đó còn liên quan đến sự tồn vong của dòng sông. Xin không đề cập thêm trong bài này.

Ít được nói đến nhưng theo tôi quan trọng không kém và gắn kết với các đập, đó là tình trạng mất rừng trong lưu vực và vấn đề chuyển nước ra khỏi lưu vực.

Cái giá mất rừng

Rừng đầu nguồn bị tàn phá là một mối đe dọa nặng nề đối với dòng sông, nhất là ở vùng nhiệt đới. Ai cũng biết, mất rừng kéo theo xói mòn, rửa trôi mà hậu quả là nâng cao đáy các hồ đập, thay đổi địa mạo của lòng sông, chế độ thủy văn của sông và trong một số trường hợp, cả địa mạo của vùng.

Hồ Tonlé Sap là một ví dụ cụ thể. Do nạn phá rừng quanh hồ này trong những thập niên gần đây, đáy hồ mỗi năm được nâng lên từ 10 đến 12 cm, sức chứa của hồ giảm đi tương ứng. Chức năng trữ và điều tiết của hồ sẽ thay đổi khác với trước đây là điều sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn được tình hình mất rừng hiện nay.

 

Để định lượng cụ thể tình trạng mất rừng, cần tính toán đầy đủ để được 1 MW thủy điện sẽ phải mất bao nhiêu ha rừng cho lòng hồ, cho nhà máy và hạ tầng cơ sở khác, và các hậu quả của sự mất mát này.

Một lãnh đạo của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lâm Đồng, cho biết chỉ với 25 công trình thủy điện đã và đang được triển khai, tỉnh đã mất hơn 15000ha rừng tự nhiên. Từ đó bài báo đưa ra con số để có 1MW điện phải mất ít nhất 10-16ha rừng tự nhiên [2].

Con số này là bao nhiêu đối với 9 tỉnh khu vực miền Trung - Tây Nguyên (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng) nơi, theo số liệu của Bộ Công thương, đang có tới 393 dự án thủy điện với tổng công suất lắp máy khoảng 7381MW [3]. Tình trạng lũ lụt ở các tỉnh miền Trung trong những tuần gần đây có nguyên nhân của thời tiết, nhưng chắc chắn có nguyên nhân từ tình hình mất rừng.

Nói gắn kết là vì vậy. Để có đập phải mất rừng. Số đập dày đặc thì sẽ không còn rừng. Lòng hồ bị nâng đáy, công suất giảm so với thiết kế, lượng nước chảy về hồ nhanh gần như tức thì, tần suất xã lũ nhặt hơn, nhà dân và hạ tầng cơ sở bị phá hỏng.

Nếu đập nằm trên vùng bán sơn địa, ngoài mất rừng, còn mất nhiều diện tích đất nông nghiệp và nhiều hộ dân phải tái định cư.

Chuyển nước

Dòng sông sẽ suy yếu nghiêm trọng, thậm chí sẽ "chết" đi, nếu nó liên tục bị chích mất nước, giống như một cơ thể con người liên tục bị chích máu.

Những dự án chuyển nước từ lưu vực của một dòng sông sang lưu vực của một dòng sông khác, và kể cả trong cùng lưu vực, do vậy cần được tính toán, đánh giá các tác động kinh tế, xã hội, môi trường, và cụ thể những thay đổi đối với dòng sông, lưu vực, những mặt được - mất đối với các quốc gia có liên quan khi dòng sông chảy qua nhiều nước.

Từ thập niên 1980 - 1990, Thái Lan đã đề xuất hai dự án chuyển nước: dự án Kok - Ing - Yom - Nan ở vùng Bắc Thái Lan, và dự án Kong - Chi - Mun ở phía Đông Bắc Thái Lan.

Dự án Kok - Ing - Yom - Nan chuyển nước từ hai phụ lưu của sông Mekong, sông Kok và sông Ing, vào sông Yom và sông Nan, hai phụ lưu của sông Chao Praya, nhằm tăng thêm nguồn nước cho đập Sirikit và lượng nước tưới cho miền Trung Thái Lan. Đây là một dự án chuyển lưu vực và sẽ làm thất thoát nguồn nước sông Mekong.

Dự án Kong - Chi - Mun, không chuyển nước ra ngoài lưu vực, mà đưa nước từ sông Mekong vào các hồ chứa hiện có và mới sẽ xây thêm nhằm tưới cho 510000 rai đất nông nghiệp (tương đương 81600 ha) ở vùng Đông Bắc Thái Lan. Lượng nước mất đi và chất lượng nước trả lại cho dòng chính là những mối quan ngại đối với Lào và nhất là Campuchia và Việt Nam.

Chính vì hai dự án này mà Ủy ban lâm thời sông Mekong đã đi vào bế tắc và đã giải thể năm 1992.

 

Gây lo ngại lớn là dự án đồ sộ chuyển nước Nam - Bắc trên lãnh thổ Trung Quốc với ba tuyến chuyển Đông, Trung và Tây, dự kiến bổ sung 44,8 tỉ m3/năm nước từ sông Trường Giang sang sông Hoàng Hà, sau đó đưa đến Bắc Kinh, Thiên Tân.

Tuyến phía Đông đã được triển khai. Tuyến phía Tây bắt đầu triển khai năm 2010. Còn tuyến phía Tây? và trong 17 tỉ m3/năm từ tuyến này, có chuyển nước từ sông Mekong và sông Salween hay không? Thông tin có được rất ít và không rõ ràng.

Trong quy hoạch ban đầu vào cuối thập niên 1950 dự án định chuyển nước từ năm con sông Nu (Salween), Lancang (Mekong), Tongtian, Yalong, Dadu sang sông Hoàng Hà. Việc chuyển nước như vậy sẽ gây nhiều hậu quả về môi trường và về kinh tế xã hội to lớn cho các nước ở hạ lưu là Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam.

Sau đó phương án này không được công khai nhắc đến có thể vì liên quan đến các nước ở hạ lưu. Tuyến phía Tây được thể hiện rất đơn sơ trong hình dưới đây.

 

Có bao nhiêu đập đã, đang và sẽ được xây dựng trên sông Lancang (Mekong thượng nguồn)? Theo bản đồ của Ủy hội sông Mekong, có 7. Có tài liệu nói đến con số 14. Theo tài liệu đọc được trên mạng meltdownintibet.com thì số đập trên sông Lancang cao hơn nhiều và hầu hết đều đã và đang được xây dựng.

 


 

Có cơ sở để nghĩ rằng các thông tin về các đập trong bản đồ trên đây là xác thực, vì: (1) nó đúng với lô-gíc tích nước để chuyển nước; (2) còn có một bản đồ tiếng Trung trùng hợp với bản đồ này.

 

Như vậy: (1) thách thức từ các đập thủy điện đối với hạ lưu vực sông Mekong không phải chỉ đến từ 7 con đập. Nó còn sang một cấp độ khác vì nguồn nước có cơ bị thất thoát; (2) vấn đề chuyển nước sông Mekong trong dự án chuyển nước Nam-Bắc của Trung Quốc vẫn là thời sự, và đương nhiên là mối quan ngại hàng đầu đối với các quốc gia ở hạ lưu; (3) số đập và việc chuyển nước Mekong cần được làm sáng tỏ.

Phải chăng sự gần kề giữa sông Lancang và sông Jingsa-Yangtsé cùng lúc với mực nước dâng tích lại từ các đập xây dựng trên sông Lancang đã luôn âm ỉ nuôi dưỡng việc thực hiện ý tưởng chỉ đạo từ ban đầu đưa nước sông Lancang (và sông Nu) vào dự án chuyên nước Bắc Nam?

Sáu đề xuất và kiến nghị

1. Quy hoạch tổng thể phát triển vùng (hay lưu vực sông), các quy hoạch phát triển ngành (nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp, du lịch, ...) và tiểu vùng (hay quốc gia trong lưu vực) cần phải hài hòa với nhau. Hãy để dòng sông "sống" với vùng (lưu vực), với con người và phục vụ con người.

2. Ngăn chặn nạn phá rừng, nhất là rừng đầu nguồn là một nhiệm vụ bức xúc của các quốc gia trong lưu vực.

3. Lancang-Mekong là một con sông quốc tế. Các dự án chuyển nước phải được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và đầy đủ. Vấn đề xây dựng đập cũng vậy. Các báo cáo tác động môi trường cho toàn bộ lưu vực, trong thời gian dài là bắt buộc. Tốt nhất là đặt trong một quy hoạch tổng thể lưu vực sông.

4. Khai thác tài nguyên nước tại một quốc gia trong lưu vực phải đi đôi với trách nhiệm đối với tất cả các thay đổi trong toàn lưu vực do việc khai thác này gây ra. Quyền lợi của một nước trong lưu vực không thể tách rời quyền lợi của tất cả các nước khác cùng chia sẻ lưu vực.

Hợp tác để cùng phát triển bền vững giữa tất cả các nước trong lưu vực là cách ứng xử đúng đắn nhất.

5. Các số liệu khí tượng thủy văn trong lưu vực sông Lancang - Mekong phải được chia sẻ giữa các nước trong lưu vực. Chế độ vận hành của các đập cũng vậy. Những thông tin này là cần thiết cho việc quản lý các rủi ro trong toàn lưu vực.

6. Ủy ban quốc gia của Việt Nam trong Ủy hội sông Mekong, gắn trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của đất nước, theo nguyên tắc Hợp tác để cùng phát triển bền vững, với nhiệm vụ báo cáo với Chính phủ và qua Chính phủ, báo cáo với Quốc hội, mặt khác thông cho rộng rãi các nhà khoa học các thông tin liên quan đến tài nguyên nước và việc sử dụng nó trong lưu vực sông Mekong, để được thêm sư hậu thuẩn cho tiếng nói của mình tại diễn đàn quốc tế.

 


[1] Một cuộc Hội thảo Đối thoại chính sách: Phát triển đập thuỷ điện trên sông Mekong và thách thức đối với Việt Nam" với đại biểu Quốc hội Khóa XII vừa được Trung tâm Con người và Thiên nhiên và Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam phối hợp tổ chức tại Hà Nội ngày 7.11.2010.

[2] Bài "1MW điện giá bao nhiêu?" Tuổi Trẻ cuối tuần, số ra ngày 05.10.2010.

[3] Báo cáo của Bộ Công thương gửi Thủ tướng Chính phủ tháng 3-2010 về kết quả rà soát các dự án thủy điện và việc vận hành các đập thủy điện

 

*  *

*

*Mekong cạn dòng và trách nhiệm nước lớn

 

Tới thời điểm này, Trung Quốc vẫn chưa chịu tham gia Ủy ban sông Mêkông dù đã được mời nhiều lần. Sự quan tâm của thế giới, khu vực tạo áp lực nhất định để nước này thiện chí hơn trong sự hợp tác với các nước hạ nguồn Mêkông.

>> Trung Quốc ngăn đập, miền Tây đói lũ

>> Bi kịch thừa mặn, thiếu ngọt ở hạ nguồn

>> Lũ muộn bất thường, dân miền Tây bỏ xứ

Trung Quốc tích nước cho thủy điện, ĐBSCL chịu thiệt?

Mực nước sông Mêkông, con sông dài nhất Đông Nam Á - đã xuống thấp nhất trong vòng 50 năm, gây nhiều quan ngại. Hiện Mêkông được xếp vào danh sách 10 dòng sông có nguy cơ cạn kiệt trên thế giới. Vào thời điểm này, ĐBSCL đang vào mùa nước nổi, thế nhưng thực tế, miền Tây Nam Bộ của ta đói lũ... Có ý kiến cho rằng có phần trách nhiệm của các đập thủy điện Trung Quốc. Quan điểm của ông?

GS.TSKH. Phạm Hồng Giang, Chủ tịch Hội đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy hội Đập lớn Thế giới: Dư luận chung gần đây có xu hướng gắn thủy điện với tai họa. Nhưng thủy điện là loại năng lượng sạch. Một số quốc gia sử dụng thủy điện ở tỷ lệ khá cao, thậm chí  đến gần 100% điện năng. Trên thế giới, không có nơi nào có nguồn thủy năng mà lại bị  bỏ qua.

Phát triển thủy điện cũng có mặt trái của nó và ta phải tìm mọi cách để hạn chế. Cũng giống như dùng lửa vậy, không phải vì sợ cháy nhà mà chúng ta tuyệt đối không dùng lửa.

Nếu vận hành tốt, các hồ thủy điện còn giúp điều tiết lũ, giảm bớt hạn cho vùng hạ du. Tuy nhiên, giữa yêu cầu dùng điện và các yêu cầu khác có nhiều lúc xung đột. Hạn hán, lũ lụt có phần nào gay gắt thêm không phải do thủy điện mà do người vận hành thủy điện đã thiếu  cân nhắc các lợi ích khác trong quá trình vận hành nhà máy.

Đơn cử, trước mùa lũ, nếu hạ mực nước trong hồ chứa, để khi lũ về, trữ trong hồ rồi mới xả dần xuống hạ lưu, thì hồ đã tham gia cắt lũ. Thế nhưng, nếu chỉ nghĩ đến sản xuất điện, việc giữ mức nước thấp trong hồ sẽ làm giảm sản lượng điện. Các hồ chứa đều giữ ở mức nước nào, làm lợi cho thủy điện nhưng lại không an toàn cho đập. Nếu hồ đầy nước, khi lũ về, không chỉ xả lũ mà hồ chứa lại xả thêm để hạ bớt nước hồ cho an toàn đập làm tăng lũ ở vùng hạ du.

Ngược lại, trong mùa khô, các hồ thủy điiện trữ nước 'triệt để', nguồn nước hạ du cạn kiệt, làm hạn hán gay gắt thêm.

Lũ không về, nước chỉ lấp xấp trên các cánh đồng đầy cỏ. Ảnh: Trung Thanh

Sông Lan Thương (là đoạn sông Mêkông chảy trên lãnh thổ Trung Quốc) dài 2146km, từ cao nguyên Tây Tạng (tỉnh Thanh Đảo) ở  độ cao hơn 5000 m so với mực nước biển về tới Vân Nam để sang vùng hạ du chỉ có độ cao 3-400 m có tiềm năng thủy năng rất lớn, hơn 80% nguồn thủy năng của toàn sông Mekong.. Trong kế hoạch, Trung Quốc sẽ phát triển 14 đập trên dòng chính, trong đó 4 đập đã hoàn thành và đang thi công 4 đập khác. Các đập còn lại đang trong giai đoạn chuẩn bị và thiết kế.

Phát triển thủy điện trên dòng Mêkông không chỉ có Trung Quốc mà nhiều quốc gia  ven sông khác cũng đều muốn phát triển thủy điện trên lưu vực, bao gồm cả dòng chính và dòng nhánh.

Năm nay, ĐBSCL không có lũ, sản xuất và đời sống khó khăn. Nguyên nhân cần được nghiên cứu và phân tích thêm. Các đập của Trung Quốc có ảnh hưởng tới ĐBSCL nhưng không nhiều, vì đập ở  thượng nguồn ở khoảng cách khá xa ĐBSCL, hơn nữa lưu vực sông Mekong chỉ có 18% thuộc lãnh thổ Trung Quốc và tổng lượng nước chỉ chiếm 13%. Mùa khô năm nay trong khu vực gay gắt hơn mọi năm. Đương nhiên, tình trạng hạn trên dòng Mêkông cũng có tác động nhất định  từ việc tích nước của các hồ chứa ở Trung Quốc, nhất là hai hồ chứa lớn mới xây xong, lại bắt đầu tích nước vào đúng mùa khô.

Phát triển đập ở khu vực 3 nước hạ du khác là Thái Lan, Lào, Campuchia sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến ĐBSCL.

Qua nhiều năm hoạt động, Ủy ban sông Mêkông (MRC) đã nghiên cứu và đánh giá tác động thực của các đập, hồ chứa nước đối với khu vực hạ du như Việt Nam hay chưa?

Tư liệu của MRC khá đầy đủ ở nhiều lĩnh vực về tự nhiên và xã hội trong lưu vực. Nếu cần đánh giá dự án nào đó, MRC có đủ tư liệu để có  ý kiến. Tuy nhiên, ý kiến của MRC chỉ mang tính khuyến nghị, không có ràng buộc pháp lý quốc tế, còn quyết tâm thực hiện hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào quốc gia chủ nhà của con đập.

Hiện nay, thế giới vẫn chưa có được một luật về sông. Có lẽ đã đến lúc cộng đồng quốc tế cùng nhau xây dựng một Bộ luật về sông quốc tế.

Với sông Mêkông, năm 1995, các quốc gia thành viên đã kí kết Hiệp định Chiềng Rai về sông Mêkông. Theo Hiệp định, nguyên tắc cơ bản trong hợp tác giữa các quốc gia thành viên MRC là đồng thuận, bình đẳng và tôn trọng chủ quyền lãnh thổ. Các vấn đề liên quan hợp tác Mêkông luôn được xem xét và giải quyết bằng các quá trình tư vấn rộng rãi ở nhiều cấp. Nguyên tắc sử dụng nước công bằng và hợp lý của quốc tế cũng được áp dụng.

Đây là cơ sở pháp lý quan trọng và cho tới nay là duy nhất về tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực sông Mêkông để bảo vệ quyền lợi của nước hạ nguồn.

Yêu cầu tham vấn được đưa ra từ lâu, thế nhưng mới đây, lần đầu tiên Chính phủ một nước (Lào) đã gửi đề xuất lên MRC để tham khảo ý kiến về việc xây dựng đập trên dòng chính Mêkông, đập Xayaburi.

Đập Xayaburi là một trong những đập trong chuỗi 12 đập dự kiến xây dựng trên hạ nguồn sông Mêkông. Vừa qua, Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên cho rằng nên tạm hoãn, ít nhất trong 10 năm tới để có những đánh giá chính xác về tác động của chúng lên dòng sông. Theo tổ chức này, chỉ cần một trong số 11 con đập này được xây dựng cũng đủ để phá vỡ sự liên tục của hệ thống sinh thái hạ lưu sông, và gây nên nhiều tác hại chồng chất...

Đúng vậy. Dù lên án Trung Quốc phát triển các đập thủy điện trên dòng Mêkông nhưng chính Thái Lan và Lào cũng rất muốn khai thác thủy điện trên dòng chính.

Đặc biệt, Thái Lan rất quan tâm phát triển thủy điện ở Lào, để tránh việc ngập đất Thái Lan do các hồ đập và được hưởng điện từ Lào bán sang. Thái Lan có cổ phần lớn ở hầu hết các dự án thủy điện của Lào.

Sự cân nhắc của các quốc gia đó có nhiều lý do, tính toán lợi hại, lo huy động vốn, nghe ngóng dư luận quốc tế, .. Cũng có thể còn lý do nữa là nếu họ khai thác sẽ khó đòi hỏi Trung Quốc quan tâm đến hạ du. Trong khi đó, đấy là những quốc gia  sẽ chịu thiệt lớn nhất và đầu tiên từ việc Trung Quốc xây dựng các đập lớn trên sông Mêkông.

Với Việt Nam, chúng ta không được hưởng lợi gì từ việc phát triển thủy điện trong dòng chính Mêkông. Nếu dừng các dự án xây đập thủy điện trên sông Mêkông thì là điều tốt.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng nên tham gia một số dự án thủy điện ở Lào để có thể một mặt để mua điện, phục vụ nhu cầu trong nước, mặt khác sẽ  có thêm tiếng nói trong quá trình vận hành nhà máy. Nếu Việt Nam không tham gia thì nước khác cũng vào làm. Việt Nam có thể bị 'chậm chân'.

Không chịu tác động nhiều từ việc Trung Quốc xây dựng các đập lớn, vậy Việt Nam lo điều gì thưa ông?

Việc xây dựng các đập sẽ ảnh hưởng đến môi trường, dòng chảy và thủy sản. Người ta nhắc nhiều đến thiệt hại sinh trưởng của cá.  Ở nhiều nước, cùng với việc xây dựng hệ thống đập thủy điện, người ta đầu tư làm đường riêng cho cá đi qua đập. hạng mục này khá tốn kém nên thường bị 'lờ đi'. Không thấy đề cập tới điều này ở các đập trên sông Mêkông,.

Vấn đề chuyển nước từ sông Mêkông sang lưu vực khác cũng là nguy cơ. Mỗi quốc gia đều có những dự định riêng với qui mô khác nhau.

Hiện nay, Trung Quốc đã thực hiện chuyển nước từ miền Trung  lên miền Bắc, đáp ứng nhu cầu nước cho sự phát triển miền này, trong đó có các đô thị lớn như Bắc Kinh, Thiên Tân. Công trình chuyển được đánh giá là "vạn lý trường thành" về nước đang được triển khai tích cực. Tôi đã có dịp tham quan công trường xây dựng các tunen rất lớn dưới đáy sông Hoàng Hà.

Nước ở sông Dương Tử, miền Trung Trung Quốc đang dồi dào, đủ đáp ứng yêu cầu hiện tại. Nhưng có thể sẽ đến lúc không đủ nước nữa. Trong khi đó, có đoạn ở Vân Nam, sông Dương Tử và sông Lan Thương (tên đoạn sông Mêkông chảy trên lãnh thổ Trung Quốc) chỉ cách nhau 60-70 km. Với kĩ thuật hiện nay, việc tạo đường hầm nối thông hai sông này tại đó không quá khó trong điều kiện hiện nay.

Thái Lan có yêu cầu sử dụng nước sông Mêkong để tưới cho vùng Đông Bắc và chuyển nước sang sông Chao Phraya phía nam đáp ứng nhu cầu nước ở Băng Cốc. Nước ngầm vùng này hạ thấp do bị khai thác quá mức và vì vậy cần được tiếp thêm nước.

Đương nhiên, việc chuyển nước nếu có thì chỉ xảy ra vào mùa khô và sẽ là mối nguy lớn với khu vực hạ nguồn Mêkông, nhất là ĐBSCL của Việt Nam.

Ngày 23/09 vừa qua, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ đã tổ chức phiên điều trần về kế hoạch xây dựng những con đập thủy điện trên hạ nguồn Mêkông sau khi Lào bày tỏ ý định thúc đẩy dự án đập Xayaburi.  Trong vài ngày tới, Hội nghị Cấp cao Mêkông - Nhật Bản và gặp gỡ cấp Bộ trưởng giữa Mỹ và các nước tiểu vùng sông Mêkông sẽ được tổ chức tại Hà Nội.  Ông lý giải như thế nào về mối quan tâm này?

Những  diễn biến trong lưu vực sông Mêkông từ lâu đã thu hút được mối quan tâm của giới chuyên gia nghiên cứu và dư luận thế giới, kể cả những nước ở ngoài lưu vực sông.

ĐBSCL là vựa lúa lớn, quan trọng ở Đông Nam Á góp phần đảm bảo an ninh lương thực thế giới. Thái Lan cũng là nước sản xuất lương thực lớn. Thế giới đang lo đối mặt với nguy cơ mất an ninh lương thực. Sông Mêkông càng được quan tâm.

Ủy ban sông Mêkông (MRC) tuy chỉ có 4 quốc gia thành viên Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan, nhưng từ lâu đã có tính quốc tế cao Hoạt động của MRC không giới hạn trong sự tham gia của 4 nước hạ nguồn đó mà rất nhiều nguồn  tài trợ  và chuyên gia đã đến từ các quốc gia khác, trong đó có Mỹ và châu Âu.

Từ hơn 10 năm trước, Nhật Bản đã quan tâm và hợp tác về vấn đề sông Mêkông. Vào thời điểm ấy, tôi là Thứ trưởng phụ trách công tác Mêkông của Việt Nam đã cùng với đại diện các quốc gia ven sông họp với Nhật Bản về hợp tác phát triển  bền vững sông Mêkông.

Vì thế, có thể nói việc họp Hội nghị cấp cao Mêkông - Nhật Bản hay cấp cao Mêkông - Mỹ đã được đề cập đến từ nhiều năm nay.

Liệu người ta có thể kì vọng gì từ sự tham gia của các cường quốc này trong hợp tác khu vực sông Mêkông?

Vấn đề sông Mêkông rất cần cơ chế cấp cao để thảo luận. MRC chỉ ở cấp cao nhất là Bộ trưởng các Bộ liên quan đến nguồn nước, do đó, có bàn cũng chỉ bàn được chuyện nước. Trong khi đó, vấn đề sông Mêkông không đơn giản chỉ là câu chuyện nước. Cần đặt nó trong sự hợp tác tổng thể trong chiến lược hợp tác và phát triển chung. Như thế, việc hợp tác Mêkông sẽ thuận hơn.

Việc tham gia của các cường quốc các quốc gia khác ngoài khu vực sẽ có tác dụng nhất định thúc đẩy đối thoại, hợp tác giữa các nước MRC với nhau cũng như với Trung Quốc.

Theo tôi biết thì Trung Quốc có quan niệm sông chỉ có tính quốc gia, không có khái niệm sông quốc tế. Hầu hết các sông lớn ở Đông Á, Đông Nam Á và Nam Á đều bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng. Những sông chảy về phía đông trong lãnh thổ Trung Quốc. Lãnh thổ Trung Quốc là thượng nguồn của các sông còn lại. Do đó, Trung Quốc ít có nhu cầu hợp tác với quốc gia khác đối với các sông đó.

Trung Quốc không tham gia MRC, dù đã được mời nhiều lần, có lẽ vì không muốn bị ràng buộc từ các yêu cầu của phía hạ du.

Sự quan tâm của thế giới, khu vực đối với sông Mêkông sẽ góp phần mở rộng đối thoại và hợp tác trong toàn lưu vực Mêkông. Ngay cả giữa các quốc gia hạ du Mekong cũng còn nhiều vấn đề tranh luận với nhau và tiếng nói của quốc tế cũng giúp sớm đi đến nhất trí.

Năm ngoái, lần đầu tiên sau 15 năm thành lập, MRC tổ chức Hội nghị cấp cao với sự tham dự của Thủ tướng các quốc gia thành viên và đoàn đại biểu cấp cao Trung Quốc, Myanmar (với tư cách là quan sát viên).

 

**Giới tài phiệt chi phối dòng nước Mekong?

 

"Những thế lực tư nhân, thế lực tài phiệt đang định hình việc sử dụng tài nguyên nước ở sông Mekong. Các lợi ích sẽ không vào tay nhân dân Lào, nhân dân Việt Nam, nhân dân Thái Lan mà sẽ đi vào túi của họ", GS.TSKH. Nguyễn Ngọc Trân nhận định.

Muốn đủ điện, Việt Nam cần 23 dòng Mekong!
 

Điện hiện tại là một nhu cầu rất cấp thiết đối với VN nói riêng, và các quốc gia hạ lưu sông Mekong nói chung. Thời gian gần đây, đặc biệt từ 2007, trong phạm vi của 4 quốc gia tham gia hạ lưu khu vực sông Mekong rộ lên vấn đề phát triển thủy điện. Đến nay đã có 12 dự án đề xuất xây dựng đập thủy điện trên dòng chính trên lãnh thổ Thái Lan, Lào và Campuchia.

Vậy khai thác thủy điện trên hạ lưu Mekong có giúp giải quyết nhu cầu điện cấp bách về điện hiện nay của Việt Nam cũng như mang lại lợi ích kinh tế lớn cho VN?

Theo nghiên cứu của Ủy hội sông Mekong mà ông Jeremy Carew-Reid - chuyên gia biến đổi khí hậu - trình bày trong hội thảo thì các con đập trên dòng chính của hạ lưu sông Mekong có thể bổ sung thêm 11% khối lượng điện cần có ở hạ lưu sông Mekong từ năm 2015 đến năm 2025.

Đối với riêng Việt Nam thì đến năm 2025, các dự án này sẽ đáp ứng được 4,4% nhu cầu năng lượng quốc gia. Căn cứ theo con số trên, chúng ta phải có tới... 23 con sông Mekong mới đủ đáp ứng tổng nhu cầu.

Về mặt lợi ích năng lượng thu được từ thủy điện dòng chính đối với VN cũng chỉ là 5%. Vì vậy có thể thấy thủy điện dòng chính ít có ý nghĩa quan trọng đối với ngành năng lượng của VN, tác động về mặt hạ giá thành điện của chúng cũng chỉ thấp hơn 1,5%.

Trong khi đó, tác động của việc khai thác thủy điện Mekong là một tác động tổng thể, đối với cả mặt kinh tế, xã hội cũng như môi trường sinh thái, và là tác động đa quốc gia. Là một quốc gia nằm ở hạ lưu, nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam sẽ còn phải chịu tác động lớn hơn từ những dự án khai thác này.

Trước hết là đối với vấn đề trầm tích phù sa. Từ trước tới nay, VN vốn bị các nước thượng lưu "ghen tị" vì được hưởng lượng trầm tích phù sa rất lớn do ở hạ nguồn, điều này đã tạo nên vựa lúa Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) trù phú.

Vấn đề chuyên chở phù sa rất quan trọng với VN. Nếu xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính Mekong, phù sa thô, trung bình sẽ lắng đọng hết ở các hồ chứa, không về VN. Phù sa mịn cũng như các chất dinh dưỡng đến được ĐBSCL cũng sẽ chỉ còn khoảng 25% so với hiện nay, nghĩa là giảm tới 75%.

Về thủy sản - một nguồn lợi quan trọng của "niêu cơm" ĐBSCL - nếu tất cả các đập ở dòng chính và dòng nhánh được vận hành thì sẽ mất khoảng 42% sản lượng cá, thủy sản hiện nay, đập ở dòng chính sẽ làm thiệt hại 17% sản lượng. Đó là mới tính sản lượng cá, chưa kể việc mất các loài này loài, biến đổi hệ sinh thái của khu vực.

Nguy cơ lớn nhất là việc các con đập cùng xả nước. Theo ông Jeremy: khi các đập nước vận hành đỉnh điểm "có thể tăng mạnh tốc độ và lúc đó các mức nước sẽ tăng cao và các dao động mức nước theo các sự kiện theo mùa cho đến hàng ngày, thậm chí hàng giờ. Có tiềm năng sẽ có các đỉnh mức nước hàng giờ cao tới 3-6m ở các thị trấn và các làng bản nằm cách xa 40-50km dưới hạ lưu".

Không những vậy, trong trường hợp xả lũ không có kế hoạch hoặc khẩn cấp, các sự kiện đỉnh mức nước có thể còn lớn hơn và có thể trong 1-2 tiếng chảy rất xa xuống hạ lưu, có ít thời gian để thông báo. Việc các đập nước xả đột ngột ở các vùng địa chấn yếu sẽ gây nên động đất.

Có thể thấy những lợi ích của xây dựng thủy điện trên Mekong là quá nhỏ so với tác động tổng thể về mọi ngành nghề kinh tế kinh tế, cũng như toàn bộ hệ sinh thái: sự dịch chuyển nhanh, khó tiên đoán của ranh giới mặn, ô nhiễm, biến đổi khí hậu, phá rừng...

Chưa kể việc mua điện còn khiến chúng ta có thể bị động trong trường hợp nước bán điện có biến động. Chuyên gia nghiên cứu độc lập Ths.Nguyễn Hữu Thiện đã dẫn chứng trường hợp từng xảy ra ở Chile năm 2001: Argentina ngưng cung cấp gas cho Chile khi trong nước bị thiếu.

Cái hại đã nhãn tiền, nhưng và liệu phần lợi ích từ phát triển thủy điện có đền bù được?

Thế lực tài phiệt chi phối?
 

Xét lợi ích của các quốc gia trong việc xây dựng thủy điện tại hạ lưu sông Mekong, Lào sẽ là quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất. Dân số ít, nhu cầu năng lượng thấp, trong khi tiềm năng thtn sản xuất ra của Lào sẽ chủ yếu dành cho xuất khẩu. Tham vọng của Lào là trở thành nguồn pin cho cả Đông Nam Á.

"Nếu tất cả 12 thủy điện dòng chính được triển khai thì Lào sẽ thu được 70% nguồn thu từ xuất khẩu thủy điện (2,6 tỷ USD/ năm)" - Ông Jeremy cho biết. Tuy nhiên, với tiềm lực kinh tế hiện tại của mình, bản thân Lào không thể xây dựng các công trình thủy điện nếu không có các nhà đầu tư tư nhân.

Vì vậy, trong giai đoạn nhượng quyền khai thác thủy điện, phần lớn các lợi ích đối với Lào không sinh lời cho đất nước và chính phủ nước này, mà sẽ rơi vào "túi" các nhà phát triển, các nhà tài chính của các dự án đó.

Tình trạng tương tự cũng đúng với các khoản thu xuất khẩu. Chỉ đến sau giai đoạn nhượng quyền khai thác (có thể là 25 năm), việc sở hữu dự án mới được chuyển giao cho các nước sở tại và bắt đầu sinh lời cho các nước này.

Từ thực tế này, các chuyên gia dự báo xảy ra nguy cơ lợi ích nhóm có thể xảy ra đối với bất kể công trình thủy điện do nước nào tiến hành.

"Những thế lực tư nhân, thế lực tài phiệt đang định hình việc sử dụng tài nguyên nước ở sông Mekong. Và nếu họ làm được ở Việt Nam được thì họ cũng làm được ở Thái Lan, Campuchia.v.v... Các lợi ích sẽ không vào tay nhân dân Lào, nhân dân Việt Nam, nhân dân Thái Lan mà sẽ đi vào túi của họ", GS.TSKH. Nguyễn Ngọc Trân nhận định.

Nhìn nhận từ khía cạnh này, đại biểu quốc hội Kỹ Quang Vinh của Cần Thơ đặt vấn đề: "Chúng ta có thể đặt cuộc sống, sinh mạng của 20 triệu dân ĐBSCL dưới bàn tay đóng mở nắp của một số tập đoàn tư nhân hay không?".

Tham gia làm thủy điện, Việt Nam sẽ "khó ăn khó nói"

Đứng trước các nguy cơ và thách thức quá lớn của các dự án thủy điện tại hạ lưu sông Mekong, tại buổi Đối thoại chính sách "Phát triển đập thủy điện trên sông Mekong và thách thức đối với VN", các đại biểu đều tán đồng ý kiến nên hoãn dự án lại 10 năm. Trong thời gian đó chúng ta sẽ có những nghiên cứu, bàn thảo, đánh giá tác động cụ thể và chính xác để đi đến quyết định cuối cùng.

"Việt Nam cần đi đầu đưa ra những tuyên bố mạnh mẽ, Quốc hội sẽ xem xét vấn đề này, và có các phiên điều trần, họp cụ thể. Trong thời gian trì hoãn, không có công ty Việt Nam nào tham gia đầu tư", ông Jeremy đề xuất.

Nếu Việt Nam có thái độ không dứt khoát và tham gia các dự án thủy điện này, thì khi có vấn đề xảy ra chúng ta sẽ ở thế "khó ăn khó nói", khó có thể đấu tranh cho quyền lợi của mình.

Bản thân Việt Nam có lợi thế riêng trong việc này. Vì có tới 96% nhu cầu điện đến năm 2025 bắt nguồn từ Thái Lan và Việt Nam - và cả hai nước có khả năng cần mua đến 90% lượng điện sản xuất ra từ dòng chính. Nếu Thái Lan và Việt Nam quyết định không mua lượng điện này thì các dự án - tất cả đều được thiết kế để xuất khẩu - sẽ có khả năng không thể tiếp tục được.

Tuy nhiên, cũng phải xác định rõ, vấn đề thủy điện trên dòng chính Mekong là vấn đề chung của các nước, trong khi hiện nay Ủy hội sông Mekong mới chỉ có 4 thành viên tham gia: Lào, Thái Lan, Campuchia, VN. Trung Quốc và Myanmar là 2 nước nằm trong lưu vực chiếm vị trí quan trọng nhưng lại chỉ tham gia với tư cách đối thoại.

Có một hiện tượng mà giáo sư Trân gọi là "Đồng sàng dị mộng" giữa các quốc gia: chung dòng sông Mekong nhưng mỗi quốc gia trong cùng hệ thống sông Mekong lại đặt lợi ích của mình lên trên.

Đứng trước thách thức trên, đề xuất các đại biểu đưa ra là cần thuyết phục để các nước nhìn nhận được lợi ích của việc "hợp tác cùng phát triển" để tham gia và chia sẻ. Khai thác tài nguyên nước tại một quốc gia, lưu vực phải kèm theo trách nhiệm với tất cả các thay đổi trong toàn lưu vực do khai thác này gây ra, cả kinh tế, xã hội, hợp tác cùng phát triển. Số liệu khí tượng thủy văn phải được chia sẻ ở toàn lưu vực, tất cả là rất cần thiết để quản lý các rủi ro trong toàn lưu vực.

Thêm vào đó chúng ta cần phát huy các vai trò quốc tế của VN hiện nay. "Chúng ta ở trong ASEAN, và chúng ta lại có cơ chế ASEAN+ , cộng Mỹ, cộng Nga, cộng Trung Quốc vào và chúng ta sẽ có một vị trí trong ASEAN" - ông Nguyễn Đình Xuân - đại biểu quốc hội Tây Ninh nói.

Ngoài ra chúng ta cũng cần tận dụng tầm quan trọng của vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long. Vấn đề đồng bằng Sông Cửu Long là vấn đề toàn cầu, vì đây ko phải là vựa lúa của riêng Việt Nam. Việt Nam hiện xuất khẩu 1/5 - 1/4 lượng lúa gạo thế giới. Trong tình hình lúa gạo thế giới khan hiếm do biến động khí hậu, người ta phải thấy nếu làm ảnh hưởng đến ĐBSCL thì sẽ ảnh hưởng toàn cầu.

Tận dụng phù hợp các vai trò ảnh hưởng quốc tế này, Việt Nam sẽ có cơ hội xử lý những thách thức do dự án thủy điện dòng chính Mekong đặt ra.

Tuần Việt Nam

        ©          http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org   Nguyễn Ngọc Trân