
Tàn phá rừng: một hành vi phá hoại môi
trường
Có mặt rất sớm ở Hy Lạp trong tác phẩm của Aristotle (384-322 trước công
nguyên), Đạo đức học (ethics) cũng gọi là luân lý học hay triết học về
luân lý (moral philosophy); ngày nay nó thường được phân ra làm ba “bộ
phận”, trong đó bộ phận thứ ba là đạo đức học ứng dụng (applied ethics).
Đạo đức học ứng dụng khảo sát các vấn đề cụ thể như: phá thai, sát hại
trẻ em (infanticide), quyền lợi của thú vật, quan hệ tính dục đồng giới,
tội tử hình, chiến tranh nguyên tử, v.v... Như vậy, thay vì chỉ là những
nguyên tắc chung chung hướng dẫn hành vi con người, từ rất lâu xã hội đã
đặt ra yêu cầu đạo đức cho một số ngành nghề cụ thể. Chẳng hạn, người
thầy thuốc thì có y đức (medical ethics), người hoạt động trên thương
trường thì có đạo đức kinh doanh (business ethics). Trước kia, các
trường Sư phạm tại miền Nam còn giúp giáo sinh trau giồi đạo đức nhà
giáo qua một môn học gọi là Luân lý chức nghiệp...
Đạo đức học ứng dụng tiếp tục phát
triển thêm khi mà con người từ nửa sau thế kỷ 20 lại phải bận tâm đến
vấn đề môi trường. Thực vậy:
–
Trong thời đại ngày nay, con người đang tự mình không ngừng phá hủy môi
trường sinh sống của chính mình. Chất thải độc hại làm ô nhiễm các nguồn
nước trên mặt đất, những sự cố tràn dầu phá hủy các vùng biển, các loại
chất đốt như dầu hỏa, than đá, khí đốt (fossil fuels) thải ra carbon
dioxide làm gia tăng hiệu ứng nhà kính, và việc dùng khí fluorocarbon
làm hỏng tầng ozone bảo vệ trái đất... Ngần ấy thứ chỉ mới là một vài
thí dụ hiển nhiên, quen thuộc đến mức không thể phủ nhận.
– Với tiến bộ khoa học kỹ thuật vượt
bực, các tập đoàn kinh tế khổng lồ ở quy mô đa quốc gia không ngừng tìm
mọi cách gia tăng quy mô sản xuất để càng tăng nhanh quá trình vắt cạn
kiệt nguồn tài nguyên không hề là vô tận của trái đất. Đồng thời các
chương trình quảng cáo đồ sộ đã không ngừng khuyến khích con người mặc
sức tiêu dùng, gia tăng ham muốn lãng phí... Các tập đoàn kinh tế đó
càng giàu lên bội lần thì trái đất càng suy kiệt đi vạn bội lần. Chua
chát thay, điều đó có thể là một nhân tố quan trọng góp phần phá hoại
môi trường một cách trầm trọng nhưng hầu như rất ít người thấy rằng nó
là hiểm họa giấu mặt.
– Chiến tranh, đặc biệt là mấy cuộc
chiến cuối thế kỷ qua và ngay đầu thế kỷ này đã dùng tới những vũ khí
tối hiện đại, cực kỳ đắt giá. Các vũ khí này vừa sát hại sự sống hàng
loạt nhanh hơn và tàn khốc hơn, vừa tàn phá dữ dội môi trường sinh thái
trên quy mô rất lớn với ảnh hưởng di hại lâu dài vài chục năm trở lên!
Vì vậy, mấy thập niên gần đây đã có tương
đối khá nhiều lương tâm trong sáng của nhân loại cùng đồng thanh lên
tiếng kêu gọi, thức tỉnh con người phải có trách nhiệm đối với môi
trường. Trách nhiệm đối với môi trường chính là nền tảng đạo lý của con
người, nhằm hướng con người quan tâm tới môi trường mình đang sống, và
phải có ý thức trách nhiệm đối với sự sinh tồn của cái hành tinh đang
dưỡng nuôi và dung chứa con người.
Thế là ngoài các ngành đạo đức học ứng dụng hiện có, đã phát sinh nhu
cầu cấp thiết phải thành lập thêm một ngành đạo đức học ứng dụng mới,
dành cho tất cả những ai đang sống trên hành tinh. Đạo đức học môi
trường (environmental ethics) dần dần hình thành. Thực ra, lúc đầu,
người ta chưa xác lập một thuật ngữ chính thức làm tên gọi cho chuyên
ngành quá mới mẻ này, nhưng cuối cùng đã thống nhất sử dụng thuật ngữ
Environmental Ethics, mượn nguyên văn tên gọi tập san Environmental
Ethics do Eugene C. Hargrove sáng lập năm 1979. Trong quá trình hình
thành chuyên ngành mới này, đã có sự “đan xen” tự nhiên giữa triết học
và tôn giáo, để rồi ngày nay tôn giáo và đạo đức học môi trường là một
mối quan hệ được các giới triết học, khoa học và tôn giáo, v.v... cùng
quan tâm khảo sát.
Phần trình bày sau đây trước hết nhằm vạch lại mấy điểm mốc chính trong
quá trình hình thành mối quan hệ ấy.
* * *
Ngay từ lúc manh nha những ý tưởng đầu
tiên về Đạo đức học môi trường trong thập niên 60 của thế kỷ 20, các nhà
khoa học hoạt động bảo vệ môi trường đã sớm kêu gọi các nhà triết học
hãy nhập cuộc. Nhưng chính các nỗ lực đầu tiên nhằm khai phá lãnh vực
mới mẻ này lại mang tính sử học, thần học và tôn giáo.
Quá trình hình thành ngành Đạo đức học
môi trường trong nửa sau thế kỷ 20 có một số sự kiện ý nghĩa được khái
quát như sau:
1. THẬP NIÊN 60
Một
bầu không khí trí thức đã phát triển trong mấy năm cuối của thập niên 60
phần lớn vì tập san Science (Khoa học) đăng hai bài báo sau đây:
–
1967: bài “The Historical Roots of our Ecologic Crisis – Căn cội
lịch sử cuộc khủng hoảng sinh thái của chúng ta” của Lynn White (số
tháng 3.1967).
–
1968: bài “The Tragedy of the Commons – Bi kịch của chúng dân”
của Garett Hardin (số tháng 12.1968).
Tuy
nhiên, gây ảnh hưởng nhất trong tư duy về lãnh vực này là một tiểu luận
của Aldo Leopold đăng trên niên giám A Sand County Almanac, nhan
đề “The Land Ethic – Đạo đức về đất”. Trong bài viết này Leopold
khẳng định rằng căn cội cuộc khủng hoảng sinh thái thuộc về lãnh vực
triết học.
2. THẬP NIÊN 70
–
1970:
Ngày
trái đất (the Earth Day) lần thứ nhất tổ chức năm 1970 đã là nguồn cảm
hứng cho ngành Đạo đức học môi trường ra đời. Khi ấy các nhà môi trường
học bắt đầu thúc giục các nhà triết học có tham gia vào hoạt động của
các nhóm bảo vệ môi trường hãy làm một điều gì đó cho Đạo đức học môi
trường.
Trong thập niên 70 diễn ra những tranh luận
về luận điểm của Lynn White và về “bi kịch của chúng dân”. Các tranh
luận này ban đầu mang tính sử học, thần học và tôn giáo, không mang tính
triết học.
Gần suốt thập niên này các nhà triết học ở
ngoài cuộc tranh luận, họ quan sát và cố xác định xem cái lãnh vực được
gọi là Đạo đức học môi trường có thể mang một diện mạo ra sao.
–
1972:
a.
William Blackstone tổ chức một hội nghị triết học đầu tiên tại Viện đại
học Georgia.
b.
John B. Cobb xuất bản “Is It Too Late? A Theology of Ecology – Có
quá muộn màng không? Một nền thần học về sinh thái”. Lần đầu tiên có một
tác giả viết hẳn một quyển sách về lãnh vực này. Tác giả lại là nhà
triết học mặc dù sách tập trung vào thần học và tôn giáo.
–
1973:
Tại
Hội nghị Triết học Thế giới lần thứ 15, một nhà triết học người Úc là
Richard Routley trình bày một tham luận nhan đề “Is There a Need for
a New, an Environmental, Ethic? – Có cần không một nền đạo đức mới,
đạo đức môi trường?”
–
1974:
a.
Sau Richard Routley, một người Úc khác là John Passmore viết quyển
Man's Responsibility for Nature (Trách nhiệm con người đối với thiên
nhiên), trong đó ông chống lại Routley, bảo rằng con người chẳng cần chi
đến một nền đạo đức môi trường.
Phần
lớn sự tranh cãi trong giới triết học cho tới giữa thập niên 80 tập
trung vào việc chứng minh rằng Passmore đã sai lầm.
b.
Các bản tham luận trong hội nghị triết học đầu tiên tại Viện đại học
Georgia do William Blackstone tổ chức năm 1972 được in thành quyển
Philosophy and Environmental Crisis (Triết học và cuộc khủng hoảng
môi trường).
–
1975:
Đạo
đức học môi trường trở thành mối quan tâm của triết học khi Holmes
Rolston đệ Tam cho đăng trên tập san Ethics (Đạo đức học) bài
viết “Is There an Ecological Ethic? – Có một nền đạo đức sinh
thái không?”
–
1979:
Trước kia, một nhà triết học người Na Uy là Arne Naess làm chủ biên sáng
lập tập san Inquiry (Truy vấn). Suốt thập niên 70 Inquiry là tập
san triết học đầu tiên giải quyết vấn đề đạo đức học môi trường. Bấy giờ
đạo đức học môi trường thường bị coi là một sự hiếu kỳ và các tập san
triết học mỗi năm cũng chỉ đăng một bài về lãnh vực này.
Những cơ hội đăng tải được phát triển ngoạn mục vào năm 1979 khi Eugene
C. Hargrove thành lập tập san Environmental Ethics (Đạo đức học
môi trường). Tên gọi tập san đã trở thành tên gọi cho lãnh vực này.
Robin Attfield, một nhà triết học xứ Wales, viết quyển The Ethics of
Environmental Concern (Đạo đức học về nỗi lo môi trường). Đây là sự
trả lời “dài hơi” đầu tiên dành cho Passmore, tác giả quyển Man's
Responsibility for Nature (Trách nhiệm con người đối với thiên
nhiên, 1974), vì Passmore đã cho rằng đạo đức môi trường là không cần
thiết.
Donald Scherer và Tom Attig chủ biên hiệp tuyển Ethics and the
Environment (Đạo đức học và môi trường).
3. THẬP NIÊN 80
–
1988:
Đánh
dấu một bước ngoặt khi bắt đầu xuất hiện thêm nhiều quyển sách do một
tác giả đứng tên:
a.
Respect for Nature (Tôn trọng thiên nhiên) của Paul Taylor;
b.
Environmental Ethics (Đạo đức học môi trường) của Holmes Rolston;
c.
Foundations of Environmental Ethics (Những cơ sở của đạo đức học
môi trường) của Eugene C. Hargrove; và
d.
In Defense of the Land Ethic (Bảo vệ đạo đức về trái đất), một
tuyển tập các bài viết của J. Baird Callicott, v.v...
–
1989:
Trong thập niên 80 ở Canada ra đời tập san chuyên về sinh thái mang tên
The Trumpeter (Người loan tin).
Năm
1989 có thêm một ấn phẩm về môi trường có tính phổ thông hơn là quý san
Earth Ethics Quarterly (Đạo đức học trái đất, ba tháng một số).
Ngày nay nó là ấn phẩm của The Center for Respect for Life and
Environment (Trung tâm tôn trọng sự sống và môi trường).
4. THẬP NIÊN 90
–
1992:
Sau
quý san Earth Ethics Quarterly (Đạo đức học trái đất, 1989), một tập san
triết học thứ hai chuyên về đạo đức học môi trường đã ra số đầu tiên ở
Anh với tên gọi Environmental Values (Các giá trị môi trường).
–
1996:
Thêm
một tập san mới được Viện đại học Georgia xuất bản mang tên Ethics
and the Environment (Đạo đức học và môi trường). Năm 2001, tập san
này trở thành một ấn phẩm của Nhà xuất bản Viện đại học Indiana.
–
1997:
Trong thập niên 90 The International Society for Environmental Ethics
(Hội đạo đức học môi trường quốc tế) được thành lập, chủ yếu do nỗ lực
của Laura Westra và Holmes Rolston đệ Tam. Ngày nay hội này có hội viên
khắp thế giới.
Đến
năm 1997, một đoàn thể thứ hai có tính quốc tế được thành lập mang tên
The International Association for Environmental Philosophy (Hội
triết học môi trường quốc tế).
* * *
Điều đáng lưu ý là bất chấp các nỗ lực
trí tuệ đầy lương tri diễn ra trong khoảng bốn mươi năm như thế, bất
chấp các công ước quốc tế về vấn đề môi trường, bất chấp các tổ chức phi
chính phủ đang ra sức tìm mọi cách ngăn cản sự tàn hại môi trường,
v.v... nhiều tập đoàn kinh tế đa quốc gia cũng như những nước công
nghiệp lớn mạnh trên hoàn cầu cho tới nay vẫn tiếp tục ngang nhiên và cố
tình phá hủy hành tinh này trên quy mô ngày càng rộng để thỏa mãn lợi
ích riêng, tham vọng riêng ngày càng lớn!
Khi tham vọng và quyền lực càng lấn át
lương tri, thì sinh mệnh của trái đất càng bị đe dọa thảm thương hơn bao
giờ hết. Đối diện với thực trạng phũ phàng này, đã có lúc các nhà triết
học và các nhà bảo vệ môi trường thế giới cảm thấy gần như tuyệt vọng và
bất lực. Thế rồi người ta nghĩ tới tôn giáo.
Như Charles Wells đã nói: “We can
only change the world by changing men. – Chúng ta chỉ có thể thay
đổi thế giới bằng cách thay đổi con người.” Giáo lý các tôn giáo chân
chính đều có chung một mục đích là cải tạo con người cho hoàn thiện hoàn
mỹ. Nhiều tôn giáo đề cao con đường nhập thế, đem đạo giúp đời. Vì vậy
khi nghĩ đến sự trợ giúp của tôn giáo, các nhà khoa học hy vọng rằng khả
năng giáo dục luân lý của tôn giáo có thể tác động hiệu quả vào tâm thức
con người, sửa đổi hành vi con người, hướng dẫn con người sống có ý thức
trách nhiệm bảo tồn một hành tinh xanh trường cửu cho chính con người.
Ý tưởng tìm cách giải quyết vấn đề môi
trường theo góc cạnh tôn giáo vào cuối thế kỷ 20 mới nảy sinh phải chăng
là trở lại vấn đề mà John B. Cobb đã nghĩ tới vào đầu thập niên 70? (Năm
1972 Cobb xuất bản “Is It Too Late? A Theology of Ecology – Có
quá muộn màng không? Một nền thần học về sinh thái.)
Trong cố gắng tìm đến giải pháp tôn
giáo cho vấn đề đạo đức môi trường, một loạt hội nghị quốc tế về Các Tôn
giáo Thế giới và Sinh thái (The Religions of the World and Ecology)
kéo dài trong hơn ba năm (1996-1998) do Trung tâm Nghiên cứu các Tôn
giáo Thế giới (CSWR) của Viện đại học Harvard (Harvard University
Center for the Study of World Religions) chủ trì thực hiện với sự
đồng bảo trợ của Viện đại học Bucknell và Trung tâm Tôn trọng Sự sống và
Môi trường (Center for Respect for Life and Environment).
Từ đầu tháng 5.1996 tới cuối tháng
10.1998, loạt hội nghị này đã có sự tham gia trực tiếp và cộng tác của
khoảng 700 học giả, lãnh tụ tôn giáo và các chuyên gia môi trườøng của
nhiều nước. Phật giáo, Nho giáo, Thần đạo Nhật Bản, Ấn giáo, Do Thái
giáo, Ki Tô giáo, Hồi giáo, Đạo giáo (Lão giáo), Kỳ na giáo (Jainism),
v.v... đã có tiếng nói tại diễn đàn hội nghị.
* * *

Chúng ta tàn phá
môi trường và con cháu chúng ta sẽ lãnh
hậu quả
Đạo đức học môi trường có lẽ vẫn còn
là một chuyên ngành khá mới mẻ đối với phần lớn nhân loại thậm chí ở vào
đầu thiên niên kỷ thứ ba. Cho nên chẳng trách tại Việt Nam ngày nay, tuy
vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng tỏ ra bức thiết thế mà đạo đức học
môi trường vẫn chưa phải là lãnh vực quen thuộc, và nếu không lầm thì
dường như chưa có nhiều người quan tâm đến khả năng và vai trò của tôn
giáo trong mặt trận bảo vệ môi trường, một mặt trận rõ ràng không cân
sức giữa một bên là luật pháp Nhà nước và một bên là sự nghèo đói, lòng
tham lam và thói vô trách nhiệm.
Việt Nam là nước mà đồng bào có tôn giáo
chiếm số lượng không nhỏ. Liệu rằng các nguyên tắc luân lý sẵn chứa
trong giáo lý các tôn giáo đang hiện hữu ở Việt Nam thực sự có nhiều khả
năng góp phần thay đổi nếp nghĩ và hành vi người dân để từ đó môi trường
sẽ được tôn trọng và bảo vệ tốt hơn không? Tức là, vấn đề bảo vệ môi
trường thay vì chỉ thụ động là một bó buộc trách nhiệm do tác động ngoại
lai (external compulsion), thì nó sẽ mang tính chủ động là một tự giác ý
thức trách nhiệm phát sinh tự nhiên từ nội tâm (internal impetus) của
mỗi người dân. Ở đây, sự khác nhau rất rõ:
Khi xem bảo vệ môi trường là áp lực cưỡng
bách ngoại lai, người ta dễ dàng và sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn “qua mặt”
nếu người ta có thể tranh thủ và lợi dụng tình thế, hoàn cảnh... Phá
rừng hàng loạt do sự cấu kết giữa lâm tặc và phần tử chức trách tiêu
cực, thoái hóa là một minh chứng.
Nhưng khi bảo vệ môi trường là thôi thúc tự
nhiên trong tâm hồn, thì dù cho đang “khuất mắt” thiên hạ và đang lẻ loi
đơn chiếc, người ta cũng không dám làm hại môi trường. Đơn giản vì người
ta ý thức rằng bản thân mình là một phần của vũ trụ, rằng con người là
vũ trụ vi mô (microcosmos) có tương quan ảnh hưởng mật thiết với vũ trụ
vĩ mô (macrocosmos), rằng tàn hại môi trường chính là tàn hại con người.
Ý thức này cũng là hệ quả của nền luân lý nằm trong giáo lý các tôn
giáo, là một thí dụ về khả năng góp phần của tôn giáo cho đạo đức học
môi trường.
Mong rằng một lúc nào đó vấn đề này sẽ được
xã hội cùng quan tâm tìm kiếm một giải đáp.
Tham khảo:
“A Very Brief History of
the Origins of Environmental Ethics for the Novice” (http://www.cep.unt.edu/novice.html.)
“Applied Ethics” (The
Internet Encyclopedia of Philosophy, 1997.)
Đã đăng tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật, số 233 (Hà Nội: tháng 11-2003)
|