Vào những tháng cuối năm 1997 và
đầu năm 1998, hiện tượng El Nino đã gây nhiều nơi ở Úc, Indonesia bị khô
hơn bình thường, hạn hán đã xảy ra và gây ra thiệt hại kinh tế nặng nề ở
Úc, cũng như cháy rừng chưa từng có ở Indonesia. Ảnh hưởng của hiện
tượng El Nino không chỉ giới hạn ở trong vùng Indonesia, Úc châu mà còn
khắp nhiều nơi trên thế giới. Vì tầm quan trọng của hiện tượng này trên
khí hậu trái đất, nhiều nước trên thế giới đã và đang đầu tư tài chánh
và nhân lực rất nhiều để nghiên cứu, tìm hiểu nguyên do, hậu quả của El
Nino và tiên đoán sự hình thành của hiện tượng này.
Hiện tượng El Nino, còn được gọi là
Dao động phương Nam (Southern Oscillation) trong khí tượng học, xuất
hiện từ khi có sự thành hình của các lục địa châu Á, châu Mỹ và biển
Thái Bình Dương. Vì thế nó đã có từ lâu rồi. Tuy vậy hiện tượng El Nino
chỉ được biết rõ và nghiên cứu bắt đầu từ cuối thập niên 1960. Người thổ
dân Inca ở Nam Mỹ trong các thế kỷ trước đã áp dụng kiến thức về hiện
tượng này và thích ứng vào sinh hoạt canh nông. Khi chòm
sao Pleiades
trong đêm vào tháng sáu trông rất rõ (kể cả các sao không sáng) thì vài
tháng sau từ lúc ấy sẽ có nhiều mưa. Ngược lại khi chúng bị mờ, hạn hán
thường xảy ra sau đó. Ngày nay ta biết rằng trong lúc có hiện tượng El
Nino, mây rất cao loại cirrus thường có trên dãy núi Andes, do các mưa bão
từ xa ở phía đông Thái bình dương mang đến. Chính những mây này làm mờ
đi chòm sao Pleiades.
Hiện tượng El Nino bắt nguồn từ sự
thay đổi nhiệt độ nước biển ở Nam Thái Bình Dương dọc theo đường xích
đạo từ Indonesia đến Peru (Nam Mỹ). Bình thường thì gió mùa thổi từ Đông
sang Tây với hệ quả là nhiệt độ nước biển gần Indonesia thường cao hơn ở
bờ biển Nam Mỹ và giữa Thái Bình Dương khoảng 40C. Mực nước
biển ở Indonesia cũng cao hơn ở Peru khoảng 0.5 mét. Như ta biết, ở vùng
nước biển nóng ấm gần Indonesia, nước bốc hơi lên tầng khí quyển và tuần
hòa về phía Tây và Đông gây ra mưa bình thường ở Đông Nam Á và bắc Úc.
Hiện tượng El Nino xảy ra khi vùng nước biển nóng ấm di chuyển xa khỏi
Indonesia về phía Đông đến giữa Nam Thái Bình Dương và gần bờ biển Nam
Mỹ.
Hậu quả là mưa xảy ra nhiều hơn ở
giữa Nam Thái Bình Dương và Nam Mỹ nhưng mưa lại có rất ít có ở Đông Nam
Á và bắc Úc. El Nino, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “bé trai” là từ do
các ngư phủ ở bờ biển Peru đặt tên cho hiện tượng này khi nước biển dọc
Peru trở nên nóng ấm lạ thường lúc gần Giáng Sinh (“bé trai” là chúa Giê
Su lúc sanh ra đời). Trong giai đoạn này, biển dọc Peru và Chile rất ít
có cá và có nhiều mưa lũ xảy ra dọc Nam Mỹ. Hiện tượng El Nino thường
kéo dài khoảng gần 1 năm, sau đó trở ngược lại tình trạng bình thường
(được gọi là La Nina, “bé gái”). Chu kỳ tuần hoàn El Nino, La Nina lại
tiếp tục tái diễn. Chu kỳ dao động này xảy ra
với chu kỳ từ 2 đến 6 năm ở Nam Thái Bình Dương vì thế được các nhà khoa
học gọi là “Dao động phương Nam” (Southern Oscillation). Hiện tượng dao
động thời tiết này được gọi tắt là ENSO (El Nino Southern Oscillation).
Khi hiện tượng El Nino xảy ra, áp
suất không khí ở Tahiti (giữa Nam Thái Bình Dương) thấp hơn ở Darwin
(bắc Úc). Khi có La Nina, áp suất ở Tahiti lại
cao hơn. Nhà khoa học Walker đầu thế kỷ 20 đã khám phá ra điều này khi
nghiên cứu so sánh các dữ kiện khí tượng đo được ở hai nơi này trong
nhiều năm qua các cơ quan khí tượng địa phương. Chỉ số dao động phương
nam (Southern Oscillation Index, SOI) là sự khác biệt giữa áp
suất không khí ở Tahiti và Darwịn Chỉ số SOI
sẽ là âm khi có El Nino.
Hiện tượng El Nino lần cuối xảy ra
là năm 1997/1998 với cường độ mạnh nhất (còn được gọi là ENSO của thế kỷ
20). Ở Đông Nam Á, nạn hạn hán xảy ra ở nhiều nơi, kể cả Việt Nạm Hệ quả
trầm trọng nhất là ở Indonesia, gây ra nạn cháy rừng kéo dài cả
tháng. Cũng trong năm 1997, ở thành phố Hồ Chí Minh nhiệt độ đạt kỷ lục
cao nhất đến 4006 C.
Ảnh hưởng khí hậu của hiện tượng El Nino không những ở vùng Đông Nam Á
mà còn thay đổi khí tượng ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là các
quốc gia dọc bờ Tây và Đông của Thái Bình Dương từ Úc, Nam Mỹ, bắc Mỹ
đến Nhật Bản, Trung Quốc. Trong khi ở Đông Nam Á và Úc có hạn hán thì ở
Nam Mỹ mưa lũ, lụt lội xảy ra trên mức bình thường.
Theo bản tường trình của Nha Khí
tượng, Thủy văn và Trung tâm nghiên cứu Môi trường, Giáo dục và Phát
triển ở Việt Nam cho thấy là hiện tượng El Nino vào năm 1997/1998 đã gây
hạn hán và thiếu nước trầm trọng ở nhiều nơi. Đồng bằng sông Cửu Long bị
nước mặn lấn vào từ biển. Mực nước ở các đập thủy điện Hoà Bình, Trị An,
Thác Bà đã xuống đến mức báo động. Ước tính thiệt hại kinh tế(kể cả nông
nghiệp) là vào khoảng 5000 tỉ đồng Việt Nam. Ngoài ra trong những năm El
Nino, mặc dầu giông bão ít xảy ra, nhưng nếu
có thì cường độ sẽ mạnh hơn. Thí dụ như trong năm El Nino 1997/1998, ở
miền nam Việt nam, cơn bão lớn Linda đã xảy ra
nhanh chóng và bất ngờ gây những thiệt hại nặng nề về nhân mạng và kinh
tế. Sản xuất nông nghiệp đã có bị ảnh hưởng nhưng không hại bằng các
thiệt hại kinh tế khác.
Bản tường trình của Nha Khí tượng,
nằm trong chương trình nghiên cứu hợp tác với các nước do Liên Hiệp Quốc
tổ chức (3), cũng đã đề nghị là các cơ quan ở Việt Nam như Bộ Nông
nghiệp, Bộ Khoa học và Môi trường, Bộ Kế hoạch, các công ty cung cấp
điện nước có liên hệ trực tiếp về hệ quả của hiện tượng El Nino nên đầu
tư vào nhân lực, tài nguyên, cũng như tăng cường sự hiểu biết và thông
tin về El Nino để có thể dự kiến, quản lý, đáp ứng có hiệu quả hơn trong
giai đoạn có El Nino.
Vì hiện tượng El Nino là hiện tượng
thiên nhiên có chu kỳ (như hiện tượng mùa mỗi năm), chúng ta không thể
nào ngăn chặn El Nino tái phát. Tuy nhiên chúng ta có thể nghiên cứu để
hiểu biết các nguyên tố, tác năng tạo thành El Nino và từ đó tiên đoán
khi nào El Nino trở lại và sửa soạn phòng ngừa hay giảm bớt những hậu
quả nghiêm trọng của nó. Giai đoạn El Nino năm 1997/1998, ước lượng
thiệt hại do ô nhiểm bụi cháy rừng là 9 tỉ đô la Mỹ từ thiệt hại nông
nghiệp, y tế, du lịch, vận chuyển giao thông và những hoạt động kinh tế
khác. Với kinh nghiệm trên, trong chương trình dự kiến phòng ngừa El
Nino, tổ chức ASEAN đã thành lập một Trung tâm chuyên ngành về khí tượng
đặt ở Singapore để liên lạc và điều hành với các bộ phận, cơ quan ở các
nước Indonesia, Mã Lai, Brunei trong sự thi hành lệnh cấm đốt lửa trong
các tháng 6 đến tháng 9 trong năm El Nino. Tổ chức ASEAN cũng đã thành
lập các đội Liên quốc gia chống cháy rừng.
Ở Việt Nam, dự án phòng ngừa và
chương trình quản lý khẩn cấp là do Nha Khí tượng và Thuỷ văn điều hành
với sự hợp tác của các chính quyền địa phương. Đã có những hội thảo được
tổ chức để rút ra các kinh nghiệm từ El Nino 1997/1998.

Hình 1. Các vùng bị ảnh hưởng trực
tiếp của hiện tượng El Nino
Sự hiểu biết khoa học về El Nino
 |
 |
Nhà toán học về khí tượng
Gilbert Walker |
Nhà khí tượng học Jacob
Bjerknes |
Nghiên cứu về El Nino lúc đầu không
phát xuất từ hiện tượng này xảy ra ở Nam Mỹ mà tập trung ở Ấn độ chú
trọng vào sự thay đổi không khí qua gió, áp suất khí quyển, nhiệt độ
không khí gây ra sự chậm trễ bất thường của gió mùa và mưa nhiệt đới ở
vùng Ấn độ dương. Sau này chúng ta mới biết là hai hiện tượng này đều có
liên quan với nhau và liên hệ chặc chẻ qua sự chuyển động và thay đổi
nhiệt độ nước biển ở Nam Thái Bình Dương. Năm 1887, gió mùa mang theo
mưa nhiệt đới đã đến trễ hay không đến được một số vùng ở Nam Á, gây ra
nạn đói lớn trầm trọng.
Vì tầm quan trọng của gió mùa và
mưa ở Ấn Độ, nghiên cứu về khí tượng của chúng đã được đặt lên hàng đầu.
Nhà toán học Gilbert Walker, xuất thân từ Cambridge, đến Ấn Độ năm 1904
nhậm chức ở Cơ quan khí tượng (1). Ông bắt tay nghiên cứu về khí tượng
gió mùa dùng toán học trên cơ sở các dữ kiện khí tương. Trong các năm
của thập niên 1920 và 1930, dùng các dữ kiện từ các trạm khí tượng đo
được trong 40 năm dài, ông Walker đã phát hiện ra một sự dao động tuần
hoàn, mà ông gọi là dao động phương nam (Southern Oscillation).
Ông đã đặt ra một chỉ số gọi là chỉ
số dao động phương nam để biểu hiện hiện tượng này. Chỉ số này dựa vào
một hệ thống phương trình khá phức tạp dùng dữ kiện từ các trạm không
những ở Thái bình dương và Ấn độ dương mà còn ở các nơi khác như Phi
châu và Nam Mỹ. Ông cho rằng dùng chỉ số này, ta có thể tiên đoán được
hiện tượng thời tiết về lâu dài. Ông phát triển và dùng phương pháp toán
học, gọi là tự tương quan (autocorrelation), cho thấy một hệ thống tự nó
có thể có một chuyển động tuần hoàn. Phương trình Yule-Walker trong toán
học hiện nay bắt nguồn từ công trình nghiên cứu khí tượng gió mùa này
của ông Walker. Sau này phương trình của chỉ số dao động phương nam đã
được đơn giản hoá bởi Willet và Bodurtha vào năm 1952 chỉ dùng áp suất
khí quyển ở hai nơi, Darwin (bắc Úc) và đảo Tahiti.
Trong các thập niên 1950 đến 1960,
các nhà khoa học đã ra sức tìm hiểu vì đâu gây ra sự tuần hoàn của dao
động được thể hiện bởi chỉ số trên. Sự liên hệ giữa đại dương và khí
quyển là một mấu chốt quan trọng qua nhiệt độ nước biển và áp suất khí
quyển ở các nơi khác nhau gây ra sự chuyển động của gió mùa.
J. Bjerknes, nhà khí tượng học nổi
tiếng trong các thập niên từ 1950 đến 1980, cuối cùng đã thành công giải
thích và phát họa được một hình ảnh tổng thể gắn
liền hiện tượng nước biển ấm lúc có El Nino ở Đông Thái bình dương với
sự thay đổi áp suất, sự yếu đi của gió mùa, và vũ lượng tăng cao ở Nam
Mỹ khi chỉ số dao động phương Nam xuống thấp. Khám phá của Bjerknes là
một đột phá lớn trong khoa học khí tượng. Dùng những dữ kiện thâu thập
được trong năm địa chất quốc tế (International Geophysical Year, IGY),
ông nhận ra rằng nhiệt độ nước biển rất ấm ở đông Thái bình dương trong
thời kỳ El Nino 1957/1958 trùng hợp với giai đoạn âm rất lớn của chỉ số
dao động phương nam. Hai hiện tượng này thật ra có liên hệ rất mật thiết
và từ đó được cộng đồng khoa học gọi là ENSO (El Nino Southern
Oscillation). Ông Bjerknes đã đưa ra sự liên hệ giữa đại dương và khí
quyển qua sự lưu thông trực tiếp, mà ông gọi là sự lưu thông Walker
(Walker Circulation). Ông để ý rằng lúc La Nina (lúc nước biển Nam Mỹ
còn lạnh), không khí trên mặt nước biển lạnh ở đông Thái bình dương
chuyển động về phía tây đến vùng biển ấm ở tây Thái bình dương. Ở đấy
không khí sẽ được hâm nóng và bị ẩm cao trên mặt nước biển ấm. Vì thế
không khí sẽ bốc lên cao gây ra mưa và chuyển dộng trở lại phía đông ở
độ cao. Sự lưu thông tuần hoàn này cũng gây ra nước lạnh từ đáy sâu trồi
lên ở đông Thái bình dương và làm nước biển lạnh thêm và tiếp tục gây ra
sự chuyển động của không khí và sự bắt đầu của chu kỳ lưu thông Walker.
Khác với các đại dương khác, Thái
Bình Dương có một chiều ngang rất dài ở dọc xích đạo (dài gấp 2 lần
chiều ngang Đại Tây Dương), vì thế có thể mang đến một chuyển động cơ
học tuần hoàn qua sóng ngầm gây ra bởi gió mùa hay các cơn gió mạnh đôi
khi xảy ra trong thời gian dài khoảng 1 tháng ở các vùng dọc xích đạo
trên Thái Bình Dương. Gió mùa thổi dọc đường xích đạo từ hướng đông đến
hướng tây. Vì thế ở Thái Bình Dương, mực nước biển ở hướng tây cao hơn ở
phía đông.
Khi gió hay gió mùa chấm dứt, sóng
ngầm vẫn tiếp tục chuyển động và thường phải mất 3 tháng để di chuyển
qua hết chiều dài rộng lớn của Thái Bình Dương. Khi sóng ngầm từ xa đến
một vùng địa phương, nhiệt độ nước biển vùng đó sẽ thay đổi làm môi sinh
và thời tiết nơi đó cũng phải thay đổi. Nhà hải dương học Klaus Wyertki
ở Đại học Hawai trong các năm 1970s đã khám phá ra sự liên hệ giữa hiện
tượng ENSO và sư chuyển động của dòng nước biển ở Thái bình dương. Khi
sóng đến và phản hồi giữa hai điểm, ta sẽ có sự thiết lập của một chu
kỳ. Chu kỳ này là El Nino và La Nina. Sóng
ngầm rất dài này trong khoa học được gọi là sóng Kevin và sóng Rossby.
Sóng Kevin rất dài (khoảng 1000 km bề dài) chuyển động qua đông mang
nước ấm từ vùng nhiệt đới ở tây Thái bình dương. Khi sóng Kevin đến Nam
Mỹ, chúng phản hồi lại và thành sóng Rossby. Sóng Rossby chuyển động trở
lại phía tây và cuối cùng sẽ làm chấm dứt hiện tượng El Nino.
Lượng nước biển ấm ở Thái Bình
Dương rất khổng lồ, nên khi vị trí của lượng nước biển ấm thay đổi, thì
thời tiết chung quanh vùng Thái Bình Dương sẽ thay đổi và có ảnh hưởng
khắp thế giới. Thường thì dòng nước lạnh Humbold chảy từ Nam cực lên dọc
theo bờ biển Nam Mỹ và lên gần đường xích đao. Vì thế nước lạnh từ đáy
sâu trổi lên mang theo nhiều sinh liệu và làm phong phú sinh sôi các
loài sinh vật như cá ở tầng nước ấm phía trên. Vì nước lạnh ở dưới trộn
với nước ấm ở trên, nên nhiệt độ nước biển ở Đông Thái Bình Dương thường
thì lạnh hơn khoảng 2 hay 3 độ celsius so với ở Tây Thái Bình Dương. Tuy
nhiên khi hiện tượng El Nino xảy ra, thì ngược lại nước biển ở Nam Mỹ sẽ
nóng ấm hơn qua sự di chuyển của khối nước ấm khổng lồ từ Tây Thái Bình
Dương và từ xích đạo xuống phía Nam dọc Nam Mỹ.
Tiên đoán hiện tượng El Nino và dao động
phương nam
Trong thập niên 1920s, khi ông
Walker để ý rằng chỉ số dao động phương nam lúc cực âm cũng là lúc mà
hạn hán thường xảy ra ở Australia, Indonesia, Ấn độ và một phần ở Phi
châu. Ông cũng cho rằng nó cũng liên hệ đến mùa đông không lạnh lắm ở
tây Canada. Ông đã bị đồng nghiệp chỉ trích về sự tiên đoán qua một liên
hệ quá xa này. Hơn nửa thế kỷ sau này, chúng
ta mới biết là ông thật sự đúng.
Khoa học ngày nay với các mô hình
về sư tác động giữa khí quyển và đại dương với đất liền, cộng với sự
phát triển của máy tính và dữ kiện lấy được từ các trạm khí tượng, tàu
bè hay máy bay, đã cho phép con người có thể tiên đoán dấu hiệu báo
trước sự hình thành của El Nino trong vòng 9 đến 12 tháng trước đó (2).
Trong đầu năm 2002, theo dự đoán
của các cơ quan chính phủ như National Ocean and Atmosphere
Administration, NOAA (cơ quan Quản lý Đại dương và khí quyển quốc gia ở
Mỹ và các viện nghiên cứu như Universities Consortium of Atmospheric
Research, UCAR (Tổ hợp các đại học nghiên cứu khí quyển) hay các tổ chức
phi chính phủ như Center of Ocean, Land and Atmosphere, COLA (Trung tâm
nghiên cứu Đại dương, lục địa và khí quyển) thì khoảng giữa năm 2002 đến
đầu năm 2003, hiện tượng El Nino sẽ trở lại.
Theo tiên đoán vào tháng 3/2002,
thì đã có dấu hiệu hiện tượng El Nino xuất hiện ở thời kỳ đầu qua các mô
hình tiên đóan, nhiệt độ nước biển đo được ở Nam Thái bình dương gần bờ
biển Nam Mỹ đã tăng lên trên mức bình thường, và quan trọng hơn nữa là
chỉ số dao động Nam Thái Bình Dương (SOI) trong tháng 3/2002 đã đột ngột
xuống mức âm dưới zero.Tiên đoán là chỉ số SOI đa số sẽ ở mức âm cho đến
cuối năm hoặc đầu năm 2003 khi hiện tượng El Nino mạnh nhất và sau đó sẽ
chấm dứt. Nhưng cường độ thì không tiên đoán được. Kết quả là hiện
tượng El Nino 2002/2003 đã xảy ra có cường độ rất nhẹ so với các hiện
tượng trước kia.
Hiện nay đã có những bước tiến lớn
trong ngành tiên đoán khí tượng, đặc biệt với hiện tượng ENSO, qua các
dữ kiện thu thập ở nhiều nơi và bằng nhiều phương pháp khác nhau và các
mô hình rất chi tiết và đầy đủ giữa sự liên hệ đại dương và khí quyển
chạy trên những siêu máy tính (supercomputer). Những tiên đoán này đã và
sẽ giúp con người phù hợp và thích ứng trong các hoạt động kinh tế với
sự thay đổi thời tiết qua chu kỳ El Nino dao động phương nam (ENSO) và
giảm đi hệ quả tác hại của hiện tượng này vào đời sống con người (2).
Tham khảo
(1)
R. Katz, Sir Gilbert Walker and a connection between El Nino and
statistics, Statistical Science, 2002, Vol 17, no 1, 97-112
(2)
R. Kerr, Signs of success in forecasting El Nino, Science, 26
July 2002, Vol 297, 497-498
(3)
UN report, Oct 2002, Reducing the
Impact of Environmental Emergencies Through Early Warning and
Preparedness – The Case of El Niño-Southern Oscillation (ENSO), Vietnam
Country Case Studỵ
http://www.esịg.ucar.edu
(4)
K. Trentberth, D. Stepaniak, Indices of El Nino evolution,
Journal of Climate, Vol 14, 15 April 2001, 1697-1701.
|