23/Ô nhiễm các dòng sông: SOS
1- Những ngôi làng ung thư
30-09-2008 23:57:55 GMT +7
Ông Vương Tự Thanh với vết sẹo dài trên bụng
Có bao nhiêu dân làng sinh sống ở lưu vực sông Hoài
bị ung thư? Không có con số thống kê chính thức nào
được đưa ra. Chỉ biết rằng con số này không nhỏ bởi
chuyện con sông lớn này bị chất thải độc hại của
hàng ngàn nhà máy, xí nghiệp gây ô nhiễm nặng thì ai
cũng biết và thừa nhận
Huyện Thẩm Cầu nằm ở phía Đông tỉnh Hà Nam. Stephen
Voss, nhiếp ảnh gia Mỹ ở thủ đô Washington, đã đến
tận làng Đồng Thôn Lộ của huyện để tìm hiểu tác hại
của dòng sông Sa Ánh, một nhánh lớn của sông Hoài,
chảy qua làng. Nước sông đã bị ô nhiễm nặng gần 20
năm nay.
Ngôi làng chỉ còn người mắc bệnh ung thư
Đồng Thôn Lộ cũng gống như nhiều ngôi làng khác
trong huyện. Đường sá lầy lội, gà vịt và chó được
thả chạy rông. Không một ngôi nhà nào có nước máy.
1.500 người trong làng sống hoàn toàn phụ thuộc vào
sông Sa Ánh: họ bắt cá, giặt giũ quần áo, tắm rửa,
lấy nước về dùng. Đó là chuyện của 20 năm về trước,
còn bây giờ nước sông đã đổi màu, cá chết sạch, nước
vừa chát vừa đắng, không còn ai dám tắm.
Ông Vương Tự Thanh sống ở làng này trên 60 năm. Ngày
xưa, ông kiếm sống bằng nghề chài lưới. Mẻ lưới cuối
cùng của ông cách đây khoảng hơn 15 năm chỉ bắt được
vài con cá nhỏ mình phồng rộp trông rất đáng sợ. Ông
Vương than thở: “Làng giờ đây không còn mấy người”.
Ai còn sức lao động đều lên thành phố kiếm sống và
tránh bệnh ung thư.
Ông Vương giở áo chỉ ngón tay vào một vết sẹo dài
trên bụng. Ông cho biết vừa mổ lấy một khối u ác
tính. Người anh và em ruột ông chết cách nhau một
tháng vì bệnh ung thư. Trước mặt nhà ông có một cái
giếng đã 5 lần đào sâu hơn để kiếm nước trong lành
nhưng mùi nước vẫn còn khai.
Bác sĩ Vương Vĩnh Tăng, Trưởng Khoa Ung bướu Bệnh
viện huyện Thẩm Cầu, cho biết 15 năm trở lại đây,
những ca ung thư dạ dày, gan, thực quản, ruột kết
tăng lên rõ rệt ở các làng. Không ít gia đình có
nhiều người chết lần lượt vì ung thư. Đó là do họ
quá nghèo không có tiền chữa bệnh và cũng do họ tiếp
tục dùng nước sông Sa Ánh bởi không có sự lựa chọn
nào khác.
Thà chết, không bán con
Hoàng Mạnh Anh là một ngôi làng vùng sâu ở miền Đông
tỉnh Hà Bắc. Năm 2004, phóng viên Jim Yardley của
nhật báo The New York Times đã lặn lội tới đây gặp
một ông bí thư chi bộ làng tên Vương Lâm Thành. Ông
bí thư cho biết: “Mọi nguồn nước chúng tôi uống ở
đây đều bị ô nhiễm. Nó vừa chát vừa đắng”.
Trước đây, khi nước còn trong xanh, rất hiếm khi có
người chết vì bệnh ung thư. Nhưng, theo ông Vương,
mới năm ngoái thôi, trong số 17 người qua đời thì có
đến 13 người chết vì ung thư. Trong làng bây giờ chỉ
còn những người già và những người vợ trẻ sống nhờ
tiền của chồng, con làm việc ở thành thị gửi về.
Ông Hoạt Thái Sơn trong một buổi tuyên truyền vận
động quần chúng cứu sông Hoài
Một trong những người vợ trẻ là Khổng Hà Kim, 30
tuổi. Ông Vương ngày nào cũng đảo một vòng thăm
những người mắc bệnh ung thư trong làng. Nhà chị
Khổng thường là nơi cuối cùng ông đến thăm. Gương
mặt chị Khổng sưng húp, hai chân của chị cũng bị
phù. Chị đã trải qua 3 lần giải phẫu u ác tính trong
họng và ruột. Nhưng cắt cái này, cái khác lại mọc
lên.
Các bác sĩ quyết định chữa cho chị bằng liệu pháp
hóa trị. Mỗi đợt tốn khoảng 70.000 nhân dân tệ (140
triệu đồng), gần bằng mức thu nhập cả năm của gia
đình. Chịu không xiết, chị quyết định ngưng xạ trị.
Chị kể: “Chồng tôi nói có thể bán đứa con trai lớn
cho người ta làm con nuôi nhưng tôi thà chết còn hơn
bán con”.
Theo nữ bác sĩ Triệu Mỹ Kim, Trưởng Khoa X-quang
Bệnh viện huyện Thẩm Cầu, chưa có ai làm xét nghiệm
dòng nước đen chảy qua làng. Trước thập niên 1980,
trong huyện chỉ có khoảng 10 ca ung thư/năm. Nhưng
từ khi các nhà máy thuộc da, giấy và các ngành công
nghiệp nặng khác mọc lên thì số ca ung thư tăng
nhanh. Chị kể: “Giờ đây, mỗi năm có 300-400 ca, phần
lớn là ung thư dạ dày và ruột. Nếu trước đây bệnh
nhân là những người trung niên, 40-50 tuổi, thì bây
giờ có nhiều người trẻ hơn. Tôi từng chữa bệnh cho
một cậu bé 7 tuổi”.
Những người bảo vệ sông Hoài
Trong số những người đấu tranh cho quyền lợi người
dân sinh sống trong lưu vực sông Hoài, ông Hoạt Thái
Sơn nổi tiếng hơn hết. Phóng viên ảnh 52 tuổi họ
Hoạt này sinh ra và lớn lên gần sông Hoài. Sau khi
chứng kiến hai người bạn thân chết vì ung thư, ông
quyết định bỏ nghề, thành lập nhóm Những người bảo
vệ sông Hoài với mục đích làm sạch nó.
Hoàng Mạnh Anh với 2.500 dân là ngôi làng đầu tiên
được biết đến trên cả nước Trung Quốc dưới tên gọi
“làng ung thư” do ô nhiễm nước. Dòng sông Sa Ánh
chảy qua làng bị nhiễm độc đến nỗi trên một nửa dân
làng chết vì ung thư hoặc vì những căn bệnh bí hiểm.
84% thanh niên trong làng bị tiêu chảy liên tục, tỉ
lệ sinh con tuột dốc và nhiều trẻ sơ sinh bị dị
dạng.
Ông Hoạt Thái Sơn cùng nhóm của ông bắt đầu cuộc vận
động và đấu tranh từ ngôi làng Hoàng Mạnh Anh. Đây
là một công việc không hề dễ dàng. Ông tổ chức những
cuộc điều tra sức khỏe cộng đồng của hơn 100 làng
trong lưu vực sông Hoài. Đi đến đâu, ông cũng vận
động dân làng tham gia nhóm của ông. Kết quả, nhóm
thu nhận được cả ngàn thành viên, trở thành một
phong trào quần chúng. Công việc này thu hút sự chú
ý của quốc tế.
Nhóm Những người bảo vệ sông Hoài cung cấp nước
sạch, thuốc men và mở lớp học cho cư dân sinh sống
bên sông Hoài và các phụ lưu của nó. Nhưng quan
trọng hơn cả là ông Hoạt Thái Sơn và nhóm của ông
nghiên cứu những công nghệ làm sạch nước nhiễm bẩn
giá rẻ và chuyển giao công nghệ này cho dân.
VĂN ANH
http://www.nld.com.vn/tintuc/the-gioi/ho-so-tu-lieu/241171.asp
2- Liên Hoa, sát thủ ngọt ngào
29-09-2008 22:58:03 GMT +7
Nhà máy bột ngọt Liên Hoa ở Hương Thành
Công ty bột sành điệu Liên Hoa (Lianhua Gourmet
Powder Co.) là nhà sản xuất bột ngọt lớn nhất ở
Trung Quốc đồng thời cũng là một trong những doanh
nghiệp gây ô nhiễm trên sông Hoài (Hoài Hà) lớn
nhất. Mặc dù bị chỉ mặt đặt tên là “sát thủ” sông
Hoài, công ty vẫn tồn tại, phát triển và tiếp tục
đầu độc các nguồn nước
Trong danh sách 20 thành phố có không khí bị ô nhiễm
nhất của Ngân hàng Thế giới, có đến 16 thành phố
Trung Quốc (TQ). Cho nên thị dân nước này, phần lớn
giờ đây đã trở nên giàu có, liên tục yêu sách không
khí và nước phải trong lành hơn. Trước nhu cầu chính
đáng đó, chính quyền nhiều thành phố – nhất là Bắc
Kinh (nơi vừa tổ chức Thế vận hội mùa hè 2008) và
Thượng Hải - đã di dời các nhà máy gây ô nhiễm nặng
nhất ra ngoại thành và các vùng nông thôn.
Những cuộc di dời tất nhiên được chính quyền các
vùng ngoại thành và nông thôn hoan nghênh vì giải
quyết được việc làm tại chỗ và tăng thu thuế. Tuy
nhiên, cũng có một sự thật khác là nông thôn – nơi
sinh sống của 2/3 dân số TQ – gánh chịu mọi hậu quả
của nạn ô nhiễm không khí và nguồn nước một khi các
công ty và nhà máy không tôn trọng các quy chế về xử
lý nước thải, chất thải công nghiệp do nạn quan
liêu, tham nhũng và chạy theo thành tích kinh tế của
chính quyền địa phương.
Quy mô lớn, ảnh hưởng lớn
Đại bản doanh công ty và nhà máy Liên Hoa đóng tại
Hương Thành, một thành phố nằm bên sông Hoài, tỉnh
Hà Nam. Công ty này - thành lập năm 1971 - có quy mô
lớn nhất tỉnh, vào thời điểm 2004 từng sử dụng 8.000
công nhân. Và quan trọng nhất, nó cũng là đơn vị
kinh tế đóng thuế cao nhất cho Hương Thành.
Đối với chính quyền tỉnh Hà Nam, Liên Hoa là một
công ty làm rạng danh tỉnh với danh hiệu nhà sản
xuất bột ngọt (nhãn hiệu Hoa Sen) lớn nhất TQ. Theo
bản phân tích của Tân Hoa Viễn Đông, một cơ quan
chuyên đánh giá khả năng tài chính và mức độ tin cậy
TQ, năm 2001, Công ty Liên Hoa đã sản xuất hơn
133.000 tấn bột ngọt và phấn đấu đạt 200.000 tấn vào
các năm sau.
Với quy mô và tiềm lực kinh tế lớn như vậy, Liên Hoa
có ảnh hưởng nhất định trong đời sống chính trị.
Theo nhật báo Mỹ The New York Times (NYT), ảnh hưởng
này lớn đến nỗi các cơ quan môi trường không thể làm
gì được bất chấp những nỗ lực kiên trì.
Có thể nói công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa cùng
với chính quyền là một. Bởi, theo tờ báo Mỹ vừa kể,
tuy cổ phiếu của công ty niêm yết ở thị trường chứng
khoán Thượng Hải nhưng phần lớn cổ phiếu của Liên
Hoa nằm trong tay của một công ty mẹ thuộc quyền sở
hữu của chính quyền Hương Thành.
Dẫn chim cốc bắt cá trên một nhánh sông của Hoài Hà
ở Phụ Dương, tỉnh An Huy. Hình ảnh này bây giờ rất
hiếm vì phần lớn sông Hoài bị ô nhiễm rất nặng
Những dấu hiệu bất an của sức khỏe cộng đồng cư dân
sống hai bên bờ sông Hoài bắt đầu xuất hiện từ đầu
thập niên 1990. Các nhà nông báo cáo lên chính quyền
rằng năng suất trên các cánh đồng trồng cây lương
thực giảm sút liên tục vì nước tưới tiêu bị ô nhiễm.
Xả nước độc vào cống rãnh thành phố
Năm 2003, Cơ quan Bảo vệ môi trường nhà nước (SEPA)
công bố một bản báo cáo, theo đó nước sông Hoài đã
bị ô nhiễm nặng và lỗi này do các quan chức địa
phương dung túng việc xả chất thải thẳng xuống sông
không qua bất cứ hệ thống xử lý nào của các nhà máy,
trong đó Liên Hoa là thủ phạm số một.
Báo cáo thống kê rằng nhà máy Liên Hoa mỗi ngày xả
124.000 tấn nước bẩn qua các hệ thống ống xả bí mật
liên thông với hệ thống cống rãnh của thành phố
Hương Thành. Tất cả nước thải độc hại này sau đó đã
xả trực tiếp ra sông Sa Ánh là một nhánh lớn của
sông Hoài.
Nhật báo NYT, dẫn lời một cán bộ địa phương giấu tên
đã về hưu, cho biết con rể của ông chủ tịch công ty
từng lãnh đạo phòng môi trường của thành phố. Cũng
theo ông này, nhiều quan chức nhà nước không quan
tâm đến vấn đề ô nhiễm. “Họ chỉ quan tâm đến việc
kiếm tiền”.
Tháng 6-2004, một phóng viên địa phương phát hiện
một dòng nước độc hại chảy ra từ một miệng cống xả
thẳng ra sông gần nhà máy Liên Hoa ở ngoại ô Hương
Thành. Phóng viên khẳng định là nước độc hại bởi mùi
axít nồng nặc, khó mà đứng lâu gần nó.
Trên miệng cống có một tấm biển ghi dòng chữ “Công
ty Liên Hoa, cống xả nước thải số 3”. Bên cạnh tấm
biển vừa kể lại có một tấm biển thứ hai cho biết ống
cống này nằm dưới quyền giám sát của phòng bảo vệ
môi trường thành phố.
Liên Hoa sành điệu không được chết
SEPA có tờ báo thường xuyên chỉ trích các quan chức
địa phương nhắm mắt làm ngơ để các doanh nghiệp lớn,
trong đó có Liên Hoa, tiếp tục làm ô nhiễm sông
Hoài, đe dọa sức khỏe cộng đồng. Nhưng sức khỏe của
các doanh nghiệp lớn mới làm cho họ quan tâm hơn.
Bằng chứng cụ thể là kể từ năm 2003, các khoản đầu
tư của Liên Hoa không có hiệu quả. Cộng thêm thị
trường bột ngọt lắng đọng khiến tài chính của công
ty bị thâm hụt. Các ngân hàng thúc ép công ty trả
món nợ vay hơn 217 triệu USD.
Để giải cứu Liên Hoa, chủ tịch tỉnh Hà Nam lúc bấy
giờ là Lý Thành Ngọc tổ chức một cuộc họp ngay tại
đại bản doanh Liên Hoa hồi tháng 7-2004. Tại cuộc
họp, ông Lý tuyên bố: “Chính quyền tin tưởng, các
doanh nghiệp tin tưởng rằng Liên Hoa sành điệu sẽ
vượt qua khó khăn. Các ngân hàng cần hỗ trợ Liên Hoa
sành điệu”. Riêng Hương Thành đóng góp 25 triệu USD.
Thông điệp của chính quyền tỉnh như vậy là quá rõ.
Liên Hoa cần được cứu và nó đã được chính quyền địa
phương cứu sống cho tới ngày hôm nay. Trong khi đó,
cuộc sống người dân bên sông Hoài tiếp tục thoi thóp
với nỗi lo chết vì ung thư.
VĂN ANH
http://www.nld.com.vn/tintuc/the-gioi/241019.asp
3- Tất cả các dòng sông đều ô nhiễm
Cập nhật lúc : 2:19 PM, 06/06/2008
Kết quả quan trắc môi trường gần đây cho thấy, các
con sông nội thành ở Hà Nội bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Các thông số đo được đều vượt gấp nhiều lần tiêu
chuẩn cho phép đối với nước mặt.
"Các khu dân cư, công nghiệp ở Việt Nam đều phân bố
dọc theo hệ thống sông ngòi (gồm 8 lưu vực với
10.000 km2). Thiếu công nghệ xử lý nước thải đang
làm sông, hồ ô nhiễm nghiêm trọng", Giáo sư Võ Quý
cho biết tại Hội thảo nhân ngày môi trường thế giới
5/6 tại TP HCM.
Kênh rạch TP HCM ô nhiễm nghiêm trọng. Ảnh: Lê Hưng
Dự báo đến năm 2010, các đô thị vẫn sử dụng hệ thống
thoát nước chung và xử lý nước phân tán ở các bể tự
hoại. Đến nay, chỉ có khoảng 30% nước thải từ các đô
thị và khu công nghiệp trong cả nước là qua xử lý.
Trong khi đó, đô thị và những khu công nghiệp đều là
nơi có sông lớn đi qua. Những dòng sông này là nguồn
cung cấp chính nước cho sinh hoạt và sản xuất. Hệ
thống sông Đồng Nai – Sài Gòn đã xuất hiện nhiều
đoạn bị ô nhiễm chất hữu cơ và kim loại nặng.
Ở Hà Nội, những kết quả quan trắc môi trường gần đây
cho thấy, các con sông nội thành đã bị ô nhiễm ở mức
nghiêm trọng. Các thông số đo được đều vượt gấp
nhiều lần tiêu chuẩn cho phép đối với nước mặt.
Nhiều doanh nghiệp vẫn chỉ chạy theo lợi nhuận,
không chú trọng bảo vệ môi trường. Trong khi đó đầu
tư vào công nghệ sạch luôn là bài toán khó: đầu tư
nhiều vốn và vận hành tốn kém. Do vậy, nhiều doanh
nghiệp chưa thật sự mặn mòi lắm với loại công nghệ
này, hoặc nếu có thì lại không vận hành đủ công
suất.
Giải pháp bảo vệ môi trường
- Có chiến lược phát triển, chính sách quy hoạch
tổng thể trong bảo vệ môi trường.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, bổ sung những chính sách chế
tài trong bảo vệ môi trường, nhất là xây dựng luật
sát với thực tế và khoa học, thực thi nó một cách
nghiêm chỉnh.
- Kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động ảnh hưởng
đến môi trường tại các KCN. Đa dạng hoá các nguồn
đầu tư bảo vệ môi trường, ưu tiên đầu tư cho các dự
án trọng điểm và cấp bách.
- Tăng cường các hoạt động truyền thông để nâng cao
ý thức người dân. Từ đó giúp mọi người tự giác tham
gia bảo vệ môi trường sống.
- Kết nối giữa các nhà khoa học với cơ quan quản lý
nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng để luôn tìm ra
tiếng nói chung trong vấn đề phát triển bền vững.
Trần Nghị
http://www.baodatviet.vn/Home/Tat-ca-cac-dong-song-deu-o-nhiem/20086/7384.datviet
4- Cần Thơ: Ô nhiễm trên các dòng sông ngày một lớn
(Pháp luật, số 187, ngày 5/8/2004, tr. 7)
Từ đầu tháng 6 đến nay, cá nuôi bè lẫn cá tự nhiên
chết nổi trắng trên khúc sông Ô Môn, thuộc địa
phương phường Thới An, quận Ô Môn, thành phố Cần
Thơ, một nhánh của sông Hậu. Mỗi bè cá được đầu tư
hàng trăm triệu đồng, nay thảm hoạ xảy ra, hàng loạt
chủ bè trắng tay… Một lần nữa, môi trường đã trừng
phạt thói ích kỷ, vô trách nhiệm do chính con người
gây ra. Không phải ngẫu nhiên, khi trước đó không
lâu, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ
vừa cảnh báo về tình trạng ô nhiễm trên sông Hậu -
một trong các con sông lớn ở đồng bằng sông Cửu
Long.
Anh Năm Dũng ngụ ở khu vực Thới Bình A, quận Ô Môn
kể: "Mới hôm qua người ta vớt được một con cá ngát
nặng 6,2 kg chết nổi trên sông".
Hầu hết "nạn nhân" là các loài cá trắng, cá da trơn,
thậm chí cá lau kính cũng không tránh khỏi. Cá thiên
nhiên đã vậy, cá nuôi bè làm sao thoát. Anh Nguyễn
Anh Hùng - chủ một bè cá ngậm ngùi cho biết: "Bè của
tôi thả nuôi trên 30.000 con cá hú, trọng lượng đã
đạt khoảng 250 gr/con. Nay cá lần lượt chết. Đến
ngày mai, cả bè chắc không còn một con".
Anh Hùng nói rằng, hàng loạt bè cá rải rác trên suốt
đoạn sông gần 2 km này cá chết chất hàng đống, chủ
bè rảo riết chạy kiếm mối bán đổ bán tháo. Theo
thống kê của Trạm Khuyến nông quận Ô Môn, khu vực
này có 17 bè cá lớn (sản lượng thu hoạch 5 - 7
tấn/bè/vụ) và trên 70 bè nhỏ. Như vậy, thiệt hại
phải tính bằng tiền tỷ.
Nguyên nhân gây ra tình trạng trên, chưa được kết
luận rõ từ các cơ quan chức năng. Có người nghi ngờ
do việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tràn lan trên
các cánh đồng phía đầu nguồn, đã chảy tràn vào môi
trường tự nhiên.
Lần này, nạn nhân chính là chủ các bè cá. Nhưng ai
ngờ rằng, lâu nay chính họ cũng "đóng góp" rất lớn
việc phá huỷ môi trường nước.
Thực trạng buồn
Ở làng bè Tx. Châu Đốc, tỉnh An Giang có hơn 400 bè
cá, trải dài trên sông Hậu. Dưới bè, "vương quốc"
của cá tra, cá basa, cá rô phi… còn bên trên dành
cho sinh hoạt của cả gia đình chủ bè. Cứ dăm phút,
lại thấy có người trong bè quẳng ra dòng sông vài
cái bọc nilon, dăm tàn thuốc lá, mớ thức ăn thừa…
Hàng ngày "đầu ra" từ các nhà vệ sinh, mọi chất thải
trong sinh hoạt… đều vô tư trút xuống dòng sông Hậu.
Một cán bộ Khoa Môi trường và quản lý tài nguyên
thiên nhiên trường ĐH Cần Thơ khảo sát thực tế tại
làng bè này, ước tính rằng: Bình quân mỗi bè có 5 -
6 người sinh sống thường xuyên, quy ra có trên 2.000
người đang sinh sống trên các bè cá. Mỗi người thải
ra 0,5 kg rác/ngày và 0,3 kg phân/ngày. Cứ thế nhân
với số người, cho thấy lượng rác thải hàng ngày vô
tư tuôn xuống dòng sông khoảng một tấn, chưa kể chất
thải từ chính cơ thể họ.
Nhưng đó mới là ước tính và căn cứ theo số lượng bè
cá tại đây bởi hiện nay, riêng tỉnh An Giang có hơn
3.400 bè cá. Liền kề, nằm phía hạ lưu sông Hậu, 2
quận Ô Môn và Thốt Nốt (thuộc thành phố Cần Thơ)
cũng có khoảng 170 bè cá lớn, nhỏ…
Sông Hậu là cái nôi phát triển nghề nuôi cá bè, bắt
nguồn từ địa phương Campuchia, chảy xuôi nguồn về
các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, thành phố
Cần Thơ… Nhìn dòng nước hiền hoà, mang đầy phù sa
màu mỡ cho những cánh đồng phía hạ lưu, ít ai ngờ
chúng đầy rẫy những chất thải mà dòng sông không hề
muốn tải. Người nuôi bè thường cho cá ăn xác cá băm
nhỏ, thức ăn dạng viên có kèm thêm chất kết dính như
bột gòn hoặc bột mỳ và cho ăn từ 3 - 5 lần/ngày.
Theo nghiên cứu trước đây của Khoa môi trường và
quản lý tài nguyên thiên nhiên, tỷ lệ lượng thức ăn
dư thừa thoát khỏi bè, tuôn theo dòng chảy thông
thường từ 5 - 10%, đôi khi có thể lên đến 30%. Tính
hệ số chuyển hoá thức ăn bình quân 2,5 kg/1 kg cá,
tức là để thu được một tấn cá thương phẩm, người
nuôi vô tình thải xuống dòng sông 250 kg thức ăn
thừa (lấy bình quân lượng thức ăn thừa là 10%).
Chưa kể, lượng phân và chất thải của chính những con
cá nuôi, với các thành phần chất rắn lơ lửng… Các
nhà khoa học tính rằng, một tấn cá thực vật hoạch
được, đồng nghĩa với 300 - 600 kg chất thải rắn
thoát ra, rơi xuống đáy phía bên dưới và xung quanh
bè nuôi.
Những con số này gộp lại rất lớn, nhất là đối với
tỉnh An Giang và thành phố Cần Thơ, nơi nuôi cá da
trơn đạt sản lượng mỗi năm trên 20.000 tấn…
Các loại bệnh dễ xâm nhập cá nuôi thường phát mạnh
vào tháng 2 và tháng 3, tháng 8, 9 (âm lịch). Khi cá
bệnh, những chủ bè thường dùng nilon quây kín bè,
sau đó đổ các loại thuốc đặc trị. Ngay thường ngày,
nhiều chủ bè vẫn thường xuyên sử dụng các loại thuốc
diệt ký sinh như Potmol, Menisix… Lượng nước chứa
các loại thuốc trên, vô tư được xổ ra dòng sông sau
đó, tác động khôn lường.
Chúng tôi đã tiếp xúc nhiều chủ bè cá, không ít lần
dò hỏi họ những thông tin cần cảnh báo về thảm hoạ ô
nhiễm. Nhưng mười người như một, khăng khăng tin
tưởng rằng, dòng sông Hậu bao la, nước chảy không
ngừng này sẽ tải đi và xoá sạch mọi thứ. Có người
còn nói, chất thải từ bè cá của họ có đáng là bao so
với sự "vô tư" của hàng triệu cư dân đang sống trong
những căn nhà ven sông lâu nay. Rồi còn có những khu
công nghiệp, mà nhiều nhà đầu tư vẫn ung dung tuôn
chất thải xuống dòng sông… Điều này đúng, nhưng hoàn
toàn không phải lý lẽ để biện minh.
Vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu
Mới đây, Thạc sĩ Kỷ Quang Vinh - Trưởng trạm quan
trắc môi trường thành phố Cần Thơ bức xúc: "Chất
lượng nước trên sông Hậu đang có dấu hiệu ô nhiễm
nặng". Kết quả giám sát gần đây nhất của Trạm, từ
các mẫu nước lấy từ sông Hậu, cho thấy hàm lượng
chất hữu cơ thông qua các chỉ số BOD5 và COD đều
vượt tiêu chuẩn Việt Nam (10 mg/lít) từ 1,2 - 2,5
lần, có khuynh hướng tăng nhanh so với các năm
trước; nồng độ dưỡng chất (NO2 và NH3) vượt tc Việt
Nam (0,05 mg/lít) từ 2 - 20 lần; số lượng vi sinh
(Coliform) cũng vượt mức cho phép từ 1,5 - 9 lần…
Những số liệu này được ông Trần Chấn Bắc - cán bộ
Khoa môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên
viện dẫn như một sự cảnh báo đáng ngại. Ông nói
rằng, những chất thải hữu cơ từ việc nuôi cá vẫn có
thể được dòng sông Hậu tự làm sạch nếu ở mức độ vừa
phải. Còn như trào lưu các bè cá phát triển ồ ạt như
hiện nay, dẫn đến tỷ lệ chất hữu cơ trong nước gia
tăng không ngừng là rất nguy hiểm, dễ gây hại cho
nhiều người dân nông thôn đang sử dụng nước sông cho
sinh hoạt và ăn uống.
Biết bao cuộc hội nghị, hội thảo về thuỷ sản ở đồng
bằng Sông Cửu Long, các đại biểu luôn sôi nổi đề ra
chỉ tiêu phấn đấu phát triển sản lượng cá nuôi, diện
tích ao, bè… chứ ít nghe đề ra biện pháp bảo vệ môi
trường kèm theo một cách cụ thể như thế nào.
Nước sông Hậu toả đi muôn ngả, về các con kênh rạch
của vùng sinh thái lâu nay hiền hoà. Tất cả rồi đổ
ra biển, mang theo sự ô nhiễm đáng sợ.
Tấn Hà - Trần Hùng
http://203.162.12.202/thongtinmt/noidung/pl3_5_8_04.htm
5- Những Dòng Sông Ở Huế Đang Bị Ô Nhiễm Nghiêm Trọng
(LÊN MẠNG THứ HAI 10, THÁNG NĂM 2004)
(Thừa Thiên, Huế - VNN) Cùng với màu xanh hiền hoà
của những hàng cây, những khu vườn tràn đầy ánh
nắng, vẻ đẹp thơ mộng của thành phố Huế còn được tạo
nên bởi màu xanh dịu dàng, trong mát của những dòng
sông. Vậy mà màu xanh dịu dàng và trong mát ấy đã và
đang dần dần mất đi vì sự ô nhiễm ngày một nặng
nề...
Nếu đi một vòng các dòng sông ở Huế, điều dễ dàng
nhận thấy là tình trạng ô nhiễm của các dòng sông
nhiều nơi đã đến mức báo động. Sông Hương nhìn trong
xanh là thế nhưng càng vào gần bờ, càng thấy nhiều
rác và bao nilon nổi lềnh bềnh. Tại đoạn sông Hương
gần bờ phía chợ Đông Ba, nước trở nên đen ngòm như
nước cống và đầy rác rưởi. Tuy vậy, so với các con
sông khác trong thành phố thì sông Hương vẫn còn vào
hạng khá bởi vì lượng rác và độ bẩn của nước ở các
sông Bạch Đằng, sông Đông Ba, sông An Cựu... còn
khủng khiếp hơn nhiều. Đoạn sông An Cựu phía chân
cầu An Cựu đã ở mức độ ô nhiễm "báo động đỏ" vì nơi
đây đã trở thành chỗ đổ rác lý tưởng của khu chợ và
các hộ dân sống bên bờ.
Qua khảo sát của các cơ quan chức năng, tổng thông
số coliform, chỉ về mật độ vi khuẩn gây bệnh trong
nước tại các điểm khảo sát trên sông Hương và các
sông khác đều vượt quá giới hạn cho phép từ 5 đến
gần 30 lần. Nguyên nhân của tình trạng này là vì các
chất thải dơ bẩn như phân người và phân súc vật cùng
nhiều chất thải khác đổ vào nguồn nước đã tới mức độ
ghê gớm.
Bên cạnh ô nhiễm về chất lượng nước, cũng đã bắt đầu
xuất hiện sự ô nhiễm về cảnh quan trên nhiều dòng
sông ở Huế. Đó là những bờ kè chống xói lở thỉnh
thoảng lại xuất hiện từng đoạn trên các dòng sông
trông như những "mảng cơm cháy". Nhiều nhà cửa ngang
nhiên xây lấn ra sông... Tệ hơn là những nhà vệ sinh
của nhiều hộ dân ven bờ cứ thản nhiên... quay mặt ra
sông với đầy vẻ thách thức!
Tất cả những tệ hại này đều tồn tại triền miên với
sự lạnh lùng thờ ơ của chính quyền CSVN ở mọi cấp.
Khẩu hiệu "sống chết mặc bay" được phát huy tối đa!
www.vnn-news.com/
6- Vĩnh biệt những dòng sông xanh
Với những ưu đãi về hệ thống sông-kênh-rạch do thiên
nhiên ban tặng, Thành phố Hồ Chí Minh có lợi thế rất
lớn để xây dựng thành một đô thị kiểu mẫu, vừa xanh
sạch đẹp vừa phát triển bền vững. Thế nhưng lợi thế
đó không những không được tận dụng, phát huy mà lại
ngày càng bị “vùi dập” trong sự buông lỏng và thờ ơ.
Sông rạch “ra đi” vì sức ép tăng trưởng Theo một
lãnh đạo của Khu Đường sông, tình trạng sông rạch bị
“băm nát” hiện nay chủ yếu là do sự thiếu kiên quyết
trong xử lý của các cơ quan liên quan, nhất là khi
có “tác động” của một vài “tiếng nói trọng lượng”.
Do vậy, hầu hết các vụ lấn chiếm cộm cán đều bị bỏ
qua.
Điển hình là vụ san lấp 45.000 mét vuông rạch Ông
Kích (quận 7), san lấp 1.500 mét vuông kênh Tham
Lương (quận 12), vụ lấn sông Sài Gòn xây biệt thự ở
quận 2… Không chỉ vụ lớn mà nhiều vụ lấn chiếm nhỏ
cũng không được xử lý rốt ráo.
Theo thống kê của Khu Đường sông, từ năm 2000 đến
2004, Khu Đường sông đã phát hiện 138 vụ lấn chiếm
sông rạch, đã lập biên bản nhưng đến nay vẫn tồn
đọng 24 vụ “khó xử”. Năm 2005 cũng để lại 6 vụ “lửng
lơ”.
Không chỉ yếu kém, nửa vời trong xử lý vi phạm, vấn
đề duy tu, bảo dưỡng kênh rạch cũng còn quá hời hợt.
Theo Công ty Thoát nước đô thị Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2005 vừa qua công ty chỉ được cấp 2,5 tỷ
đồng để nạo vét và vớt rác cho hơn 2,5 kilômét kênh
rạch có chức năng tiêu thoát nước trong khi con số
đề nghị là 30kilômét, chưa kể trên 100 kilômét sông
rạch còn lại cũng bị bồi lắng không kém. Vì thế
không có gì ngạc nhiên khi ngày càng có nhiều kênh
rạch bỗng dưng “biến mất”.
Đầu tháng 3-2006, các cán bộ kỹ thuật của Công ty
Thoát nước đã tìm không… ra rạch Tên Lửa (huyện Bình
Chánh) trên thực địa vì con rạch này đã biến mất
hoàn toàn. Còn ở Gò Vấp, rạch Bà Miên cũng bị lấn
chiếm gần hết.
Chỉ riêng hệ thống sông rạch có chức năng giao thông
thủy của Thành phố Hồ Chí Minh cũng ngày càng suy
giảm. Trước năm 2001, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có
khoảng 975 kilômét đường thủy nhưng hiện nay số được
phân cấp quản lý chỉ còn 700 kilômét.
Theo đánh giá của một chuyên gia tham gia lập quy
hoạch mạng lưới đường thủy và cảng-bến Thành phố Hồ
Chí Minh, thực trạng trên là do quản lý thiếu sâu
sát. Một nguyên nhân nữa làm cho chức năng giao
thông thủy của kênh rạch Thành phố Hồ Chí Minh bị tê
liệt là có quá nhiều cầu trên sông rạch với độ tĩnh
không quá thấp. Theo thống kê chưa đầy đủ, Thành phố
có khoảng 236 cây cầu, trong đó có tới 208 chiếc có
độ tĩnh không nhỏ hơn hoặc bằng 3 mét.
Chức năng “sinh thái” của sông-kênh-rạch Thành phố
Hồ Chí Minh cũng hầu như không còn. Theo thống kê
của một đơn vị tư vấn, mỗi ngày sông rạch Thành phố
Hồ Chí Minh tiếp nhận khoảng 700.000 mét khối nước
thải. Còn theo Sở Tài nguyên-Môi trường, Thành phố
Hồ Chí Minh hiện có 11 khu công nghiệp, 3 khu chế
xuất, 1 khu công nghệ cao và 30 cụm công nghiệp với
cả ngàn doanh nghiệp đang hoạt động, chưa kể hàng
ngàn doanh nghiệp nằm ngoài khu vực trên. Hệ quả là
mỗi tháng lượng chất thải công nghiệp lên tới 54.833
tấn, trong đó có 5.530 tấn chất thải nguy hại!
Và điều đáng lo ngại là đến nay Thành phố Hồ Chí
Minh vẫn chưa có khu xử lý chất thải công nghiệp và
bãi chôn lấp chất thải rắn công nghiệp, chất thải
nguy hại. Do vậy, hầu hết sông rạch của Thành phố Hồ
Chí Minh đều đã trở thành “dòng sông chết” vì các
chỉ số: BOD (nhu cầu ôxy sinh hóa) gấp gần cả chục
lần mức cho phép, trị số ôxy hòa tan bằng 0, ô nhiễm
vi sinh, hàm lượng coliform vượt tiêu chuẩn hàng
ngàn lần...
Nên có quy chế đặc thù và chiến lược rõ ràng.
Theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Tôn Nữ Quỳnh Trân, Giám
đốc Trung tâm Nghiên cứu đô thị-phát triển Thành phố
Hồ Chí Minh, do đô thị hóa, sông rạch ở thành phố
tuy đã giảm sút chức năng vận chuyển hàng hóa nhưng
vẫn còn tiềm năng du lịch sinh thái khá lớn.
Bà cho biết, nhiều thành phố lớn trên thế giới đã
biết bảo tồn và tận dụng những lợi thế tương tự
thành phố để vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng
nguồn thu đáng kể vừa tạo ra môi trường sống sạch
đẹp, văn minh.
Để làm được việc này, bà Trân cho biết thêm, các
thành phố lớn đó đều có luật đô thị. Đối với điều
kiện Thành phố Hồ Chí Minh, hướng đi phù hợp là tăng
cường năng lực về tài chính lẫn nhân lực cho các cơ
quan quản lý liên quan hiện có, đặc biệt là phải có
“nhạc trưởng” và cơ chế nhất định để các bên liên
quan có được sự điều phối và chỉ đạo thống nhất chứ
không thể “hành xử” ngẫu hứng như hiện nay.
Còn theo Giáo sư - Tiến sĩ Lâm Minh Triết, nguyên
Viện trưởng Viện Tài nguyên-Môi trường (Đại học quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh) thì trước mắt nên tăng
mức xử phạt các vi phạm để tránh chuyện tái phạm
cũng như tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng
hệ thống xử lý chất thải vì chi phí đầu tư và vận
hành một hệ thống xử lý thường khá cao.
Về căn cơ, không chỉ đề ra các đề án, hô hào các
chương trình hành động mà phải triển khai cấp tốc
những chiến lược quản lý tài nguyên và môi trường
với mục tiêu rõ ràng, cụ thể. Chẳng hạn như chiến
lược nâng cao ý thức cộng đồng, bảo vệ nguồn nước,
quản lý chất thải sinh hoạt và chất thải công
nghiệp… Những chiến lược này phải được thực hiện
thường xuyên và liên tục chứ không thể làm theo kiểu
“đánh trống bỏ dùi”, “đến hẹn lại lên”.
Bên cạnh đó cũng phải nhanh chóng hoàn thiện các
hành lang pháp lý, tạo cơ sở vững mạnh cho hoạt động
bảo vệ và tôn tạo môi trường. Ngoài ra, để giảm bớt
sự quá tải cho các cơ quan nhà nước, nên xây dựng
quy chế xã hội hóa công tác quản lý môi trường, nhất
là đẩy nhanh tiến độ xã hội hóa việc quản lý-xử lý
chất thải công nghiệp bằng nhiều chính sách ưu đãi
để khuyến khích, thu hút nhiều thành phần trong xã
hội tham gia vào lĩnh vực này.
Thực trạng về những dòng sông đã chết và đang hấp
hối được nêu lên trong loạt bài này (dù chắc chắn là
chưa đầy đủ) đã đặt ra một đòi hỏi bức xúc: Nhà nước
cần có biện pháp khẩn cấp và mạnh mẽ để chấm dứt
ngay tình trạng lấn chiếm và làm ô nhiễm những dòng
sông.
Không phải đợi đến vài mươi năm sau để cho con cháu
chúng ta trả giá mà ngay bây giờ đã có một thông tin
đáng báo động: Sông Đồng Nai – nguồn nước chính cung
cấp cho Thành phố Hồ Chí Minh – đã vượt mức ô nhiễm
cho phép.
Văn Cương (Theo SGGP)
http://www.cefurds.com/index.php?option=com_content&task=view&id=30&Itemid=31
http://vietbao.vn/Khoa-hoc/Bao-dong-do-ve-nhung-dong-song-dang-hap-hoi/20684226/188/
7- Báo động đỏ về những dòng sông đang hấp hối
Thứ sáu, 13 Tháng tư 2007, 07:39 GMT+7
Theo một báo cáo của Bộ Tài nguyên - môi trường công
bố hôm qua 12/4 tại một cuộc hội thảo, ô nhiễm môi
trường tập trung vào tình hình ở ba lưu vực sông
Cầu, Nhuệ - Đáy và hệ thống sông Đồng Nai.
Thái Nguyên điêu đứng với sông Cầu
Các tỉnh liên quan tới lưu vực sông Cầu gồm Bắc Kạn,
Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải
Dương, Hà Nội. Mật độ dân số 427 người/km2 (cao hơn
hai lần mật độ trung bình cả nước), có 800 cơ sở sản
xuất công nghiệp, 200 làng nghề và 1.200 cơ sở y tế.
Trong các tỉnh có sông Cầu đi qua, Thái Nguyên bị ô
nhiễm rõ rệt, đặc biệt là đoạn sông chảy qua thành
phố. Nước sông đục, có màu đen nâu và bốc mùi. Hoạt
động sản xuất công nghiệp là thủ phạm chính. Nước
thải của Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ đặt ngay trong
thành phố xả thẳng vào các nhánh nhỏ dẫn ra sông
Cầu, gồm các chất ô nhiễm vô cơ, xơ sợi khó lắng, độ
kiềm cao. Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên chảy
vào con sông này với lưu lượng khoảng 1,3 triệu
m3/năm và “ban tặng” cho dòng sông nhiều chất ô
nhiễm độc hại như dầu mỡ, phenol và cyanure.
Ngoài sản xuất công nghiệp, các hoạt động nông
nghiệp cũng góp phần gây ô nhiễm nghiêm trọng. Lưu
vực sông Cầu tiếp nhận thêm ít nhất 180.000 tấn phân
hóa học và 1.500 tấn thuốc trừ sâu mỗi năm!
Nước thải sinh hoạt hại sông Nhuệ - Đáy
Rác ở chân cầu sông Tô Lịch (Hà Nội) - Ảnh tư liệu
Sông Nhuệ - Đáy liên quan đến Hà Nội, Hà Tây, Hà
Nam, Hòa Bình, Ninh Bình, Nam Định. Mật độ dân số
874 người/km2. Có trên 4.000 cơ sở sản xuất công
nghiệp, 458 làng nghề và 1.400 cơ sở y tế.
Với lưu vực sông Nhuệ - Đáy, báo cáo đưa ra khẳng
định: các sông nội thành Hà Nội bị ô nhiễm nghiêm
trọng khi mọi thông số đo được đều vượt nhiều lần
tiêu chuẩn cho phép. Các con sông khác thuộc lưu vực
này như sông Châu Giang, sông Tích, sông Hoàng Long,
sông Đào đều bị ô nhiễm. Đặc trưng ô nhiễm của lưu
vực sông này là nước thải sinh hoạt đóng góp tỉ lệ
lớn nhất, trong đó thành phố Hà Nội đóng góp 54%
lượng nước thải sinh hoạt toàn lưu vực.
Công nghiệp & nuôi trồng thủy sản “giết” sông Đồng
Nai
Hệ thống sông Đồng Nai ảnh hưởng đến Đắc Nông, Lâm
Đồng, Bình Phước, Đồng Nai, Bình Thuận, Ninh Thuận,
Tây Ninh, Bình Dương, TP.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Long An. Mật độ dân số 269 người/km2. Có hơn 9.000
cơ sở sản xuất công nghiệp, 491 làng nghề và 1.633
cơ sở y tế.
Do trải rộng trên nhiều tỉnh, hệ thống sông Đồng Nai
chịu tác động cùng lúc từ nhiều nguồn nên phần hạ
lưu của nhiều sông trong lưu vực đã bị ô nhiễm
nghiêm trọng, thậm chí có đoạn trở thành sông chết.
Nước sông Đồng Nai, đoạn từ Nhà máy nước Thiện Tân
đến Long Đại có hàm lượng chì vượt tiêu chuẩn cho
phép. Hệ thống sông Sài Gòn chủ yếu bị ô nhiễm chất
hữu cơ với dấu hiệu ô nhiễm kim loại nặng ở một số
nơi. Chất lượng nước của các con sông khác như sông
Bé, Đa Nhim - Đa Dung, Vàm Cỏ, nước ở các ao hồ,
kênh rạch trên lưu vực... đều bị ô nhiễm nặng.
Nghiêm trọng nhất là sông Thị Vải đã có đoạn bị chết
kéo dài từ sau khu vực hợp lưu suối Cả - Đồng Nai
đến Khu công nghiệp Mỹ Xuân. Tác nhân chính gây ô
nhiễm nước trong lưu vực là nước thải từ các cơ sở
sản xuất công nghiệp và các khu công nghiệp, khu chế
xuất. Phần lớn đều xả trực tiếp vào nguồn nước. Một
đặc trưng khác về tác nhân ô nhiễm là hoạt động nuôi
trồng thủy sản trong lưu vực.
(Theo TTXVN, Tuổi Trẻ)
Việt Báo
8- Ô nhiễm môi trường sông Nhuệ ở Hà Nam: Cá “trắng”
đầy sông, người kêu cứu!
09:37' AM - Thứ ba, 02/12/2003
Chúng tôi đến làng chài Châu Thuỷ, Châu Giang (thị
xã Phủ Lý) ngày 28/11, hai ngày sau sự kiện ô nhiễm
chưa từng có xảy ra tại nơi này, sự phẫn uất vì bỗng
nhiên tay trắng và nỗi ám ảnh sinh kế vẫn đầy ứ nơi
đây! Có bà cụ không còn sức mà xao xác ngược xuôi,
chảy nước mắt theo chân chúng tôi đến cuối làng một
hai nhờ kêu cứu giúp làng chài.
5 ngày ám ảnh của Hà Nam
Có lẽ cái đêm 22/11 sẽ còn đè nặng lòng gần 200 hộ
dân làng chài. Dòng nước đen xú uế đã tràn về trong
đêm khắp đoạn sông Nhuệ chảy qua nơi đây. Sáng ra,
mở cửa, điều đập vào mắt trước hết là cảnh cá chết
nổi trắng mặt sông, thậm chí cả những giống nằm sâu
dưới bùn cũng ngóc lên mà chết. Mùi tanh tưởi và hôi
thối xộc lên khiến người ta chỉ có thể gập lưng mà
bỏ chạy. Tình trạng ngày một khủng khiếp hơn trong
suốt mấy ngày sau đó. Thực ra, hai năm gần đây cũng
vào độ thời gian như thế này đều có một vài ngày
nước ô nhiễm chảy về dồn dập khiến cho dòng sông vốn
hiền hoà “trở chứng” và bà con ngư dân “đứt bữa” mấy
ngày. Nhưng ác nghiệt như lần này thì chưa từng bao
giờ xảy ra, bà Phạm Thị Vịnh 81 tuổi khẳng định với
chúng tôi. 200 hộ dân nơi đây và hơn 50 hộ dân sống
dưới thuyền từ cả trăm năm nay chỉ biết có bám vào
đoạn sông Châu Giang này mà sinh sống bằng nghề chài
lưới, nuôi cá,nuôi tôm và hến, không tấc đất canh
tác, không nghề phụ làm thêm... Xưa sông Châu Giang
trong xanh là thế, làm ăn có phần thư thả với bà
con. Nhưng càng gần đây, nước sông ô nhiễm ngày một
nhiều, cá tôm hiếm dần đi, ngay cả đặc sản - con hến
cũng khó khăn mà kiếm. Bà con phải tính đến nuôi cá
lồng, bè, nuôi tôm, nuôi hến. Tính vậy, cả làng có
được 5 người đủ sức làm bè cá. Và trận ô nhiễm này
đi qua, cả 5 người tiên phong ấy đều phải gánh chịu
hậu quả nặng nề, tay trắng. Anh Nguyễn Văn Nam, 45
tuổi, đầu tư gần 70 triệu đồng nuôi cá với tính toán
khi thu có thể đạt cả trăm triệu. Ấy vậy mà mấy ngày
thôi, 3 tấn cá giống, 10 tấn cá thịt của anh đã phơi
bụng đầy sông đem theo cả giấc mơ làm ăn đổi đời và
để lại gánh nợ quá lớn. Không chịu được nỗi mất mát
quá bất ngờ, anh Nguyễn Văn Toàn, một người chí thú
chăn nuôi cá đã bỏ nhà ra đi sau khi phải chấp nhận
cơ nghiệp tan theo những sọt cá vữa nát. Ồn ào không
kém là chuyện của anh Bùi Quốc Ky, người đàn ông
mang bộ mặt lệch méo một nửa, nghe nói lại là hậu
quả của trận “xung đột “ với vợ vì nỗi tiếc của gần
400 triệu đổ vào nuôi cá tan tành. Anh là người mạnh
dạn nhất, đứng ra thuê của HTX nhánh sông dài 2,5 km
chặn lại nuôi cá và cũng phải trả giá lớn nhất. Khi
chúng tôi đến, tình trạng nước sông đã được coi là
như bình thường, nhưng bằng mắt thường cũng có thể
thấy độ “bình thường” ấy quả thật đáng cảnh báo. Vậy
mà, bà con ở đây vẫn phải vo gạo rửa rau trên chính
dòng sông ấy và cũng tắm giặt luôn ở đó. Đã làm gì
có nhiều nhà khoan nổi cái giếng khoan đâu? Bệnh tật
hiển hiện trong nước da mái mái, trong cả sự sần sùi
thô nứt cả da... Những căn bệnh hiểm nghèo đã xuất
hiện ngày một nhiều hơn.
Toàn thị xã mất nước!
Trận ô nhiễm ngày 22/11 không chỉ gây họa cho làng
chài Châu Thuỷ, Châu Giang. Ông Lại Thanh Tuyên -
Phó giám đốc Cty Cấp nước Hà Nam cho biết thêm về
một sự kiện đáng nhớ đối với cả Cty lẫn người dân
toàn thị xã. Với công suất 10.000 m3/ ngày đêm, hoàn
toàn khai thác nước mặt từ sông Đáy, cách đoạn giao
nhau với sông Nhuệ về phía thượng nguồn 550 m, Cty
đã phải ngừng cấp nước vì không thể làm gì hơn được
với dòng nước ô nhiễm nặng nề. Sau đêm 22, Cty đã
phải ngừng cung cấp nước trong ngày 23/11. Ngày
24/11 cấp trở lại được đúng một ngày nhưng liền phải
đóng cửa trong suốt mấy ngày sau đó. Ngày 27/11 mới
trở lại cấp nước bình thường. Trong văn bản ngày
26/11, UBND tỉnh Hà Nam gửi Chính phủ, Bộ Tài nguyên
- Môi trường đã cấp báo tình trạng: “Hiện tại, nước
sông Đáy, cách 20 km từ Phủ Lý về phía thượng lưu
trở xuống rất hôi thối, màu đen đặc, đã làm cho cá
và một số thuỷ sản khác trên các sông nói trên bị
chết rất nhiều. Đặc biệt, nhà máy nước thị xã Phủ Lý
đã phải ngừng hoạt động, nhân dân thị xã Phủ Lý và
dọc ven sông Nhuệ, sông Châu Giang, sông Đáy không
có nước dùng để ăn và sinh hoạt đang trong tình
trạng lo lắng, kiến nghị tỉnh phản ánh tới Chính phủ
và Quốc hội...” Đáng chú ý, đây không phải lần đầu
tiên nhà máy phải đóng cửa vì không thể lọc nước
cung ứng cho dân. Năm 2001 và 2002 đều xảy ra tình
trạng trên, tuy ngày cắt nước có ít hơn, mức độ
thiệt hại cũng không bằng nămnay. Muốn giải quyết
được tình trạng này, một giải pháp cấp bách đã được
đặt ra - di dời trạm bơm nước số 1 của Cty về phía
thượng nguồn 2.000 m nữa, đảm bảo độ sạch tương đối
cho nguồn nước. Tuy nhiên, với Cty, khoản đầu tư 7
tỷ cho việc di dời là trở ngại khó vượt qua suốt từ
năm 2001 đến nay.
Hậu đợt ô nhiễm
Ông Trần Xuân Đoàn, phụ trách Bộ phận Môi trường -
Sở Tài nguyên - Môi trường Hà Nam ước tính sơ bộ,
sau sự việc vừa rồi, ước chừng toàn tuyến thuộc tỉnh
có tới hơn 200.000 hộ dân thuộc 30 xã chịu ảnh
hưởng, nặng nề nhất là 200 hộ dân ở làng chài Châu
Thuỷ, Châu Giang. Dòng chảy đen trànvề các sông khu
vực này lại vào đúng ngày thứ 7, chủ nhật nên phải
đến ngày thứ hai, tỉnh mới báo cáo lên Bộ và Trung
ương đề nghị giải quyết. Để giải quyết tình hình, Bộ
TN - MT đã kiến nghị ngừng trạm bơm xả nước ở HN và
mở cửa xả bơm nước sông Hồng vào, pha loãng độ đậm
đặc ô nhiễm của sông Nhuệ, sông Đáy, sông Châu
Giang. Tình hình nhờ thế mà được cải thiện. Nhưng
giải quyết hậu vấn đề ngày 22 lại là cả một vấn đề
không nhỏ. Dòng sông Nhuệ là dòng chảy thải ra của
Hà Nội và Hà Tây nhưng lại là nguồn cung cấp nước
cho Hà Nam. Đáng chú ý, mới ngày 7/8/2003, 6 tỉnh
lưu vực sông Nhuệ và sông Đáy đã cùng ký vào cam kết
xây dựng đề án ngăn chặn sự ô nhiễm ngày một nghiêm
trọng và bảo vệ môi trường lưu vực hai con sông này.
Thế nhưng, chỉ không đầy mấy tháng sau, sự cố nghiêm
trọng hơn đã xảy ra vào ngày 22 - 27/11, gây thiệt
hại nghiêm trọng như đã kể trên. Phó chủ tịch UBND
tỉnh Hà Nam bức xúc kiến nghị, cần có biện pháp chỉ
đạo ngăn chặn ngay các cơ sở từ đầu nguồn sông Nhuệ
thuộc Hà Nội, Hà Tây xả nước thải chưa xử lý ra sông
Nhuệ. Ông Đỗ Quang Cừ - Giám đốc Sở TN-MT Hà Nam
kiến nghị, mỗi khi xả nước thải từ thượng nguồn
xuống thì HN và Hà Tây cần có thông báo trước mấy
ngày để Hà Nam chuẩn bị tinh thần “đón nhận” , như
thế mới giảm được phần nào thiệt hại cho bà con. Ông
Cừ nhấn mạnh đến viêc cần thành lập sớm Hội đồng 6
tỉnh lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy và phải gắn ngay
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cho hội đồng này để
ngăn chặn việc “tỉnh làm cứ làm, tỉnh gánh chịu cứ
gánh chịu”. Trước mắt, để giải quyết những thiệt hại
vừa xảy ra với bà con làng chài, ông Đỗ Quang Cừ cho
biết, tỉnh đã chỉ đạo điều tra cụ thể thiệt hại để
có cơ chế hỗ trợ cho bà con tái ổn định sản xuất. Độ
mười ngày nữa sẽ đưa ra được phương án hỗ trợ cụ
thể, có thể là xem xét không tính lãi suất số tiền
bà con vay làm lồng cá hoặc tính lãi suất hỗ trợ cho
vay tiếp tiền đầu tư... -ông Cừ nói. Tuy nhiên, cứ
nhìn thực tế, nhân lực chỉ có 3 người và chẳng có
thiết bị đo đạc, quan trắc gì của tổ môi trường
nàycó thể thấy “mươi ngày nữa” hoàn toàn là giới hạn
khó lòng xác định!
Bản thân Hà Nam ngoài việc kêu gọi phía thượng lưu
không xả nước thải trực tiếp ra sông Nhuệ thì cũng
cần nghiêm khắc thực hiện việc cấm xả nước thải trực
tiếp của các đơn vị, DN đóng trên địa bàn. Vừa là
nạn nhân vừa là đối tượng trực tiếp gây tai hoạ là
bài học nhỡn tiền. Ngoài ra, trong khi kêu gọi Trung
ương đề ra chính sách, thể chế hay đầu tư cho những
thiết bị quan trắc, công cụ thực hiện bảo vệ môi
trường, thì vẫn có những việc trong tầm tay tỉnh cần
phải sớm thực hiện. Hãy đặt vấn đề môi trường bên
cạnh những bài toán kinh tế, không chỉ nônnóng phát
triển mà quên đi yếu tố dân sinh.
Lưu Hương
http://muasam247.vn/Desktop.aspx/TinTuc/Chat_luong_song/O_nhiem_moi_truong_song_Nhue_o_Ha_Nam-Ca_trang_day_song_nguoi_keu_cuu/
TPHCM giữa vòng vây ô nhiễm
9- Những dòng kênh bị khai tử
04-04-2006 03:05:13 GMT +7
Nhà sàn trên kênh Lò Gốm đang trở thành ổ chứa mầm
bệnh. Ảnh: B.TRUNG
Hàng trăm ngàn mét khối nước thải từ sản xuất công
nghiệp, khoảng 400 - 500 tấn rác sinh hoạt và 300
tấn phân người đổ vào kênh mỗi ngày
Sống dọc theo kênh rạch được xem là lý tưởng đối với
cư dân nhiều nước trên thế giới, nhưng tại TPHCM
điều đó lại là kinh khủng. Bởi nhiều dòng kênh đã
trở thành ổ chứa mầm bệnh và gây ô nhiễm môi trường.
Con kênh... đen đen
Những mảng rác trôi lềnh bềnh trên kênh Lò Gốm, quận
6
Có lẽ chỉ duy nhất kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè còn đổi
màu lúc nước triều lên để người dân TP biết đến chút
ít màu xanh của nước kênh. Bởi tất cả những dòng
kênh còn lại ở nội thành như Tân Hóa, Lò Gốm, Tàu
Hũ- Bến Nghé... đều rặt một màu đen quánh. Bây giờ,
danh từ kênh thúi, kênh đen đã trở thành tên cho mọi
con kênh của TP. Kênh Tham Lương, Tân Hóa cũng có
lúc đổi màu nhưng là màu đỏ của hóa chất, đầy váng
dầu mỡ. Trên kênh Lò Gốm những bến thuyền neo đậu
trở thành bãi rác trên sông. Theo con nước, rác trôi
dạt đọng vào những dãy nhà sàn trên kênh mang theo
bao hiểm họa.
Dòng kênh Tàu Hũ - Bến Nghé trong xanh, đẹp đẽ ngày
nào giờ cũng đã bị khai tử. Khu vực rạch M5 (cầu
Quới Đước) là khúc kênh bị ô nhiễm nặng nề nhất.
Dòng chảy tại đây bị tắc tạo thành trạng thái tù
đọng khiến chất ô nhiễm tích tụ làm cho nước luôn
bốc mùi hôi thối. Theo Ban Quản lý dự án đại lộ Đông
Tây và môi trường nước TP, chất lượng nước tại kênh
Tàu Hũ- Bến Nghé ngày càng xấu đi, nồng độ SS trong
nước thải đổ vào kênh có thể đạt tới 845 mg/lít -
một chỉ số mà các nhà nghiên cứu cho rằng không có
khả năng duy trì sự sống. Qua khảo sát chất lượng
nước cho thấy các chỉ tiêu vật lý, hóa lý và vi sinh
vật đều vượt tiêu chuẩn Việt Nam quy định. Nồng độ
DO hầu như đều bằng 0 mg/lít khiến các sinh vật
trong nước không thể sống được. Thêm vào đó, nồng độ
thuốc trừ sâu tại kênh đã vượt hàng chục ngàn lần
tiêu chuẩn nước bảo vệ thủy sản. Đặc biệt, số lượng
Coliform vượt quá tiêu chuẩn nhiều lần.
Kênh độc, kênh phóng xạ
Theo nhiều nhà khoa học, chẳng có gì quá đáng khi
gọi một số con kênh của TP là kênh độc. Bởi đó là
môi trường dung dưỡng nhiều chất độc hại gây ảnh
hưởng sức khỏe con người. Mới đây, tại khu vực dọc
kênh Tàu Hũ- Bến Nghé (quận 1) đã bùng phát dịch
muỗi. Thủ phạm không ai khác hơn là dòng kênh tù
đọng. Khu vực rạch Hàng Bàng từng nổi danh với cảnh
người dân “chiến đấu” với muỗi bằng mọi vũ khí từ
vợt điện, nhang muỗi đến đốt lửa xua muỗi. Chính
lượng bùn trong những dòng kênh lâu ngày không được
nạo vét đã dày lên đáng kể và trở thành môi trường
lưu giữ những chất có độc trong nước. Theo Chi cục
Bảo vệ môi trường TP, các con kênh của TP đang bị
bồi lắng, giảm độ sâu, chỉ còn hoạt động được khoảng
50% công suất.
Đó chỉ là những gì có thể ghi nhận bằng mắt thường.
Còn biết bao chất độc từ những nhà máy lớn nhỏ ven
bờ đổ vào kênh không thể nào lường hết hậu quả.
Chính vì thế những kênh Tân Hóa, Tham Lương được gọi
là kênh phóng xạ. Theo ông Trần Cao Ngọc Em, Trưởng
Phân ban Môi trường nước giai đoạn 2, khó đánh giá
chính xác sự tương quan giữa tình trạng sức khỏe của
cộng đồng sống dọc kênh với tình trạng chất lượng
nước trong kênh, nhưng bằng trực quan cũng có thể
thấy rằng sự đe dọa đến sức khỏe cộng đồng là rất
cao. Điều này không đơn giản chỉ là do các yếu tố vi
sinh mà còn do các thành phần độc tố kết hợp với tải
lượng công nghiệp đang hằng ngày hằng giờ thải xuống
kênh.
Nhận diện hung thủ
Theo Chi cục Bảo vệ môi trường TP, nguồn nước mặt
các con sông và hệ thống kênh rạch TP đang bị ô
nhiễm hữu cơ, dầu và vi sinh ngày càng nhiều hơn, độ
ô nhiễm vi sinh ở mức rất cao so với tiêu chuẩn cho
phép... Thủ phạm “giết” các dòng kênh chính là nguồn
nước thải dẫn vào chưa qua xử lý gồm cả nước thải
sinh hoạt của người dân và công nghiệp. Qua khảo sát
sơ bộ, các dòng kênh đang hứng chịu hàng trăm ngàn
mét khối nước thải từ trên 31.000 cơ sở sản xuất
công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp lớn nhỏ. Một thủ
phạm khác chính là rác. Mỗi ngày có khoảng 400 - 500
tấn rác sinh hoạt và 300 tấn phân người trực tiếp
thải xuống các dòng kênh, rạch gây ô nhiễm. Các dự
án cải thiện dòng kênh, xử lý nước thải thực hiện
chậm chạp, vớt rác trên kênh được chăng hay chớ,
khiến hy vọng con kênh TP trở lại màu xanh càng mong
manh.
ĐOÀN PHÚ
Nguồn:
http://www.nld.com.vn/tintuc/chinh-tri-xa-hoi/146939.asp
10- Hà Nội: Những dòng sông… ngừng chảy
09:28:00 16/07/2008
4 con sông trong nội thành Hà Nội: Tô Lịch, Lừ, Sét,
Kim Ngưu giờ đây không còn dòng nước trong xanh, mà
đã biến thành những con mương nước đen kịt bốc mùi
khó ngửi chạy qua khu dân cư đông đúc khiến nhiều
người đau xót và nuối tiếc.
Có người cho rằng, các con sông ở khu vực nội thành
Hà Nội hiện đang biến thành những con mương thoát
nước thải lớn. Cách nói này quả không sai khi 4 con
sông: Tô Lịch, Lừ, Sét, Kim Ngưu với chiều dài
khoảng 36km đang hàng ngày thực hiện chức năng tiếp
nhận, chuyên chở khối lượng khoảng 550.000m3 nước
thải.
Những con sông xanh trong quá khứ
36km là chiều dài của 4 con sông hiện đang đóng vai
trò chủ lực trong việc thoát nước của thành phố.
Nguồn nước thải trong các khu dân cư, khu công
nghiệp theo các đường ống dẫn đổ ra các mương, sau
đó mới đổ ra sông. Theo thống kê của Công ty Thoát
nước Hà Nội, trong khu vực nội thành và quận Long
Biên có khoảng 40 đầu mương với tổng chiều dài là
77,929km.
Theo khảo sát năm 2003 của Sở Khoa học - Môi trường
Hà Nội, sông Tô Lịch có chiều dài 13,5km. Con sông
này bắt nguồn từ cống Bưởi đến đập Thanh Liệt. Tuy
nhiên, theo sử sách, sông Tô Lịch chính là một nhánh
của sông Hồng, đưa nước từ sông Hồng sang sông Nhuệ.
Khi ấy, dòng sông chính là nơi giao thương giữa dân
cư trong vùng. Hai bên sông hình thành những làng
nghề nổi tiếng như Bưởi, Nghĩa Đô, Lũ…
Có tài liệu còn chép rằng, vua Lý Công Uẩn sau khi
dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long đã đi trên con
sông này đến thăm bà con vùng Bưởi. Ngày nay, đi dọc
sông Tô Lịch dễ dàng bắt gặp những đình, đền. Tại
mỗi công trình văn hoá này đều gắn liền với truyền
thuyết từ dòng sông Tô. Do thời gian, đoạn nối giữa
sông Tô Lịch và sông Hồng đã bị lấp. Con sông có
chiều dài 13,5km này chảy men theo đường Bưởi, đường
Láng, đường Kim Giang.
Trước thực tế con sông mang trong mình nhiều giá trị
lịch sử ngày càng bị ô nhiễm nặng, thành phố đã có
chủ trương cải tạo. Tuy nhiên, kết thúc giai đoạn I
của Dự án thoát nước nó mới chỉ dừng lại ở mức độ
nạo vét, kè bờ chứ chưa được nhận lại dòng nước
trong xanh như thủa xa xưa.
Cũng như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Lừ, sông
Sét cũng có những điển tích. Có sách dẫn rằng, sông
Kim Ngưu là một nhánh của sông Tô Lịch. Sông Lừ,
sông Sét lại là những nhánh nhỏ của sông Kim Ngưu.
Như vậy, các con sông hiện đang giữ vai trò thoát
nước thành phố vốn có mối liên hệ với nhau, là một
hệ thống nhất điều hoà nguồn nước của Hà Nội. Tiếc
rằng do tác động của con người đã khiến những ngã ba
sông trong thành phố biến mất.
Và sự làm vẩn đục dòng chảy của con người
Chỉ số ô nhiễm COD (Chemical Oxygen Demand, lượng
oxy cần thiết cho quá trình ôxy hóa các chất hữu cơ
trong nước thành CO2 và H2O), BOD (Biochemical Oxgen
Demand, lượng oxy cần thiết để vi sinh vật tiêu thụ
trong quá trình ôxy hóa chất hữu cơ trong nước) ở 4
con sông nội thành Hà Nội vượt mức cho phép hàng
chục lần…
Tháng 6 vừa qua, Bộ Tài nguyên - Môi trường công bố
kết quả điều tra về các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng ở khu vực sông Nhuệ, sông Đáy. Trong 43
cơ sở báo động đỏ về việc gây ra ô nhiễm môi trường
bị phát hiện và công bố danh tính, thì 66% thuộc về
Hà Nội.
Giá như Hà Nội có đánh giá cụ thể về việc gây ô
nhiễm môi trường trong phạm vi 1 hoặc cả 4 con sông
đang làm chức năng thoát nước khu vực nội thành sẽ
cho kết quả đâu là đơn vị đang gây ô nhiễm trầm
trọng nhất, từ đó tìm ra giải pháp khắc phục hợp lý.
Nói về việc điều tra cơ sở gây ô nhiễm môi trường,
chúng tôi xin dẫn ví dụ về thực trạng này ở cụm công
nghiệp Phú Minh (xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm). Có mặt
tại khu vực này ngày 14/7, chúng tôi tận mắt nhìn
thấy nguồn nước thải công nghiệp chưa qua xử lý của
30 doanh nghiệp chảy ra con mương nhỏ nằm trong khu
dân cư rồi theo sông Pheo ra sông Nhuệ. Trước đây,
khu này vốn là Xí nghiệp Gà Cầu Diễn, sau một thời
gian chuyển đổi nay thành Công ty cổ phần Đầu tư
Việt Hà. Từ năm 1998, Công ty Việt Hà cho các doanh
nghiệp thuê làm nhà xưởng, khu sản xuất.
Từ khi xuất hiện cụm công nghiệp này, người dân tổ
dân phố Phú Minh nhận thấy dòng nước thải ra ở đây
có vấn đề. Nước lúc đen, lúc đỏ, lúc loang vết dầu.
Tìm hiểu, họ mới biết đó là loại nước thải rửa khuôn
mẫu sau khi đúc nhôm, rửa bản kẽm, nhuộm vải, làm
bao bì nhựa… Việc này đã được báo cáo lên cấp chính
quyền xã, huyện, cơ quan môi trường và Ban Giám đốc
Công ty Việt Hà. Tuy nhiên, đến nay thực trạng trên
vẫn chưa được giải quyết dù người dân ở tổ dân phố
Phú Minh đã tự nguyện đóng góp được 30.000.000đ để
cùng xử lý nước thải.
Trao đổi với một lãnh đạo UBND xã Cổ Nhuế, chúng tôi
được biết do cụm công nghiệp này không nằm trong quy
hoạch nên rất khó để đưa ra dự án đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng. Đâu là lời ra cho bài toán cải thiện môi
trường tại khu vực này nói riêng và cho cả dòng sông
Nhuệ vốn dĩ đang ở mức báo động đỏ về mức độ ô
nhiễm?
Cao Hồng - Việt Hà
11- Nhiều dòng sông ở Huế sắp chết!
Dòng Ngự Hà nay chứa đầy bèo Nhật Bản, không còn là
hệ thống thoát nước lý tưởng của TP Huế nữa. Ảnh:
Xuân Hồng
Một trong những yếu tố làm nên vẻ đẹp thơ mộng cho
Huế là những dòng sông chảy qua TP. Nhưng giờ đây,
hầu hết những dòng sông này đều trong tình trạng bị
ô nhiễm nặng do cách xử sự thiếu ý thức của con
người
Bây giờ, trên các dòng sông An Cựu, Ngự Hà, Như Ý,
Đông Ba, Bạch Yến... đủ loại rác và xác súc vật trôi
dày kịt. Ông Nguyễn Văn Thành, Giám đốc Công ty TNHH
Môi trường và Công trình đô thị Huế, cho biết: “Để
ngăn chặn việc ô nhiễm các dòng sông, từ 10 năm nay,
công ty đã dùng thuyền thu gom rác trên các sông,
mỗi ngày khoảng 15 tấn”. Tuy vậy, tình trạng sông
nhiễm bẩn mỗi ngày càng thêm trầm trọng.
Thứ gì cũng thải xuống sông
Những khi mưa to, nhiều gia đình ở gần sông An Cựu
tranh thủ thả từng bao rác bự theo rãnh thoát nước
chảy ra sông. Thường ngày, những hộ dân sống ven bờ
vô tư mang những bao rác xả xuống dòng sông này, dù
dọc bờ sông đã có sẵn các thùng đựng rác. Hiện sông
An Cựu còn đang bị bèo hoa dâu và cỏ dại lấn chiếm,
ngăn chặn dòng chảy. Cách đây 10 năm, An Cựu là một
trong những con sông đẹp của TP Huế nhờ làn nước
trong xanh. Nhưng từ khi thượng nguồn con sông này
bị ngăn lại để chống nhiễm nước mặn, màu nước sông
trở nên đen ngòm, đầy rác rưởi.
Các sông Đông Ba, Ngự Hà cũng chung số phận. Vì bị
rác ngăn cản dòng chảy nên lòng sông không những
không được lưu thông, mà ngày càng hẹp lại, cạn dần.
Nước sông Đông Ba đen ngòm như vậy nhưng là nguồn
nước sinh hoạt chính của người dân vạn đò. Sông Ngự
Hà nay chứa đầy bèo Nhật Bản, không còn là hệ thống
thoát nước lý tưởng của TP Huế nữa. Theo ông Nguyễn
Văn Thành, những người dân vạn đò chính là thủ phạm
xả rác, gây ô nhiễm sông Đông Ba và Ngự Hà. Hơn
1.000 hộ với 6.168 nhân khẩu vạn đò bao lâu nay đã
lấy sông làm... bãi rác, thải xuống đó mọi thứ dơ
bẩn, xú uế...
Sông Hương xinh đẹp cũng đang trong tình trạng ô
nhiễm đáng báo động. Tại phía thượng nguồn, nạn khai
thác cát bừa bãi, cùng với nạn phá rừng vô tội vạ đã
khiến cho đôi bờ sông biến dạng, xói lở, nước sông
đục ngầu vào mùa mưa lũ. Chưa hết, hàng chục chiếc
thuyền chở khách nghe ca Huế mỗi đêm đã thả xuống
dòng sông thơ mộng này hàng trăm ngọn đèn giấy (hoa
đăng). Sông trơ mình hứng giấy, rác mỗi đêm, ngày.
“Đầu độc” sông bằng nước thải
Không chỉ vậy, sông Hương còn bị đầu độc bằng rác
thải. Ông Nguyễn Việt Hùng, Trưởng Phòng Môi trường,
Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh Thừa Thiên - Huế,
cho hay: “Không ít đơn vị sản xuất, kinh doanh đã
thải nước bẩn vô tội vạ xuống dòng sông này. Cơ sở
sản xuất Sơn H.G ở Khu Công nghiệp Phú Bài đã đẩy
hóa chất xuống sông Phú Bài (một nhánh của sông
Hương). Điều này không chỉ gây ô nhiễm dòng sông, mà
có ảnh hưởng đến sức khỏe người dân sống ở khu vực.
Sự việc kéo dài hàng chục năm nay, nhưng cơ sở này
vẫn chưa có phương án giải quyết”.
Bên cạnh đó, sông Hương còn hứng trọn nguồn nước cực
bẩn thải ra mỗi ngày từ chợ Đông Ba, do hệ thống xử
lý nước thải của ngôi chợ lớn nhất Huế này đã quá
tải.
http://www.nld.com.vn/tintuc/phap-luat/195391.asp
12- Nỗi lo từ các dòng sông
08:32, 16/6/2008 (GMT+7)
Đà Nẵng hội tụ đủ núi, sông, hồ và biển cả. Đặc
biệt, Đà Nẵng có những dòng sông hiền hòa chảy qua
giữa lòng thành phố, tô điểm thêm vẻ đẹp của một đô
thị trung độ cả nước. Thế nhưng, trước quá trình đô
thị hóa, CNH và HĐH, những dòng sông trong xanh thuở
nào đang đứng trước hiểm họa về ô nhiễm môi trường.
Các chất thải của các hộ 2 bên bờ sông đều đổ vào
sông Phú Lộc.
Từ trước đến nay, ta chỉ cảm nhận việc ô nhiễm môi
trường của hệ thống sông ngòi trên địa bàn thành phố
bằng cảm quan nên chưa hiểu hết thực tế về mức độ ô
nhiễm. Với những thông số khoa học nghiên cứu dưới
đây, sẽ giúp chúng ta đánh giá chính xác hơn về mức
độ ô nhiễm môi trường trên những dòng sông của quê
hương.
Đầu tiên xin đề cập đến sông Hàn, dòng sông lớn
nhất, chảy qua giữa lòng thành phố. Trong những năm
gần đây, cùng với quá trình đô thị hóa, nước sông
Hàn đã có biểu hiện ô nhiễm coliform trên toàn lưu
vực (trừ vị trí ngã ba cầu Tuyên Sơn), có thời điểm
hàm lượng coliform rất cao, mật độ coliform vượt
tiêu chuẩn và mức độ vượt trung bình hằng năm dao
động từ 1 đến 13 lần.
Ngoài ra tình trạng nhiễm mặn hằng năm trên hệ thống
sông này rất đáng lưu ý. Độ mặn trung bình đo được
tại một số điểm vào mùa khô trung bình nhiều năm từ
2,0%0 đến 3,8%0 . Theo các nhà nghiên cứu môi trường
ở Đà Nẵng cho biết, từ năm 1998 đến nay, tình trạng
nhiễm mặn nước sông thường xảy ra vào các tháng mùa
khô trên diện rộng ở hạ lưu các con sông dẫn đến
tình trạng thiếu nước ngọt cung cấp cho khu vực nội
thị…
Tại sông Cu Đê, chất lượng nước tại khu vực hạ lưu
đã bắt đầu ô nhiễm và ngày càng trở nên nghiêm trọng
do nước thải của các khu công nghiệp Hòa Khánh, Liên
Chiểu và Cụm CN Thanh Vinh… chưa được xử lý đã thải
trực tiếp vào khu vực này (khoảng 10.000 m3/ngày
đêm).
Qua kết quả quan trắc chất lượng nước sông Cu Đê của
các nhà nghiên cứu môi trường thì ở khu vực này có
rất nhiều thông số vượt tiêu chuẩn cho phép, cụ thể:
dầu mỡ vượt từ 3 đến 10 lần, chất dinh dưỡng (NO2-,
NH4+ , NO3-) vượt từ 1 đến 18 lần, vi sinh vật
(coliform) vượt từ 1 đến 24 lần, đột biến có thời
điểm lên tới 386 lần (năm 2006) và kim loại nặng
vượt từ 1 đến 10 lần…
Toàn bộ nước thải trong Khu công nghiệp dịch vụ thủy
sản Đà Nẵng đều đổ ra hạ lưu dòng sông Hàn.
Có thể nói, hiện nay trên địa bàn thành phố Đà Nẵng,
sông Phú Lộc là dòng sông ô nhiễm môi trường nặng
nhất, mà trong đó 2 đoạn tại hạ lưu bị ô nhiễm
nghiêm trọng nhất là đoạn sông nối với cống đường
Điện Biên Phủ đến đoạn nối với cống Thái Nê; đoạn
sông nối với cống Thái Nê ra đến gần cửa sông. Nước
sông tại khu vực này bị ô nhiễm rất nặng, đồng thời
phát sinh mùi hôi và đã ảnh hưởng xấu đến đời sống,
sức khỏe nhân dân sinh sống ven sông, nhất là nhân
dân phường Thanh Khê Tây và phường Thanh Khê Đông.
Nước sông bị ô nhiễm trầm trọng, đặc biệt là đoạn
giữa của sông nơi có 2 cửa xả lớn (cống Thái Nê và
cống từ đường Điện Biên Phủ) giá trị BOD biến đổi từ
26-98 mg/l, COD là từ 39,9-135 mg/l. Ngoài ra chỉ
tiêu nitơ như amoniac đều cao từ 4,84 đến 11,6 mg/l,
tổng coliform cao tới 4.600-10.200 MPN/100ml. Các
chỉ tiêu đo đạc hầu như vượt xa TCVN 5942-1995 (B).
Kết quả quan trắc vào ngày 16-6-2005 và vào ngày
8-12-2006 cho thấy N-NH4 hầu hết các điểm trên sông
đều vượt tiêu chuẩn từ 1,68-7,65 lần, dầu mỡ vượt từ
3,3-16,7 lần, phenol vượt từ 1,2-3,5 lần.
Thực tế cho thấy, hàm lượng nitơ cao là nguyên nhân
gây ra hiện tượng phú dưỡng trên đoạn sông làm cho
nước có màu xanh và mùi hôi. Ngoài ra, nguyên nhân
gây ô nhiễm nước sông và bốc mùi hôi tại sông Phú
Lộc là do nước sông phải tiếp nhận một lượng lớn
nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý từ lưu vực có
diện tích 800 ha, thông qua 5 tuyến mương thoát nước
thải sinh hoạt; nước thải từ bãi rác Khánh Sơn; nước
thải của cơ sở sản xuất của trung tâm y tế trên địa
bàn quận Thanh Khê…
Những năm qua, thành phố Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng
hạn chế mức độ ô nhiễm môi trường trên các dòng
sông. Nhằm bảo đảm phát triển kinh tế-xã hội thành
phố theo tinh thần Nghị quyết 33/NQ-TW của Bộ Chính
trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng
trong thời kỳ CNH và HĐH đất nước, đồng thời đáp ứng
cho định hướng phát triển du lịch và dịch vụ sau năm
2010 của thành phố và yêu cầu về bảo vệ môi trường
ngày càng cao cho xã hội, Đà Nẵng cần phải định
hướng phát triển thành phố theo hướng bền vững.
Một tin mừng cho thành phố Đà Nẵng là mới đây Ngân
hàng Thế giới đã quyết định hỗ trợ 152,44 triệu USD
cho Dự án Cơ sở hạ tầng ưu tiên tại Đà Nẵng. Mục
tiêu của dự án này là nhằm cải thiện năng lực, hiệu
quả và tính bền vững các dịch vụ đô thị tại thành
phố Đà Nẵng thông qua đầu tư vào việc nâng cấp hạ
tầng đô thị, cải thiện cơ sở hạ tầng về môi trường
(trong đó có việc cải tạo sông Phú Lộc) và xây dựng
hệ thống đường bộ mang tính chiến lược ở một số khu
vực của thành phố…
Bài và ảnh: LÊ VĂN HOA
Bài gốc:
http://baodanang.vn/vn/chinhtrixahoi/tindiaphuong/12458/index.html
Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam
13- Thảm họa ô nhiễm đầu nguồn sông Vàm Cỏ Đông
- Bài 1: Kinh hoàng những… “tiểu Vedan”Chủ nhật,
05/10/2008, 23:56 (GMT+7)
Vụ Công ty Vedan xả nước thải không qua xử lý ra
sông Thị Vải được báo chí phản ánh thời gian qua đã
gây bức xúc cho người dân cả nước. Từ các xã biên
giới của huyện Châu Thành và Tân Biên (tỉnh Tây
Ninh), nơi đầu nguồn con sông Vàm Cỏ Đông chảy qua,
PV Báo SGGP đã thực hiện cuộc điều tra về những
“tiểu Vedan” – những nhà máy chế biến củ mì (lò mì)
cung cấp nguyên liệu cho Công ty Vedan – đang ngày
đêm xả hàng ngàn m³ nước thải nguy hại xuống sông
Vàm Cỏ Đông, biến một vùng sông nước hiền hòa dọc
con sông này thành những “cánh đồng chết”.
Thâm nhập những “vùng cấm”
Xã Hòa Hiệp, huyện Tân Biên trong chiến tranh chống
Mỹ là vùng căn cứ cách mạng với các địa danh Lò Gò,
Xóm Giữa, suối Bà Sự… nằm sát bên dòng sông Vàm Cỏ
Đông - nơi có đường biên giới Việt Nam - Campuchia
chạy qua. Chỉ cách nay hơn chục năm, xã biên giới
Hòa Hiệp vẫn còn ngút ngàn những cánh rừng già nối
với Khu bảo tồn thiên nhiên Lò Gò - Xa Mát.
Nhưng nay, thay vào đó là những cánh đồng mì xanh
rì, ngút mắt và kéo theo đó là các nhà máy chế biến
tinh bột khoai mì mọc lên. Đầu tiên là lò mì của
Công ty Hiệp Long Hương với công suất vài trăm
tấn/ngày; sau đến lò mì Sầm Nhất, Sầm Nhị (ấp Hòa
Bình), rồi Minh Tuyền (ấp Hòa Đông B)… đều có công
suất từ 500 - 700 tấn/ngày.
Hệ thống van được giấu kín dưới lòng đất mà PV Báo
SGGP phát hiện được tại lò mì Sầm Nhất. Chỉ cần gạt
nhẹ van, hàng trăm m³ nước thải độc hại sẽ đổ ra
suối Bà Sự.
Không kể lúc trời mưa, nắng gắt, lúc nào Tiến - một
thanh niên ấp Hòa Bình, cũng sẵn sàng dẫn đường cho
tôi thâm nhập những “vùng cấm” tại các lò mì dọc
theo suối Bà Sự, suối Cạn, suối Tre…
Nói là “vùng cấm” bởi nhà máy nào phía sau cũng được
bố trí hệ thống dẫn nước thải từ nhà máy ra các hầm
chứa rồi đổ xuống suối qua các van giấu kín dưới
lòng đất. Để qua mắt được bảo vệ các nhà máy, chúng
tôi phải giả làm người đi soi ếch, bám theo dòng
suối lần tìm “đường ra” của các ống xả rồi ngược tới
các hầm chứa thứ nước đen xì, hôi thối không sao tả
nổi được giấu kín trong những rặng cây, vạt cỏ đã bị
cháy sém vì ô nhiễm.
Chúng tôi men theo suối Bà Sự đoạn từ cầu Bà Sự để
thâm nhập vào “vùng cấm” của lò mì Sầm Nhất và Sầm
Nhị. Vượt qua đoạn bờ suối nhô lên dưới rặng tre,
chúng tôi phát hiện một “cửa ra” nằm sâu dưới lòng
đất. Gạt những cành tre phía trên và chỉ bới lớp lá,
hệ thống van đã lộ ra. Chỉ cần gạt nhẹ cánh van,
dòng nước đen ngòm từ những hầm chứa cách đó hơn
chục mét đã ùng ục chảy ra dòng suối.
Lách sang bờ suối bên phải, chúng tôi phát hiện một
rãnh nước thải lộ thiên chảy ra thứ nước trắng xát.
Lội ngược theo rãnh nước với hai bên vạt cỏ đã vàng
cháy, Tiến bảo: “Nước thải của lò Sầm Nhị chảy ra
đây”.
Đi vào đống củi phía trong lò, chúng tôi phát hiện
một đường nước chảy ngầm thoát ra. Đây chính là hệ
thống xả nước thải mà Nhà máy Sầm Nhị chưa kịp chôn
dưới đất và cứ thế “lộ thiên” chảy thẳng xuống suối
Bà Sự.
Rời suối Bà Sự, chúng tôi qua xã Tân Phong nằm sát
quốc lộ 22B đi Tân Biên. Gần tới ngã ba Cây Gòn, mùi
hôi thối đã nồng nặc bốc ra. Chỉ cách ngã ba hơn
trăm mét là tới cổng chính của Công ty LD Tapioca
Việt Nam chuyên chế biến tinh bột khoai mì cho Công
ty Vedan. Từ cầu D.14, men theo dòng suối Cạn, chúng
tôi thâm nhập “vùng cấm” nằm phía sau nhà máy.
Đi chừng gần cây số, đã thấy những bờ đất bao quanh
như con đê. Tiến nói: “Phía bên kia chắc chắn là
những hầm chứa nước thải”. Để tìm “cửa ra” của những
hầm chứa này, chúng tôi phải đi thêm một đoạn gần
1km nữa mới phát hiện những đường nước được làm rất
kín, ẩn dưới vạt cỏ, bờ tre.
Thật không thể tin được, trước mắt chúng tôi là gần
chục hầm (mỗi hầm có diện tích khoảng vài ngàn m²)
chứa những thứ nước đen đặc, hôi thối nồng nặc, kết
thành từng khối như tảng băng. Vào sát nhà máy,
chúng tôi phát hiện một đường ống lộ thiên ào ạt đổ
ra một dòng nước trắng xát, đặc sệt. Khu hầm chứa
này ước khoảng hơn chục ha và mỗi ngày có gần
1.000m³ nước thải từ đây chưa qua xử lý được đổ
thẳng xuống suối Cạn.
“Vô tư” xả nước thải ra sông Vàm Cỏ Đông
Một miệng cống xả trực tiếp nước thải không qua xử
lý ra hầm chứa tại Công ty LD Tapioca. Từ đây nước
thải được đổ ra suối Cạn rồi chảy thẳng ra sông Vàm
Cỏ Đông. Ảnh: HOÀI NAM
Đặc điểm của các nhà máy chế biến tinh bột khoai mì
là bao giờ cũng nằm gần sông, suối. Ngay như suối Bà
Sự, đoạn đi qua ấp Hòa Bình và Hòa Đông B cũng đã có
3 nhà máy, có nhà máy chỉ cách nhau vài chục mét. Hệ
thống nước thải của các nhà máy này thường được
thiết kế theo dạng bậc thang.
Từ nhà máy, nước thải được chảy lộ thiên, hoặc trong
những đường ống rồi dẫn ra một hầm chứa. Từ đây,
nước thải được phân ra thành nhiều nhánh, đi qua từ
2 đến 3 hầm chứa nữa rồi “nằm” lại, sau đó xì qua
những cửa van chảy thẳng ra suối.
Nhà máy mì Sầm Nhất và Sầm Nhị đặt bên suối Bà Sự
chỉ cách sông Vàm Cỏ Đông vài trăm mét. Chỉ mươi
phút sau khi hầm chứa mở van là thứ nước đen đục,
nhờ nhờ sẽ tuôn ra, hòa vào dòng nước sông Vàm Cỏ
Đông.
Còn các lò mì nằm phía suối Cạn và suối Tre nước
thải phải chảy vòng qua ngã Ba Vịnh mất 3 – 5km, sau
đó mới đổ ra sông Vàm Cỏ Đông.
Từ xã Hòa Hiệp, chúng tôi đi về phía hạ lưu sông Vàm
Cỏ Đông. Đến địa phận xã An Cơ (huyện Châu Thành) đã
thấy xuất hiện 2 tháp nhà máy chế biến tinh bột
khoai mì cao ngất nằm ngay trong khu dân cư thuộc ấp
An Lộc.
Một người dân cho biết, hai anh em Sầm Phát, Sầm Hên
đã xây 2 nhà máy này gần chục năm qua. Hai nhà máy
mì Sầm Nhất và Sầm Nhị mà chúng tôi đề cập ở phần
trên là tên hai anh em ruột, con của chủ lò mì Sầm
Hên.
Thâm nhập vào “vùng cấm” của lò mì Sầm Phát và Sầm
Hên, chúng tôi phát hiện hệ thống chứa nước thải
cũng giống y như lò Sầm Nhất và Sầm Nhị. Chỉ có
điều, hệ thống dẫn nước và hầm chứa của lò Sầm Phát
và Sầm Hên được xử lý có vẻ “bài bản” hơn nhờ các
hầm chứa giữ nước lâu hơn mới xả ra suối.
Nếu lò Sầm Phát xả nước thải ra kênh Bà Đằng, thì lò
Sầm Hên xả ra kênh Tiêu. Tất cả thứ nước đen đặc,
hôi thối nồng nặc đó đều được xả hết ra sông Vàm Cỏ
Đông. Và trên đường chảy của nó, thứ nước thải độc
hại kia đi đến đâu là “tàn sát” môi trường đến đó.
Bài 2: Những “cánh đồng chết”
http://www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2008/10/167392/
14- Gần 30 nghìn tấn chất ô nhiễm xả ra sông Nhuệ - Đáy mỗi ngày
20:19 | 27 - 08 - 2008
Bản đồ lưu vực sông Nhuệ - Đáy.
(LĐĐT) - Ước tính tải lượng các thông số ô nhiễm từ nước thải sinh hoạt được đưa
vào môi trường nước lưu vực sông Nhuệ - Đáy là khoảng 15 nghìn tấn/ ngày. Trong
khi đó, nước thải sinh hoạt chiếm 56% tổng lượng nước thải.
Các thông số ô nhiễm gồm COD, BOD, nitơ, phốt-pho, coliform, dầu, SS.
Do đó, ngày 27.8, tại Hà Nội, đông đảo các nhà khoa học, nhà quản lý, chuyên gia
về lĩnh vực môi trường trong nước và quốc tế đã đóng góp nhiều ý kiến cho kế
hoạch triển khai Đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ- sông Đáy
(do Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND Thành phố Hà Nội tổ chức) để hạn chế, giảm
thiểu ô nhiễm suy thoái môi trường lưu vực dòng sông này.
Hiện trạng ô nhiễm
Lưu vực sông Nhuệ-Đáy có diện tích tự nhiên 7.665km2, chảy qua các tỉnh, thành
phố Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Hoà Bình và Ninh Bình. Lưu vực sông Nhuệ-Đáy là
một trong những lưu vực sông lớn của Việt Nam, giữ vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, môi trường, chất lượng nước nguồn lưu vực sông
Nhuệ - Đáy đang ngày càng suy thoái do chịu sự tác động mạnh từ sự phát triển
kinh tế - xã hội của các địa phương trong lưu vực.
Hiện nay, phần lớn nước ở lưu vực đã bị ô nhiễm hữu cơ, có nơi ở mức nghiêm
trọng với các chỉ tiêu BOD5, COD, NH4, coliform,... cao hơn tiêu chuẩn cho phép
nhiều lần. Chất lượng nước sông Nhuệ (Hà Nội) bị ô nhiễm nặng nhất do phải tiếp
nhận nước thải của sông Tô Lịch. Còn nước sông Đáy và các sông khác bị ô nhiễm
nhẹ hơn nhưng mang tính cục bộ với ô nhiễm tăng cao vào mùa khô.
Nguyên nhân do nước thải của các hoạt động sản xuất công nông nghiệp, y tế, tiểu
thủ công nghiệp ở các làng nghề, nước thải sinh hoạt không được xử lý xả trực
tiếp vào các con sông. Hiện trên lưu vực sông Nhuệ-Đáy có hơn 4.000 doanh nghiệp
nằm trong 8 khu công nghiệp-cụm công nghiệp (KCN-CCN), 266 cơ sở ngoài KCN-CCN,
hơn 450 làng nghề. Hoạt động sản xuất của các cơ sở này đang phát sinh nhiều
chất thải gây ô nhiễm nặng nề lưu vực các dòng sông.
Bên cạnh đó, nước thải sinh hoạt của hơn 10 triệu cư dân không được xử lý đều đổ
thẳng vào các sông, hồ trong lưu vực. Đây là một nguyên nhân quan trọng làm gia
tăng ô nhiễm.
Đồng thời, tổng lượng chất thải rắn trong lưu vực cũng không ngừng gia tăng,
nhất là đối với khu vực đô thị. Đây là nguyên nhân khiến ô nhiễm nước mặt vẫn
tiếp tục tăng, trong đó các sông trong nội thành Hà Nội bị ô nhiễm nghiêm trọng
nhất.
Từ những nguyên nhân trên dẫn đến nước của các con sông trong đô thị thường có
màu đen, có váng, cặn lắng và mùi tanh.
Cùng chung tay cứu sông Nhuệ-Đáy
Bộ trưởng Bộ TN&MT Phạm Khôi phát biểu tại hội nghị.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên, các hoạt động khai
thác dòng sông cho mục đích kinh tế - xã hội ngày càng gia tăng nên tác động môi
trường sẽ còn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới. Vì vậy, bảo vệ môi trường
các lưu vực sông nói chung cũng như lưu vực sông Nhuệ - Đáy nói riêng là rất cấp
bách. Do đó, ngày 29.4.2008, Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số
57/2008/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ -
sông Đáy với mục tiêu đến năm 2020 sẽ hạn chế, giảm thiểu suy thoái môi trường
lưu vực sông Nhuệ - Đáy.
Tuy nhiên, đây là đề án liên vùng, liên ngành nên cần sự phối hợp chặt chẽ giữa
các bên liên quan để việc triển khai được đồng bộ, thống nhất.
Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo thì đề nghị đề án nên đưa ra lộ
trình cụ thể để từng bước xử lý ô nhiễm, cải thiện, nâng cao chất lượng môi
trường cũng như chất lượng nước các dòng sông nhằm tạo hệ thống dòng chảy ổn
định, bảo vệ các công trình thuỷ lợi an toàn, bền vững. Hệ thống cơ chế, chính
sách cần hợp lý để khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước.
Còn nhiều đại biểu kiến nghị trước hết cần tập trung xử lý nước thải sinh hoạt,
đặc biệt tại Thủ đô Hà Nội (chiếm 54% lượng nước thải của toàn lưu vực); nước
thải công nghiệp tại Hà Nội, Hà Nam; nước thải làng nghề tại Hà Nội, Hà Nam và
Nam Định. Kiểm soát chặt chẽ các khu vực bị ô nhiễm nghiêm trọng là sông Tô Lịch
và các sông hồ trong nội thành Hà Nội, đoạn sông Nhuệ từ thành phố Hà Đông đến
thị xã Phủ Lý, Hà Nam. Hạn chế cấp phép đầu tư năm loại hình công nghiệp có nguy
cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng: chế biến tinh bột sắn, sản xuất hoá chất
cơ bản, nhuộm, thuộc da và sản xuất bột giấy.
Huyền Anh
http://news.maxreading.com/?news=12980
15- Tỉnh "lờ" di tích để làm kinh tế?
12:49 | 11 - 10 - 2008
Bể nước thải của Miwon được xây dựng trên đất của khu di tích lịch sử Làng Cả.
(LĐ) - Kết quả phân tích nước thải công nghiệp của Cty TNHH Miwon VN, do Sở Tài
nguyên - Môi trường tỉnh Phú Thọ công bố ngày 8.10 đã xác định Miwon đổ nước
thải ô nhiễm ra môi trường.
Như vậy, cùng với việc chưa được phép đổ nước thải, nhưng Miwon vẫn cố tình vi
phạm thì đây là sự việc vi phạm nghiêm trọng Luật Bảo vệ môi trường. Tuy nhiên,
điều làm dư luận bức xúc đó là thông tin về việc UBND tỉnh Phú Thọ đã cho Miwon
xây hệ thống bể nước thải trùm lên một phần khu di tích Làng Cả - nơi đã được Bộ
Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử quốc gia.
Di tích lịch sử quốc gia bị xâm hại?
ua ba lần khai quật khu di tích Làng Cả, các nhà khảo cổ đã phát hiện 329 mộ
táng thời kim khí, có niên đại từ nửa cuối thế kỷ 4 đến thế kỷ thứ hai trước
công nguyên, thuộc văn hoá Đông Sơn. Kết quả khảo cổ còn phát hiện được tại Làng
Cả 217 hiện vật tùy táng thuộc các chất liệu đồng, đá và gốm, bao gồm: Rìu,
thuổng, giáo, dao găm, vòng tay, khuyên tai, khoá thắt lưng, thạp, âu, trống
đồng minh khí, chuông, quả cân, hộ tâm phiến, tượng cóc, dao khắc, dùi, đinh....
Mặc dù Làng Cả đã được mang danh là di tích lịch sử quốc gia được xếp hạng ngày
22.8.2006, nhưng ngày 2.10.2006, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ - ông Nguyễn
Ngọc Hải - đã ký Quyết định số 2764/QĐ-UB để thu hồi 40.919m2 đất ở khu vực này,
giao phần diện tích này cho Cty TNHH Miwon VN thuê mở rộng sản xuất, với giá
thuê đất 10.500đ/m2/năm trong thời hạn 36 năm.
Một phần diện tích đất nêu trên đã được Miwon xây dựng trạm xử lý nước thải của
Cty, trong đó có hệ thống bể chứa nước thải dài 90m, rộng 70m, sâu 3m.
Nói về việc này, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Trịnh Sinh - Viện Khảo cổ học, người đã
tham gia khai quật di tích Làng Cả - cho biết: Về tâm linh, việc để bể chứa nước
thải uế tạp cạnh khu di tích lịch sử quan trọng như vậy đã là điều không thể
chấp nhận được, chứ chưa nói đến việc cấp đất cho Miwon mở rộng chiếm mất một
phần đất của khu di tích lịch sử.
Vào thời điểm cuối năm 2005 - đầu 2006, khi mà Miwon xin đất mở rộng nhà máy và
xây dựng bể chứa nước thải, chúng tôi và các cơ quan ngôn luận đã lên tiếng phản
đối rất nhiều. Nhưng không hiểu vì sao UBND tỉnh Phú Thọ và các cơ quan chức
năng đã thỏa thuận với nhau để giao đất cho Miwon.
"Lờ" di tích để làm kinh tế?
Được biết năm 2005, khi tiến hành khảo cổ lần 3 khu di tích Làng Cả, Sở Văn hoá
- Thông tin tỉnh Phú Thọ lúc đó đã lập hồ sơ trình Bộ Văn hoá - Thông tin đề
nghị công nhận Làng Cả là khu di tích lịch sử. Điều này là bằng chứng khẳng định
thời điểm đó, lãnh đạo tỉnh Phú Thọ đã biết rất rõ ý nghĩa đặc biệt quan trọng
của khu khảo cổ Làng Cả.
Về việc tại sao chính quyền địa phương chấp thuận cho Miwon xây bể nước thải
trên khu đất di tích Làng Cả?, phía UBND tỉnh cho rằng: Đây là quyết định của cả
tập thể lãnh đạo địa phương. Phú Thọ là tỉnh còn nghèo, trong khi Miwon là một
doanh nghiệp có đóng góp lớn cho nguồn thu ngân sách địa phương, giải quyết
nhiều công ăn việc làm cho người lao động nên địa phương đã phải rất cân nhắc
khi lựa chọn quyết định này và vấn đề này địa phương đã xin ý kiến và được Bộ
Văn hoá - Thông tin chấp thuận (?).
Tuy nhiên, phía UBND tỉnh Phú Thọ cũng phải thừa nhận: Giá như khu di tích này
hoàn toàn thuần khiết và không có hệ thống nước thải của Miwon thì vẫn hơn (?)
Công Thắng
http://news.maxreading.com/?news=28803
16- Lại nóng lên vấn đề ô nhiễm môi trường
12:54 | 10 - 10 - 2008
Cống thải nước ô nhiễm từ KCN thuỷ sản trực tiếp ra âu thuyền Thọ Quang TP.Đà
Nẵng (vẫn hoạt động chiều 9.10).
(LĐ) - Ngày 9.10, người dân và chính quyền Đà Nẵng ngỡ ngàng trước thông tin
thành phố bị "vuột" mất giải thưởng ASEAN "TP bền vững về môi trường" mà trước
đó, Bộ TNMT đã có văn bản đề cử cho TP.Đà Nẵng.
Trong khi đó, việc xử lý lô phế liệu bẩn, nhập khẩu trái phép của Cty Thành Lợi
vẫn chưa được chính quyền giải quyết dứt điểm, báo cáo Bộ TNMT như cam kết chung
tại cuộc họp trước đó (18.9).
Thứ trưởng Bộ TNMT - ông Trần Hồng Hà - đã có công văn (số 3831-ngày 2.10) gửi
Thủ tướng Chính phủ, báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo về xử lý việc nhập khẩu sắt
thép phế liệu trái quy định của Cty CP thép Thành Lợi, Đà Nẵng (LĐ đã thông
tin). Tại công văn này, Thứ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định: "Lô hàng sắt thép
phế liệu của Cty Thành Lợi chứa nhiều chất thải, trong đó có lẫn chất thải nguy
hại, chưa được xử lý, phân loại, làm sạch trước khi vận chuyển vào VN...; đề
nghị Đà Nẵng sau khi tiêu huỷ tạp chất, phải tịch thu toàn bộ lô hàng sung công
quỹ". Nhưng đến nay Đà Nẵng vẫn chưa thực hiện.
Ngoài ra, theo Thứ trưởng Trần Hồng Hà, kết quả kiểm tra của đoàn liên ngành cho
thấy, các cơ sở được chính quyền Đà Nẵng giao xử lý lô hàng vi phạm chưa đáp ứng
được quy định của pháp luật bảo vệ môi trường. Năng lực công nghệ của các đơn vị
được giao (Cty môi trường đô thị, Cty thép Đà Nẵng - Ý) chưa cho phép xử lý,
tiêu thụ chất thải, đặc biệt là chất thải nguy hại. Để không tạo tiền lệ xấu cho
việc lợi dụng nhập phế liệu để đưa rác thải vào VN, đề nghị Đà Nẵng kiên quyết
không cho nhập các lô hàng còn lại và yêu cầu tái xuất. Tuy nhiên, như LĐ đã
thông tin, cách giải quyết "nương tay" của Đà Nẵng đã khiến Cty Thành Lợi "nhanh
chân" xin tự tiêu huỷ lô hàng gần 400 tấn có chất lượng tương tự lô hàng vi
phạm. Và chính quyền Đà Nẵng đã đồng ý.
Trong diễn biến khác, ngày 31.7, Phó Chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng - Văn Hữu Chiến đã
ký cùng lúc 6 quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với 6 DN tại KCN dịch
vụ thuỷ sản Thọ Quang vì gây ô nhiễm môi trường.
Trước đó, ngày 27.6, Chủ tịch UBND TP đã ký quyết định xử phạt hành chính 6 đơn
vị này với mức từ 20 triệu -33 triệu đồng/DN, buộc đóng cửa đến khi xử lý dứt
điểm tình trạng gây ô nhiễm. Song cho đến nay, các quyết định cưỡng chế nói trên
chưa có hiệu lực. Các DN này vẫn hoạt động bình thường.
Cách giải quyết nương tay, "nhùng nhằng" như vậy đã khiến Đà Nẵng mất điểm tranh
ngôi "TP bền vững về môi trường" trước đồng ứng cử là TP.Hạ Long. Song đáng lo
ngại là mục tiêu xây dựng TP môi trường vào năm 2020 của Đà Nẵng xem ra khó
thành.
Thanh Hải
http://news.maxreading.com/?news=28370
Wednesday, February 15, 2006
17- Những con số đáng sợ về môi trường
Chất thải công nghiệp, sinh hoạt đang gây ô nhiễm trầm trọng kênh rạch ở TP.HCM.
Ảnh: D.Đ.M
Tình hình ô nhiễm môi trường đến mức đáng sợ hiện nay, nhất là tại các đô thị
lớn như TP.HCM, các lưu vực sông, đang từng ngày ảnh hưởng đến sức khỏe của hàng
chục triệu người dân.
Một kết quả phân tích gần đây của Trung tâm phân tích thí nghiệm TP.HCM cho thấy
lượng benzen trong không khí tại các trục giao thông chính của thành phố đã lên
đến mức báo động đỏ với nồng độ benzen trung bình là 33,6 micro gam/m3, cao gấp
6,72 lần tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới là 5 micro gam/m3.
Các nhà khoa học cho rằng nếu dựa vào kết quả này thì nguy cơ mắc bệnh bạch cầu
đối với những người luôn hít thở không khí tại TP.HCM có thể cao gấp 5,4 lần so
với những khu vực khác. Điều đó cũng giải thích vì sao tại các bệnh viện chuyên
ngành, số người mắc các loại bệnh ung thư luôn tăng ở cấp số cộng.
Một thành phố có số dân chiếm đến 1/10 dân số cả nước đang phải đối mặt từng
ngày, từng giờ với một nguồn không khí "bẩn" thì sự tiên liệu về sức lao động
ngày càng giảm sút là điều rất đáng đặt ra và cần khẩn cấp có giải pháp khắc
phục.
Vấn đề nghiêm trọng không kém là tình trạng ô nhiễm trầm trọng trên lưu vực sông
Đồng Nai, nơi cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho TP.HCM và một số tỉnh thành
khác. Bản báo cáo kết quả điều tra công phu gây chấn động tại một hội nghị về
môi trường mới đây của Phó giáo sư - tiến sĩ Huỳnh Thị Minh Hằng và các cộng sự
thuộc Viện Môi trường và Tài nguyên - Đại học Quốc gia TP.HCM cho thấy lưu vực
sông Đồng Nai bị ô nhiễm có ảnh hưởng đến khoảng 15 triệu người sống ở 4 thành
phố trực thuộc tỉnh, 19 quận nội thành của TP.HCM, 8 thị xã và 85 thị trấn.
Sự ô nhiễm ấy xuất phát từ chất thải của 116 khu đô thị có quy mô khác nhau; 47
khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung; trên 50.000 cơ sở sản xuất công nghiệp;
73 bãi rác; hàng nghìn cơ sở chăn nuôi có quy mô công nghiệp; hàng chục bến
cảng... Chỉ tính riêng 47 khu công nghiệp tập trung (trong đó có 16 khu đã có hệ
thống xử lý nước thải tập trung) thì có đến 31 khu công nghiệp xả trực tiếp nước
thải chưa qua xử lý để hòa vào nguồn nước của hệ thống sông Đồng Nai với khoảng
111.605m3 nước thải mỗi ngày, trong lượng nước đó có gần 15 tấn TSS; 19,6 tấn
BOD5; 76,9 tấn COD; 1,6 tấn Nitơ...
Những chất nguy hại đến sức khỏe của con người này đang ngày càng nhiều thêm.
Các nhà khoa học cũng dẫn ra một ví dụ: do việc xả thải vô trách nhiệm các dẫn
xuất phenol có trong dầu hạt điều, 20 công nhân ngành vệ sinh môi trường đã bị
bỏng khi nạo vét khai thông luồng lạch thoát nước ở một tuyến kênh hở thuộc địa
bàn huyện Bình Chánh - TP.HCM. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng nhận định rằng:
"Trên lưu vực hệ thống sông Đồng Nai có rất nhiều dòng thải mà trong thành phần
của chúng có chứa các chất nguy hại như các a-xít, ba-zơ, các kim loại nặng như
Hg, Pb, Zn, Cr, Ni..., thuốc bảo vệ thực vật, dầu mỡ khoáng, vi trùng gây
bệnh... Nếu các dòng thải này không được kiểm soát và quản lý tốt thì khả năng
gây ô nhiễm, hủy hoại môi trường và nguồn nước là rất lớn".
Cũng chính vì mức độ nghiêm trọng đó mà ngày 13/1/2006, Bộ Tài nguyên - Môi
trường đã có công văn gửi 12 tỉnh thành trên lưu vực hệ thống sông Đồng Nai đề
nghị triển khai 8 biện pháp cấp bách, trong đó có những biện pháp cụ thể như bảo
đảm ít nhất 70% các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn
môi trường, tăng mức đầu tư cho bảo vệ môi trường ít nhất là 15% so với mức đầu
tư năm 2005, kiên quyết không cho phép xây dựng các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng có nguy cơ gây sự cố môi trường...
Những biện pháp trên vẫn đang còn trên giấy, trong khi hàng triệu người dân vẫn
đang phải hứng chịu từng ngày sự ô nhiễm môi trường có tác động trực tiếp đến
sức khỏe.
Theo Thanh Niên
http://env-news.blogspot.com/2006/02/nhng-con-s-ng-s-v-mi-trng.html
Ngày 14.07.2008 Giờ 08:31
18- Huế những dòng sông ngưng chảy
Nước trên sông Hương cùng các phụ lưu của nó như sông Đông Ba, sông Như ý, sông
Đào ở Huế đã trở nên ô nhiễm trầm trọng. Nguyên nhân do sự vô ý thức của những
cư dân sống trong lưu vực các con sông này, cũng như tình trạng khai thác cát
sạn bất hợp pháp vẫn diễn ra dai dẳng.
Một nhánh nhỏ sông như ý chảy từ phưòng An Đông đến cầu Vân Dương đã trở thành
cái hói cạn
Sông Như Ý là một nhánh của sông Hương kéo dài từ Đập Đá đến ngã ba làng Vân
Dương phường Xuân Phú, chia thành hai nhánh chảy về xã Thuỷ Vân và cầu ngói
Thanh Toàn. Chiều dài của con sông này gần 3km (tính từ Đập Đá đến ngã ba làng
Vân Dương). Hơn 10 năm nay, nước sông tại đây đã biến dạng hoàn toàn, mặt sông
có nhiều lớp tảo xanh. Chị Lê Thị Bé ở đường Hàn Mặc Tử bức xúc: “Trước đây
nhiều hộ nghèo ở khu vực tái định cư vạn đò phường Vỹ Dạ thường xuyên dùng nước
này để nấu ăn, tắm giặt. Từ ngày sông ô nhiễm, mọi người ở đây không còn dám
dùng nước để rửa rau, vì sợ nước bẩn ăn vào nhiễm bệnh”.
Đó cũng là tâm trạng chung của nhiều gia đình đang sinh sống tại khu vực 4
phường Xuân Phú, Huế nơi có phụ lưu của nhánh sông Như Ý kéo dài từ phía phường
An Đông đến cầu Vân Dương. Hai bên dòng sông này có gần 300 hộ dân sinh sống.
Nước thải, bèo, tre, chằng chịt đã làm cho sông trở thành một cái hói cạn. Đó
cũng là lý do khi mùa mưa lũ vùng này toàn là nước đọng, không thể thoát được,
gây ngập úng trong nhiều ngày. Ông Nguyễn Hiền ở khu vực 4, phường Xuân Phú nói:
“Mong sao Nhà nước sớm tiến hành nạo vét lòng sông để người dân bớt khổ, đây là
“rốn lũ” của thành phố Huế nếu không tiến hành khơi thông dòng chảy thì việc
nước bẩn tồn đọng sẽ đem đến dịch bệnh, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người dân”.
Đặc biệt tại một nhánh nhỏ của sông Như Ý kéo dài qua hai xã Thuỷ Vân, Thuỷ
Thanh và một phần thuộc phường Vỹ Dạ tình trạng ô nhiễm và hoa lục bình dày đặc
đã được báo động trong nhiều năm nay, nhưng “lực bất tòng tâm”.
Trên sông Hương và sông Đông Ba hiện nay tồn tại rất nhiều điểm thoát nước thải
bẩn chưa qua xử lý, nhất là khu vực phía sau chợ Đông Ba. Hằng ngày, toàn bộ
nước thải phía sau hàng cá, hải sản đều thải xuống sông Hương khiến khu vực này
vào buổi trưa bốc mùi hôi rất khó chịu. Ở khu vực sông Đông Ba và sông Đào thuộc
các phường Phú Cát, Phú Bình, Phú Hiệp, một phần phường Hương Sơ, khoảng 1.000
hộ dân vạn đò sinh sống đã thải toàn bộ nuớc sinh hoạt xuống sông.
Chất thải này kết hợp hệ thống tảo, rêu xanh đã biến dạng dòng sông Đào. Nhiều
lần chính quyền thành phố Huế bố trí đất tái định cư cho các hộ dân vạn đò lên ở
tại các chung cư ở Trường An, Bãi Dâu, Tuy nhiên sau khi đã được giao đất, các
hộ này đã tự ý bán đi rồi quay trở lại sống đời vạn đò.
Ông Nguyễn Việt Hùng, trưởng phòng môi trường, sở Tài nguyên môi trường Thừa
Thiên Huế cho biết: “Còn có các chất thải rắn của các công ty ở khu công nghiệp
Phú Bài, thải xuống sông Phú Bài (một nhánh của sông Hương) ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khoẻ các hộ dân ở đây, việc này diễn ra từ lâu nhưng các công ty vẫn
chưa tìm biện pháp để xử lý”. Cuộc điều tra, khảo sát và đánh giá của ban quản
lý sông Hương về chất lượng nước của sông Hương và các phụ lưu của nó vào cuối
tháng 6.2008 cho thấy: “Về độ đục, các chỉ số đo đạc tại các điểm quan trắc từ
sông Tả Trạch, Hữu Trạch đến đập Thảo Long đều cho thấy nước sông Hương đã đục
hơn trước. Điều đáng chú ý là nồng độ oxy hoà tan đã sụt giảm...”
bài và ảnh Hồ Hương Giang
http://www.sgtt.com.vn/detail29.aspx?newsid=37353&fld=HTMG/2008/0713/37353
19- Hãy cứu những dòng sông đang bị “độc hoá”
(Khoa học và Tổ quốc, số 6/2003, tr.35)
(Khoa học và Tổ quốc, số 6/2003, tr.35)
Đó là thông điệp và mục đích của hội thảo Pháp - Việt về “chất lượng nước và xử
lý nước tại Việt Nam”, được tiến hành ngày 27 tháng 2 tại Hà Nội (trong khuôn
khổ Dự án hợp tác Pháp - Việt FSP-ESPOIR). Hội thảo tập trung phân tích và đánh
giá chất lượng nước của hai con sông Tô Lịch, sông Nhuệ chảy qua địa bàn Hà Nội
và một số tỉnh lân cận. Những khuyến cáo ban đầu về mức độ “độc hoá” nước sông
có ảnh hưởng trực tiếp đối với sức khoẻ đã được công bố; Định hướng các giải
pháp cũng được đặt ra, song vẫn là một thách thức.
Hệ thống sông Nhuệ và sông Tô Lịch đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động
của thành phố Hà Nội và các tỉnh như Hà Tây, Hà Nam, đặc biệt là sông Đáy -
nguồn nước đang dùng để cung cấp nước sinh hoạt cho thị xã Phủ Lý. Ấy vậy mà ảnh
hưởng của một số nguồn nước thải đã khiến hệ thống sông này đang bị ô nhiễm trầm
trọng, hàm lượng các kim loại nặng như Cu, Pb, Cd, Cr, Ni, Hg, As có mặt trong
nước sông Nhuệ và Tô Lịch rất cao. Khi so sánh với tiêu chuẩn cho phép của
Canada (Việt Nam chưa xây dựng được tiêu chuẩn này), các nhà khoa học đã nhận
xét: hàm lượng Zn, Pb ở sông Nhuệ cao gấp 2 đến 3 lần, hàm lượng Hg trên sông Tô
Lịch cao gấp 4 lần tiêu chuẩn cho phép ở Canada. Các mẫu nước lấy từ sông Nhuệ
và sông Tô Lịch qua phân tích đều có chứa Hyđrocacbon da vòng thơm,
Ankylhyrocacbon, phthalate và thuốc trừ sâu chứa clo. Mà thành phần chính của
thuốc trừ sâu chứa clo là DDT. Loại thuốc này bị cấm sử dụng từ lâu ở Việt Nam,
song do khó bị phân huỷ nên chúng vẫn có mặt trong nước gây độc trực tiếp, ảnh
hưởng đến sức khoẻ lâu dài của con người và các động vật thuỷ sinh thông qua
chuỗi thức ăn. Tiến sỹ Đặng Cẩm Hà (Viện Công nghệ sinh học) cho biết: do hệ
thống sông Nhuệ, sông Tô Lịch nhận khối lượng nước thải từ các vùng có mật độ
dân cư lớn (đặc biệt là Hà Nội) nên hiện tượng ô nhiễm vi sinh rất nghiêm trọng,
nhất là sông Tô Lịch. Theo kết quả nghiên cứu sơ bộ, trong mùa khô, số lượng vi
khuẩn kỵ khí, nấm sợi, vi khuẩn khử nirát, xạ khuẩn trong sông Tô Lịch cao hơn
nhiều so với mùa mưa. Chẳng hạn, số lượng vi khuẩn dị dưỡng xác định vào tháng
2/2001 cao hơn so với tháng 5/2001 đến 1000 lần. Và số lượng Coliform trong mẫu
nước sông Tô Lịch thường cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ hàng chục đến hàng trăm
lần.
Dù nước sông bị ô nhiễm nhưng hiện nay nó vẫn là nguồn nước cung cấp cho nhiều
hoạt động nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản như trồng rau, nuôi cá... Đánh giá
của các nhà khoa học Pháp và Việt Nam tại hội thảo là: rau quả, cá... dùng nước
sông ô nhiễm sẽ tích tụ kim loại nặng trong gan cá có ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ
con người (qua nghiên cứu cá nuôi tại ngã ba sông Nhuệ - sông Tô Lịch).
Nguồn gốc sự ô nhiễm, theo thống kê của Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Hà
Nội hiện có 13 ngành công nghiệp (cơ khí, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm,
dệt, may, da, giày, hoá chất, thuỷ tinh, cao su, chế biến phân bón, gỗ, sành
sứ), 5 khu công nghiệp (Minh Khai – Vĩnh Tuy với 38 xí nghiệp, Thượng Đình -
Nguyễn Trãi với 45 xí nghiệp, Trương ĐỊnh – Đuôi Cá với 13 xí nghiệp, Pháp Vân
có 13 xí nghiệp, Cầu Bươu có 5 xí nghiệp) và các khu công nghiệp cũ được xây
dựng từ những năm 1960-1970 nằm xen kẽ trong khu dân cư đang hoạt động đều chưa
có hệ thống xử lý nước thải nên nước thải ra các sông không đạt chuẩn, trực tiếp
ảnh hưởng đến môi trường nước lưu vực sông Tô Lịch. Bên cạnh đó, trong 29 bệnh
viện chính ở Hà Nội mới chỉ có 5 bệnh viện có hệ thống nước xử lý thải. Đây là
nguồn gây ô nhiễm môi trường nước mặt rất nghiêm trọng và là mầm mống gây bệnh
cho con người. Sông Tô Lịch được xếp vào loại ô nhiễm nặng bởi là sông thoát
nước chính trong thành phố. Sông Nhuệ, do nước thải (toàn bộ hệ thống sông Hà
Nội: sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, sông Kim Ngưu) đổ vào quá lớn nên hiện nay
cũng mất dần khả năng tự làm sạch và mức độ ô nhiễm có xu hướng gia tăng.
Tiến sỹ Nguyễn Thế Đồng, Viện trưởng Viện Công nghệ - Môi trường cho biết: “Tình
trạng ô nhiễm nước sông đang ở mức độ rất trầm trọng, có ảnh hưởng tới cả nguồn
nước ngầm phục vụ sinh hoạt. Vì vậy, nghiên cứu ô nhiễm môi trường và các hệ
sinh thái sông hồ hiện nay đang là vấn đề cấp bách”.
Từ diễn đàn hội thảo, khuyến cáo với các bệnh viện, nhà máy, các khu công nghiệp
phải tuân theo những quy chế nghiên cứu công nghệ thích hợp và phải xây dựng hệ
thống xử lý nước thải (nhà máy dệt Minh Khai nước thải trực tiếp ra hệ thống
sông Nhuệ, sông Tô Lịch).
Dựa trên các kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học Việt Nam và Pháp đã đề xuất
các phương án khắc phục với những mục tiêu trước mắt và lâu dài: Xây dựng cơ sở
dữ liệu về môi trường và hệ sinh thái, các nguồn gây ô nhiễm và lập bản đồ về
tình trạng ô nhiễm hệ thống sông Nhuệ, sông Tô Lịch, phục vụ cho việc nghiên cứu
và bảo vệ môi trường; Thông qua hợp tác quốc tế với các chuyên gia Pháp, xây
dựng mô hình quản lý chất lượng nước và hệ sinh thái sông Nhuệ, sông Tô Lịch
bằng các phương pháp mô hình hoá; Đào tạo cán bộ về các lĩnh vực chuyên môn cần
thiết. Các trạm quan trắc cũng được xây dựng sẽ là nguồn cơ sở dữ liệu lâu dài
cho việc quản lý, quy hoạch phát triển đô thị Hà Nội, phục vụ cho chương trình
phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội của Thủ đô đến năm 2010 và trong tương
lai.
Bảo Huyền
http://203.162.12.202/thongtinmt/noidung/kht_so6_03.htm
20- Dân khổ vì sông ô nhiễm
Cập nhật lúc : 2:16 PM, 24/09/2008
Nhiều dòng sông thuộc hai tỉnh Hà Nam và Quảng Trị ô nhiễm đến mức trâu bò uống
nước ở đây lăn ra chết, tôm cá bị tiêu diệt, cây cỏ hai bên bờ héo úa...
Nhiều nơi tại hai địa phương này, sức khỏe và tài sản của người dân bị ảnh hưởng
nghiêm trọng do ô nhiễm môi trường, còn các cơ quan chức năng thì bất lực nhìn
những dòng sông ngày càng bị đầu độc nặng hơn.
Uống nước sông, trâu bò lăn ra chết
Từ bao đời nay, nguồn nước sinh hoạt của người Vân Kiều - Pa Cô ở huyện Đakrông
(Quảng Trị) chủ yếu dựa vào sông Đakrông. Nhưng 10 năm nay, hoá chất độc hại và
chất thải chưa qua xử lý từ các bãi đào đãi vàng và các nhà máy chế biến cao su,
cà phê trên địa bàn huyện Hướng Hoá (Quảng Trị) làm cho con sông này bị ô nhiễm
nghiêm trọng.
“Đã mấy mùa rẫy rồi, bà con dân bản thiếu nước sinh hoạt phải lặn lội tận rừng
sâu, mất cả ngày trời mới gùi được can nước sạch. Nước sông Đakrông bị nhiễm bẩn
đến nỗi vật nuôi của bà con uống phải cũng chết”, già làng Hồ Rằn ở bản Plu đứng
trên bờ sông Đakrông chỉ tay xuống dòng nước, buồn bã nói. Trước mắt chúng tôi,
dòng Đakrông thơ mộng ngày nào giờ trở nên đục ngầu, đỏ quạch. Men theo hai
triền sông, cây cỏ nhiễm độc từ nước bẩn héo úa, tàn lụi, thi thoảng vài chục
xác cá chết trắng bạch dạt vào bờ...
Nước thải của Công ty cà phê Đường 9 không qua bể xử lý mà chảy thẳng ra sông
suối. Ảnh: V.L.
Bà Hồ Thị Cúc, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đakrông cho biết: “Nhiều năm
qua, chất thải của các cơ sở kinh doanh cà phê, cao su chưa qua xử lý thải thẳng
ra sông suối, tất cả đổ về dòng Đakrông, gây ô nhiễm nghiêm trọng. Bà con thiếu
nước sinh hoạt nên vẫn phải dùng nước sông nhiễm bẩn; 100% hộ dân (chủ yếu là
đồng bào các dân tộc Vân Kiều, Pa Cô) làm lúa nước dọc theo con sông Đakrông đều
phải bỏ ruộng vì không có nguồn nước tưới đảm bảo. Mới đây, hàng trăm con trâu,
bò của xã A Vao do uống phải nước sông ô nhiễm trên lăn ra chết”.
Ông Võ Trực Linh, Giám Đốc Sở Tài nguyên - Môi trường Quảng Trị, cho biết: “Mấy
năm qua, “vàng tặc” dùng hoá chất đãi vàng rồi thải ra sông Đakrông, khiến nguồn
nước ô nhiễm ngày một nghiêm trọng hơn".
Dân lãnh đủ
Ở Hà Nam, người dân phải dùng đến cụm từ “nước thối” để chỉ nước ở các dòng sông
trên địa bàn tỉnh. Nước sông làm cho nguồn cá tự nhiên biến mất, hàng trăm hộ
dân làng chài chạy chối chết khỏi dòng sông, chuyển sang nuôi cá lồng. Nhưng cá
lồng cũng đang mong manh hơn lúc nào hết.
Gần 150 hộ dân làng chài Vạn Nghệ (Văn Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) như đang
ngồi trên đống lửa. Dòng Châu Giang chảy quanh làng Vạn Nghệ vốn thơ mộng, trong
xanh là vậy, nhưng giờ đây trở thành nỗi khiếp sợ của mọi người. Anh Trần Văn
Nội, buồn rầu nói: “Nước thối vừa về, bè cá nhà tôi nổi từng đàn. Cứ cái đà này,
chắc chẳng cá nào sống nổi”. Nhà anh có hai bè cá nuôi từ đầu năm tới nay, xuất
bán ít nhất cũng thu về hơn 60 triệu đồng. Bây giờ cá chết, anh không biết phải
xoay xở thế nào với số tiền còn nợ ngân hàng. Giống như tình cảnh anh Nội, 20 bè
khác của người làng Vạn Nghệ cũng đang thoi thóp.
Anh Trần Xuân Phong, người cùng làng cho biết, năm 2006, "nước thối" về gần một
tháng trời, hàng chục tấn cá chết bị đem chôn xuống đất cùng nước mắt người dân
nơi đây. Sau đợt cá chết ấy, làng Vạn Nghệ rơi vào cảnh điêu đứng, có gia đình
phải bán nhà để trả nợ. Nhiều người viết đơn kêu cứu, xin bồi thường thiệt hại,
song chính quyền và các cơ quan chức năng vẫn bặt vô âm tín. Giờ, "nước thối"
vẫn đều đặn chảy về.
Ông Trần Xuân Đoàn, Chi cục phó Chi cục Bảo vệ môi trường Hà Nam khẳng định: "Sở
dĩ, ba con sông chảy qua địa phận Hà Nam (sông Nhuệ, sông Châu và sông Đáy) đang
bị ô nhiễm trầm trọng là do 90% nước thải của sông Nhuệ từ Hà Nội chảy về. Theo
thống kê ban đầu, nguồn nước thải của Hà Nội đổ về Hà Nam trên 300.000 m3 một
ngày đêm, chiếm 15% lưu lượng nước của sông Nhuệ".
Hà Nam có bốn hệ thống cống đập lớn là Nhật Tựu, Điệp Sơn, Ba Đa và Lam Hạ. Mỗi
khi đập Thanh Liệt tại Hà Nội mở cửa xả nước thải vào sông Nhuệ thì ngay lập tức
hệ thống cống đập tại Hà Nam hoạt động để điều hoà lượng nước thải này. Việc
đóng mở hệ thống cống đập lại do Ban quản lý lưu lượng nước sông Nhuệ tại Hà Nội
đảm nhiệm. Chính vì thế người dân ven sông tại Hà Nam phải chịu mức độ ô nhiễm
nước nặng hay nhẹ là tuỳ thuộc cống đập đóng hay mở trong bao lâu. Nếu cả hai
đập cùng đóng không xả nước thải thì người dân ở giữa chắc chắn sẽ “lãnh đủ” mùi
nước thối hàng tháng trời. Ông Đoàn nhấn mạnh: “Thiệt hại về cây trồng thì chưa
tính hết nhưng nước thối ảnh hưởng tới sức khỏe người dân và hoạt động nuôi
trồng thuỷ hải sản thì đã quá rõ”.
Võ Linh - Tuyết Trịnh
http://www.baodatviet.vn/Home/Dan-kho-vi-song-o-nhiem/20089/15338.datviet
21- Hàng loạt con sông đang chết dần
Cập nhật lúc : 8:52 AM, 17/09/2008
Hơn 70% khu công nghiệp không có cơ sở xử lý nước thải. Hơn 90% cơ sở được kiểm
tra không thực hiện đúng nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường và cam
kết bảo vệ môi trường. Đoàn kiểm tra môi trường của Bộ Tài nguyên - Môi trường
kiểm tra đến đâu, sai phạm đến đó.
Bức tử những dòng sông thi ca
Sông Đáy, sông Nhuệ, sông Cầu, sông Đuống và hàng loạt con sông từng một thời đi
vào thi ca, đang chết dần chết mòn vì ô nhiễm môi trường, bất chấp dư luận đã
lên tiếng từ lâu. "Khi vụ Công ty Vedan xả nước thải gây ra “cái chết” của sông
Thị Vải người ta mới giật mình”, đại tá Nguyễn Xuân Lý, Cục trưởng Cục Cảnh sát
môi trường (C36, Bộ Công an) cho biết.
Ngoài việc kiểm tra bắt tại chỗ hành vi xả nước thải chưa qua xử lý xuống sông
Thị Vải, cơ quan này đã thành lập chuyên án điều tra một số công ty khác có dấu
hiệu xả nước thải ra sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu, sông Đuống... Với mỗi dòng
sông sẽ “làm điểm” một số doanh nghiệp gây ô nhiễm nặng để xử lý.
“Chúng tôi sẽ chứng minh cho các cơ quan chức năng thấy hậu quả của các dòng
sông chết là từ đâu? Ai là thủ phạm? Thực trạng môi trường đã đến mức báo động
và đã đến lúc phải gióng lên hồi chuông báo động về thực trạng này”, ông Lý cảnh
báo.
Chất thải từ làng lụa Vạn Phúc làm sông Nhuệ bị ô nhiễm. Ảnh Đức Long
Một lãnh đạo Bộ Tài nguyên - Môi trường (TN-MT) tiết lộ, hiện nay trên lưu vực
sông Nhuệ, sông Đáy, ngoài các nguồn thải của trên 600 dự án, cơ sở hoạt động
nằm trong và ngoài hệ thống khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp, làng nghề,
còn có các nguồn thải phát sinh từ sinh hoạt của các đô thị, khu dân cư, khách
sạn, nhà hàng, nước thải của các cơ sở y tế… Tất cả các nguồn nước thải đều chưa
được xử lý đúng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải.
Cảnh sát “nghi ngờ” tính xác thực của các báo cáo môi trường
Qua kiểm tra công tác bảo vệ môi trường đối với trên 200 cơ sở, KCN, cụm công
nghiệp và gần chục làng nghề có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, Bộ TN-MT
đánh giá chưa đến 10% cơ sở được kiểm tra đã thực hiện đúng nội dung báo cáo
đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường.
Trong số những KCN và cụm công nghiệp thuộc đối tượng phải xử lý nước thải, chỉ
có gần 50% thực hiện xây dựng công trình xử lý nước thải, nhưng chỉ có 20% đạt
chuẩn. Bên cạnh đó nhiều KCN và cụm công nghiệp phát sinh chất thải nguy hại
nhưng chỉ khoảng 18% đơn vị quản lý và xử lý chất thải nguy hại đúng quy định.
Kết quả kiểm tra đã xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
với số tiền phạt trên 480 triệu đồng đối với trên 70 đơn vị vi phạm và chuyển hồ
sơ, đề nghị Sở TN-MT các tỉnh, thành phố lập thủ tục để xử phạt đối với 85 cơ sở
vi phạm khác.
“Theo quy định, mỗi dự án trước khi được cấp giấy phép đầu tư đều phải có báo
cáo đánh giá tác động môi trường. Nhiều địa phương do chỉ chú trọng đến tăng
trưởng nên luôn trải thảm đỏ để mời gọi đầu tư, thu hút đầu tư bằng mọi giá nên
quá xem nhẹ về công tác bảo vệ môi trường. Công tác thẩm định báo cáo đánh giá
tác động môi trường đôi khi chỉ mang tính hình thức”, Đại tá Nguyễn Xuân Lý tỏ
ra “nghi ngờ” khi nói về tính xác thực và độ tin cậy của các bản báo cáo này.
Chẳng hạn, Dự án nhà máy giấy đầu nguồn sông Lam (Nghệ An) qua tất cả các khâu
thẩm định của các cơ quan chức năng. Nhưng khi cảnh sát môi trường vào cuộc đã
phát hiện vi phạm, sau đó, dự án này đã phải di dời.
Kiểm tra đến đâu, sai phạm đến đó
Trong 2 ngày 15 và 16/9, Đoàn thanh tra của Bộ Tài nguyên – Môi trường thanh tra
một số khu công nghiệp ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hầu hết đều vi phạm pháp luật
về môi trường với những mức độ khác nhau.
Công ty TNHH một thành viên giấy Mỹ Xuân (Mỹ Xuân), trụ sở đóng tại KCN Mỹ Xuân
A, huyện Tân Thành, có hệ thống xử lý nước thải phức tạp đến mức ban giám đốc và
cán bộ vận hành nhà máy nước thải không thể hiêu hết. Qua kiểm tra của Đoàn, bể
thu gom nước thải số 1 của công ty được thiết kế có van xả ra ngoài nhưng không
qua xử lý, toàn bộ nước thải chảy theo nước mưa đổ ra sông Thị Vải.
Theo hợp đồng Công ty giấy Mỹ Xuân ký với Công ty phát triển hạ tầng KCN Mỹ Xuân
A (IDICO), Công ty giấy Mỹ Xuân chỉ được đấu nối một điểm xử lý nước thải vào hệ
thống chung của KCN. Đoàn kiểm tra yêu cầu lãnh đạo nhà máy chỉ rõ hệ thống xử
lý nước thải nhưng không nhận được sự hợp tác.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đoàn phát hiện một hố ga có hai van xả đóng - mở nước
thải, được che phía trong đống gạch. Trước đó, khi làm hệ thống cửa van này, nhà
máy đã cho hệ thống xử lý nước thải và nước mưa thông nhau để “thoát” nước thải.
Theo nhận định của một thành viên trong đoàn, Công ty giấy Mỹ Xuân thiết kế
đường ống vòng vo, lấy nước từ bên ngoài vào hòa tan bớt độ đậm đặc của nước
thải chưa qua xử lý, sau đó thải ra ngoài.
Tại Công ty TNHH chế biến thủy sản Tiến Đạt trụ sở đặt tại xã Tân Hải, huyện Tân
Thành, lượng nước thải từ hoạt động sản xuất khoảng 900 m3 mỗi ngày, nhưng hệ
thống xử lý chỉ có 480m3 mỗi ngày, số còn lại được thải thẳng ra kênh Rạch Tre,
rồi chảy vào sông Thị Vải qua một ống f300.
Làm việc với Công ty TNHH Baconco (Baconco), thuộc KCN Phú Mỹ I (huyệnTân Thành,
Bà Rịa Vũng Tàu), đoàn kiểm tra phát hiện một lượng lớn dầu cặn lên đến hàng
trăm lít bị trào lên và loang ra đầy mặt đất, phủ kín các gốc cây xanh, kéo dài
hơn 100 m. Đoàn giao lại cho Phòng Cảnh sát Môi trường Công an tỉnh điều tra làm
rõ.
Hôm nay, đoàn kiểm tra tiếp tục làm việc tại Bà Rịa - Vũng Tàu
Hồng Trang - Thái Ngọc - Phạm Trung
http://www.baodatviet.vn/Home/Hang-loat-con-song-dang-chet-dan/20089/14404.datviet
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG, NGUỒN NƯỚC Ở ĐỒNG NAI << Cập nhật ngày 31/12/2007
10:52:10
22- Hệ thống sông Sài Gòn-Đồng Nai: Giá trả cho ô nhiễm ngày càng cao
Từ khoảng tháng 12.2002 đến nay liên tục xảy ra các sự cố về ô nhiễm môi trường
(ÔNMT) trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, chính xác hơn là tại 2 địa phương thuộc
khu vực kinh tế động lực phía nam (KVKTĐLPN): TP/HCM và Đồng Nai. Đây cũng là
hai địa phương có hệ thống sông Đồng Nai-Sài Gòn đi qua, là nguồn cung cấp nước
sinh hoạt chủ yếu.
Mầm ô nhiễm bùng phát
Tình trạng ô nhiễm sông rạch đã được cảnh báo từ rất lâu tại các địa phương đông
dân cư và sản xuất công nghiệp phát triển như TPHCM, Đồng Nai. Chính vì thế,
những diễn biến mới đây về sự cố ÔNMT thực chất là sự bùng phát của mầm ô nhiễm
đã tích tụ hàng chục năm nay. 5 lưu vực kênh rạch TPHCM lâu nay đã trở thành
những dòng kênh đen hôi thối bởi sự phân hủy của các chất hữu cơ và đầy rác. Vụ
khoảng 20 tấn cá chết ở quận 7-TPHCM mà kết quả mẫu nước từ rạch chảy vào các ao
cá, sau khi phân tích cho thấy có dư lượng thuốc trừ sâu. Tiếp đến, sự cố "luồng
nước đen" đến đậm đặc từ sông Vàm Thuật chảy ra sông Sài Gòn mà kết luận cuối
cùng của Sở KHCNMT cho rằng do dòng nước ô nhiễm từ kênh Tham Lương loang ra.
Tình trạng ô nhiễm đã không chỉ dừng lại ở hạ lưu sông Sài Gòn mà lan lên tới
đoạn sông thuộc tỉnh Bình Dương - phần thượng lưu. Cây trồng, vật nuôi trong môi
trường nước bị hủy hoại nặng nề. Sự cố này đang còn trong vòng bàn thảo về các
giải pháp khắc phục, thì mới đây lại xảy ra tình trạng cá bè chết hàng loạt tại
Đồng Nai với số lượng lên đến 120 tấn và 30.000 con cá nhỏ ương nuôi. Theo phản
ánh của các chủ nuôi cá bè là "có nguồn nước màu đen, có mùi hôi nồng của hoá
chất do thủy triều đẩy từ các cống xả của các đơn vị sản xuất phía KCN Biên Hoà
1". Tháng 7.2002 cũng đã từng xảy ra vụ chết gần 200 tấn cá bè nuôi trên sông
Đồng Nai. Kênh rạch ô nhiễm trầm trọng đã đành, nhưng đến những con sông giờ đây
cũng không còn là chốn yên ổn cho các loài thủy sinh.
Với lượng nước thải xả thẳng vào hệ thống kênh rạch hơn 1 triệu mét khối mỗi
ngày tại KVKTĐLPN hiện nay, không chỉ có các thành tố hữu cơ gây ô nhiễm mà nước
thải công nghiệp còn mang theo các thành tố hoá học độc hại, như của ngành dệt
nhuộm, xi mạ, chế biến thủy sản, sản xuất thuốc bảo vệ thực vật v.v... Nếu tình
trạng ô nhiễm không được hạn chế, khắc phục thì hệ thống sông Sài Gòn-Đồng Nai
vốn là nguồn cấp nước sinh hoạt chính cho khoảng 12 triệu dân thuộc khu vực trên
sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng, đe dọa đến an toàn sự sống con người.
Thủ phạm chính là nước thải công nghiệp!
Việc ô nhiễm kênh Tham Lương đã được xác định do nước thải từ sản xuất công
nghiệp. Dọc trên tuyến kênh này hiện vẫn còn 28 đơn vị xả nước thải xuống kênh
không qua xử lý. Chỉ có nước thải công nghiệp mới mang những đặc trưng về mùi
hôi nồng nặc của hoá chất và một số chỉ số khác cho thấy sự tích tụ chất hữu cơ
lâu năm phân hủy do ngành sản xuất thực phẩm tạo nên. Vụ cá bè chết trên sông
Đồng Nai đang được đặt nghi vấn do nước thải của các đơn vị là Cty giấy Đồng
Nai, Tân Mai, Cty đường Biên Hoà và Cty sản xuất bột ngọt Ajinomoto VN. Trong
khi đó, tại TPHCM có khoảng 30.000 cơ sở sản xuất TTCN và đơn vị sản xuất công
nghiệp lớn mà đại đa số xả nước thải chưa qua xử lý trực tiếp ra sông rạch.
ÔNMT do nước thải công nghiệp đã rất trầm trọng, dù đã được cảnh báo rất nhiều
nhưng cuối cùng cũng trôi lờ đi bởi những áp lực về thu hút đầu tư, phát triển
sản xuất và lợi nhuận. Nhìn một cách hệ thống và tổng thể - từ Bộ Công nghiệp là
cơ quan quản lý nhiều nhà máy sản xuất công nghiệp lớn nhất, cho đến hai địa
phương có nhiều đơn vị sản xuất công nghiệp đóng trên địa bàn là TPHCM và Đồng
Nai - đều chưa có một chiến lược triệt để và kiên quyết để giải quyết ÔNMT do
sản xuất công nghiệp gây ra. Năm 2000, TPHCM từng khởi động trở lại chương trình
di dời DN gây ô nhiễm ra ngoại thành, nhưng tiến độ quá chậm chạp. Số DN di dời
được tại TPHCM mới đếm trên đầu ngón tay, trong khi đó theo thống kê của 15/22
quận, huyện của thành phố đã có trên 930 cơ sở sản xuất cần phải di dời. Nhiều
DN, đặc biệt là đơn vị trực thuộc Bộ Công nghiệp (ngành sản xuất sữa, dệt) vẫn
lần lữa, trễ nải trong việc trang bị hệ thống xử lý nước thải. Sự phối hợp giữa
Bộ Công nghiệp với các địa phương bị ÔNMT vì sản xuất công nghiệp hàng chục năm
qua là con số 0. Chưa kể, có những đơn vị sản xuất công nghiệp lớn cậy thế trung
ương, bao năm qua trì hoãn thực thi các giải pháp khắc phục ÔNMT và di dời. Pháp
luật về bảo vệ môi trường sống không thiếu, nhưng trong công tác quản lý về môi
trường lại đang thiếu sự kiên quyết trong trách nhiệm và thừa thãi sự xuê xoa,
cả nể cho nhau.
Thẩm Hồng Thụy
http://www.thuviendongnai.gov.vn/c/portal/layout?p_l_id=PUB.1.284&p_p_id=Journals&p_p_action=0&p_p_state=maximized&p_p_mode=edit&p_p_col_id=&p_p_col_pos=0&p_p_col_count=0&_Journals_ToPicID=161&_Journals_recordPerPage=15&_Journals_page=1&_Journals_JournalID=967
23- Ô nhiễm các dòng sông: SOS
Cập nhật: 17:15 01/08/08
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Hội
nghị giao ban Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam giữa
tháng 7 vừa qua, tình hình ô nhiễm môi trường tại
khu vực này đã đến hồi báo động đỏ. Hệ thống sông
ngòi ở đây ô nhiễm cực kỳ nghiêm trọng.
Công Thương - Tất cả các chỉ tiêu không đạt tiêu
chuẩn
Nước sông Đồng Nai (đoạn Nhà máy nước Thiện Tân đến
Long Đại), chất rắn lơ lửng vượt tiêu chuẩn 3-9 lần,
giá trị COD vượt 1,8-2,8 lần, giá trị DO thấp dưới
giới hạn cho phép. Sông Đồng Nai tiếp nhận mỗi ngày
1.700.000 m3 nước sinh hoạt chưa qua xử lý, trong đó
có chứa tới 756 tấn C0D, 702 tấn cặn lơ lửng, 421
tấn B0D5... cùng nhiều vi trùng gây bệnh và tác nhân
gây ô nhiễm khác. Khu vực sông Sài Gòn mức độ ô
nhiễm nước mặt ngày càng tăng dần từ thượng lưu đến
hạ lưu, các thông số COD, DO, SS, amoni, Nitrit nước
mặt đều không đạt ngưỡng cho phép, đặc biệt trầm
tích đáy tại cầu Phú Cường đã ô nhiễm kim loại thuỷ
ngân. Nước sông từ khu vực cửa sông Thị Tính bị ô
nhiễm tăng dần về phía hạ lưu. Tại khu vực T.P Hồ
Chí Minh đang ô nhiễm dầu và vi sinh rất nặng. Hàm
lượng dầu khoảng 0,03 mg/l trong khi tiêu chuẩn quy
định không cho phép có dầu trong nguồn nước dùng làm
nước sinh hoạt. Hàm lượng colifom vượt vài trăm lần
chỉ số cho phép tại cầu Rạch Ông, Tân Thuận, xâm
nhập mặn cũng đã tác động đến khu vực Bến Nhà Rồng.
Sông Thị Vải thì “ngoắc ngoải” trong ô nhiễm từ nhà
máy Vedan. Ngay nội ô TP Hồ Chí Minh, kênh Nhiêu Lộc
- Thị Nghè, Kênh ôi, Kênh Tẻ, Vàm Truật, Tham
Lương... đều là những dòng kênh đen mùi hôi thối rợn
người.
Các loại nước thải đổ thẳng ra sông
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện nay các chất
thải công nghiệp và đô thị của các địa phương đang
đổ về hai con sông này. Tỉnh Đồng Nai hiện có 24
KCN, diện tích 6.500 ha, trong đó 19 khu công nghiệp
(KCN) với 642 dự án đã đi vào hoạt động, mỗi ngày
thải ra khoảng 60.000 m3 nước thải. Tuy nhiên, đến
nay mới có 9/19 KCN xây dựng hệ thống xử lý nước
thải tập trung, vì vậy số nước thải đã qua xử lý
chiếm tỷ lệ rất ít. Thậm chí, ngay các KCN đã có hệ
thống xử lý chất thải nhưng cũng chỉ vận hành khi có
đoàn kiểm tra, còn lại cứ đổ thẳng ra sông cho đỡ
tốn kém. T.P Hồ Chí Minh có 13 khu công nghiệp khu
chế xuất (KCN - KCX), hơn 900 doanh nghiệp hoạt
động, chỉ sáu KCN - KCX có nhà máy xử lý nước thải,
trong đó chỉ có 3 KCX có hệ thống thu gom nước thải
hoàn chỉnh. Khu vực huyện Củ Chi nước thải các KCN,
khu dân cư, bệnh viện không qua xử lý đã "đen hóa"
các dòng kênh. Ngay xã Bình Mỹ mới có hơn mười xí
nghiệp nhỏ sản xuất mủ cao-su, ống nhựa dọc theo
đường Võ Văn Bích cũng làm đen tới hai, ba con rạch
quanh vùng.
Cứu sông là cứu người
Vùng KTTPN là đầu tàu kinh tế cả nước, mỗi năm đóng
góp 54% giá trị sản xuất công nghiệp, 60% giá trị
xuất khẩu cả nước. Nếu không kịp thời cứu các dòng
sông sẽ ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng tới cuộc sống
của người dân và cản trở rất lớn việc kêu gọi đầu
tư. Ông Nguyễn Trung Tín, Phó Chủ tịch (PCT) UBND
TP. Hồ Chí Minh kiến nghị Ban điều phối và các bộ
ngành liên quan sớm hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược bảo vệ môi
trường VKTTĐ phía Nam đến 2020, chương trình kế
hoạch bảo vệ nguồn nước sông Sài Gòn – Đồng Nai, sớm
công bố công khai để người dân nắm rõ và thực hiện.
Huy động các nguồn tài chính để đóng góp kinh phí
thành lập Quỹ phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nhằm
giải quyết những vấn đề bức xúc về môi trường. Ông
Trần Văn Lợi, PCT UBND tỉnh Bình Dương kiên quyết:
Bình Dương sẽ thực hiện 35 chương trình đề án bảo vệ
môi trường và cam kết thực hiện tốt chương trình, kế
hoạch, quy chế bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống
sông Đồng Nai. Năm 2006-2007, Bình Dương đã từ chối
một số dự án có nguy cơ gây ô nhiễm cao, mặc dù có
vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên, nếu nơi này từ chối mà
nơi khác trong Vùng lại chấp thuận thì tình trạng ô
nhiễm trong toàn Vùng sẽ không giải quyết được. Sắp
tới, Bình Dương có thể sẽ đình chỉ hoạt động của 20
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn thường
xuyên vi phạm quy định về bảo vệ môi trường. PCT
UBND tỉnh Đồng Nai Đinh Quốc Thái cũng đề nghị Chính
phủ chủ động ứng vốn cho các đô thị để xử lý ô nhiễm
nguồn nước nhất là tại lưu vực hai con sông này. Ông
Trần Ngọc Thới, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu cho rằng đã đến lúc toàn VKTTĐ phía Nam cần mạnh
tay để xử lý các trường hợp vi phạm quy định về bảo
vệ môi trường. Phải kiên quyết đóng cửa các doanh
nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhất là
đối với các dòng sông.
Chỉ đạo vấn đề này, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng
Trung Hải yêu cầu các Bộ chức năng sớm xây dựng quy
hoạch về các khu công nghiệp lồng ghép chương trình
xây dựng các cơ sở xử lý nước thải, chất thải rắn;
Kiểm tra ô nhiễm môi trường các làng nghề, xử lý
nghiêm các nhà máy và khu công nghiệp không vận hành
các khu xử lý nước thải. Những trường hợp cố tình vi
phạm phải xử lý trách nhiệm hình sự và công khai
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Khánh Chi
http://72.14.235.104/search?q=cache:vj-bpRNR3rAJ:www.baothuongmai.com.vn/article.aspx%3Farticle_id%3D55064+nh%E1%BB%AFng+d%C3%B2ng+s%C3%B4ng+%C3%B4+nhi%E1%BB%85m&hl=vi&ct=clnk&cd=69&gl=vn&client=firefox-a