Hồ sơ vụ án VEDAN
1/Ô nhiễm làm bệnh tật gia tăng
2/Dân TP HCM đổ bệnh vì ô nhiễm
3/Gia tăng bệnh tật vì dùng nước ô nhiễm
4/Vì một môi trường không hủy hoại cuộc sống
5/Người dân đang "chết mòn" vì khói bụi
6/Đại ô nhiễm bụi!
7/Bệnh vì tiếng ồn và khí thải
8/Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng
9/Gia tăng bệnh phổi do ô nhiễm không khí
10/ Mối nguy lớn về bệnh hô hấp
11/Ô nhiễm tiếng ồn và bệnh tật
12/Hà Nam: Dân khốn khổ vì ô nhiễm
13/Dân bị ô nhiễm, chính quyền làm ngơ…?
14/Giải quyết ô nhiễm môi trường - Nhận thức chậm,
hậu quả khó lường
15/Giảm thiểu ô nhiễm không khí
16/Hà Nội bị ô nhiễm nhiều hơn về mùa đông
17/Ô nhiễm trầm trọng, sông Đồng Nai làm nhiều người
đổ bệnh
18/Bệnh Minamata và vấn đề ô nhiễm môi trường tại
các khu công nghiệp ở Việt Nam
19/Bệnh... môi trường
20/Vì Sao Bệnh Nan Y Phát Sinh Và Lan Tràn Khắp Nơi?
21/Ô nhiễm môi sinh làm tăng sơ sinh khuyết tật
22/Báo động tình trạng ô nhiễm vì bụi
23/Ô Nhiễm Không Khí ở TPHCM – Kẻ Giết Người Thầm
Lặng
24/ĐBCSL: Các khu công nghiệp đang “sát hại” môi
trường
25/Môi trường nông thôn: Thảm họa đã đến...
1- Ô nhiễm làm bệnh tật gia tăng
31/10/2006
Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá làm cho
không khí ngày càng ô nhiễm trầm trọng. Các bệnh
đường hô hấp có liên quan đến ô nhiễm không khí có
tỷ lệ cao so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên,
hệ thống giám sát ô nhiễm không khí và các bệnh liên
quan vẫn còn hạn chế. Do vậy, các bệnh về ung thư,
hô hấp, truyền nhiễm... đang tăng lên hàng năm.
Cả nước ô nhiễm
Ô nhiễm do khí thải công nghiệp gây ra chủ yếu là
bụi, SOx,, NOx, COx.... Nồng độ bụi có xu hướng tăng
theo thời gian, hầu hết đều vượt quá giới hạn cho
phép, chủ yếu tập trung vào một số nhà máy vật liệu
xây dựng (vượt tiêu chuẩn cho phép từ 20 đến 435
lần), các nhà máy cơ khí, đóng tàu (vượt 10 đến 15
lần), nhà máy dệt, may (vượt 3 đến 5 lần). Tại các
khu vực dân cư gần khu công nghiệp, nồng độ khí CO2,
CO, NO2 đã vượt tiêu chuẩn cho phép.
Công nghệ xử lý rác thải cũng hết sức lạc hậu, chủ
yếu chôn lấp. Cả nước hiện có 82 bãi chôn lấp chất
thải đang vận hành, nhưng chỉ 8 bãi chôn lấp hợp vệ
sinh. Rất nhiều bãi chôn lấp được sử dụng cho cả
chất thải thông thưòng và chất thải nguy hại như các
loại hoá chất, pin, ắc qui, dầu xe máy, các loại mỹ
phẩm, kim tiêm... Bên cạnh đó, nhiều địa phương còn
tồn tại các bãi rác lộ thiên, không có sự kiểm soát
về môi trường, gây ô nhiễm nặng. Việc áp dụng các
công nghệ tái chế chất thải còn hạn chế, hầu hết là
các hoạt động tự phát do các cơ sở tư nhân và hộ
kinh doanh ở các làng nghề thực hiện.
Đối với chất thải nguy hại, việc thu gom, xử lý chưa
có qui hoạch, đầu tư của nhà nước, hiện đang được
một số công ty tư nhân nhận xử lý với năng lực hạn
chế, chưa đảm bảo được các yêu cầu bảo vệ môi
trường. Riêng nước thải, 70% khu công nghiệp không
có hệ thống xử lý và nhiều cơ sở sản xuất có xử lý
nhưng không đạt tiêu chuẩn môi trường. Chỉ có 12% cơ
sở sản xuất hoá chất xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn.
Hà Nội ô nhiễm trầm trọng hơn
Theo đánh giá của Viện Y học lao động và Vệ sinh môi
trường, tình trạng ô nhiễm tại Hà Nội ngày càng nặng
hơn. Nhiều nhà máy vẫn dùng công nghệ cũ, lạc hậu,
không có xử lý chất thải. Đặc biệt, ô nhiễm nước do
sản xuất công nghiệp đang nằm trong “báo động đỏ”.
Nhiều khu công nghiệp thải ra tới 500.000m3 chưa qua
xử lý mỗi ngày. Một số ngành công nghiệp như hoá
chất, phân bón, khai thác chế biến khoáng sản có
lượng nước thải lớn, thải ra trực tiếp các sông, ao
hồ làm ô nhiềm nguồn nước, ảnh hưởng đến sức khỏe
người dân khu vực xung quanh.
Ông Nguyễn Khắc Hải, Viện trưởng Viện Y học lao động
và Vệ sinh môi trường bức xúc: Nước thải công nghiệp
từ Việt Trì, Hà Nội đổ thẳng vào sông Hồng không qua
xử lý làm cho hàm lượng kim loại nặng, các chất hữu
cơ, đặc biệt là hợp chất phenol được clo hoá, BOD,
COD rất cao. Tổng lượng nước thải của TP khoảng
300.000m3/ngày đêm, trong đó nước thải công nghiệp
là 85.000-90.000m3/ngày đêm, chiếm 27-30%.
Nước thải chỉ được xử lý sơ bộ trong các bể tự hoại
hoặc các bể lắng cặn trong các tuyến thoát nước
chung, vì vậy nồng độ chất ô nhiễm ở một số điểm xả
rất cao. Dự báo đến năm 2010, lượng nước thải tại Hà
Nội sẽ tăng lên 1,35 lần và 1,46 lần vào năm 2020.
Bệnh nghề nghiệp và lệnh do phơi nhiễm
Bộ Y tế cho biết, bình quân hàng năm chỉ có khoảng
10% công nhân lao động được khám sức khoẻ định kỳ.
Đa số có sức khoẻ loại 4, 5. Các bệnh viêm mũi, viêm
phế quản, phổi đứng đầu trong các bệnh nghề nghiệp
(chiếm hơn 40%). Đối tượng mắc chủ yếu là những
người làm việc trong môi trường thường xuyên tiếp
xúc với bụi như công nhân mỏ, sản xuất vật liệu xây
dựng, dệt may...
Thậm chí, sau khi ngừng tiếp xúc với bụi, bệnh vẫn
tiếp tục tiến triển, gây các biến chứng như lao
phổi, suy hô hấp, nhiễm khuẩn phế quản, phổi, tràn
khí phế mạc... Dự báo số người mắc bệnh nghề nghiệp
đến năm 2010 sẽ trên 30.000 người.
Hiện cả nước có khoảng 50 công ty, cơ sở sản xuất
phân bón hoá học, cao su, chất dẻo, chất tẩy rửa,
hoá chất bảo vệ thực vật đang hoạt động. Khoảng
30.000 lao động, trong đó khoảng 11.000 công nhân
phải tiếp xúc với hoá chất hàng ngày với tình trạng
thiết bị cũ kỹ, công nghệ sản xuất lạc hậu, lao động
thủ công là phổ biến, do vậy số công nhân mắc bệnh
nghề nghiệp, tai nạn lao động khá cao. Tỷ lệ bệnh
tật tại các khu dân cư xung quanh các khu công
nghiệp ô nhiễm càng ngày càng tăng.
Ông Trần Đáng, Cục trưởng Cục An toàn & Vệ sinh thực
phẩm cho biết, ô nhiễm thực phẩm do hoá chất BVTV
càng ngày càng gia tăng. Hiện nước ta chưa kiểm soát
được tình trạng nhập lậu, buôn bán các loại hoá chất
BVTV cấm qua biên giới, chưa hướng dẫn cụ thể cách
dùng hoá chất BVTV đến nơi đến chốn cho người dân.
Chính quyền các cấp, các ngành chức năng chưa thực
sự có biện pháp quản lý nghiêm ngặt hoá chất BVTV.
Chính vì vậy, tình trạng rau quả, kể cả chè xanh bị
nhiễm hoá chất BVTV không thể kiểm soát nỗi. Trong 5
năm qua, số người mắc tả, lỵ, thương hàn, tiêu
chảy... (những bệnh liên quan đến môi trường) của cả
nước lên đến 9.623.586 người, làm chết 329 người.
Chính quyền đang “nợ dân”
Thứ trưởng Bộ Y tế Trịnh Quân Huấn không khỏi bức
xúc: Vấn đề sức khoẻ môi trường nước ta đang gặp
phải những bất cập, bất cập lớn nhất là cho đến nay,
sức khoẻ môi trường chưa được lồng ghép một cách đầy
đủ trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là các chính sách liên quan đến cộng đồng dân
cư. Nhà nước chưa có một kế hoạch tổng thể và toàn
diện để giải quyết đồng bộ vấn đề sức khoẻ môi
trường trước mắt và lâu dài.
Ông Huấn thừa nhận, vừa qua, các vấn đề “nóng” về
sức khoẻ môi trường, như việc phát hiện các “làng
ung thư” chủ yếu do cơ quan thông tin đại chúng,
trong khi đó cơ quan quản lý nhà nước các cấp lại
chưa chủ động phát hiện và ngăn ngừa. “Đây là một
nhiệm vụ mà các cơ quan quản lý nhà nước đang nợ
dân”.
Để khắc phục tình trạng này, Bộ Y tế đã đưa ra một
số giải pháp như tăng cường hợp tác, phối hợp hành
động giữa các cơ quan môi trường và y tế, đặc biệt ở
cấp địa phương. Nhanh chóng xây dựng hệ thống theo
dõi, giám sát, đánh giá, thống kê và tổng hợp ảnh
hưởng xấu của các yếu tố môi trường lên sức khoẻ
nhân dân.
Trước mắt, ưu tiên xử lý các loại hoá chất độc hại,
tiếng ồn, ô nhiễm không khí, bức xạ, bảo đảm VSATTP,
bảo vệ nguồn nước ngầm và nước uống. Tổ chức khám
sức khoẻ định kỳ cho nhân dân tại các vùng chịu ảnh
hưởng do ô nhiễm, suy thoái môi trường, hạn chế các
tác động lây lan của dịch bệnh do môi trường gây ra,
đặc biệt là các bệnh lây qua đường nước, không khí
và các loại động thực vật.
________________________________________
URL của bản tin
này::http://ciren.vn/index.php?nre_site=News&nth_in=viewst&sid=4742
2- Dân TP HCM đổ bệnh vì ô nhiễm
22/08/2008
Có đất không trồng trọt, có nhà không muốn ở, bệnh
tật liên miên... là tình cảnh của hàng trăm nghìn
người dân sống quanh các khu chế xuất, khu công
nghiệp ở TP HCM.
Từ ba năm nay, anh Phạm Văn Thành, ấp 7, xã Lê Minh
Xuân, huyện Bình Chánh đã bỏ hoang hai công đất, chỉ
canh tác trên một nửa còn lại. Anh phàn nàn: “Đất
đai bây giờ bạc màu hết ráo rồi, trồng cây rau gì
cũng èo uột. Có vụ không thu hoạch được nên đành bỏ
hoang”.
Theo Phòng Cảnh sát môi trường TP HCM, khu công
nghiệp Lê Minh Xuân đang nằm trong “Top 3” khu công
nghiệp, khu chế xuất gây ô nhiễm nghiêm trọng trên
địa bàn thành phố. Nước thải chảy ra kênh rạch, rồi
chảy vào kênh thủy lợi nội đồng của các xã Lê Minh
Xuân, Phạm Văn Hai, Tân Nhựt…, ảnh hưởng lớn đến
hoạt động nông nghiệp, thủy lợi trên hàng nghìn ha.
Ngiêm trọng hơn, nước thải công nghiệp tràn ra khắp
nơi, đe dọa trực tiếp đến sức khỏe của cư dân quanh
vùng.
Ông Trần Văn Thanh ở ấp 6, xã Lê Minh Xuân, chỉ tay
xuống dòng kênh B, dọc đường Láng Le - Bàu Cò, nói:
“Hồi xưa, tụi tui còn giăng câu thả lưới ở đây. Giờ
lội nước còn không dám chứ đừng nói bắt cá lên ăn.
Tội nghiệp mấy đứa nhỏ ‘mùa hè xanh’ lội xuống kênh
dọn vệ sinh, về đến nhà chân cẳng nổi mẩn đỏ ngứa
ngáy, rồi nổi mưng mủ, phải dùng thuốc điều trị”.
Rồi ông Thanh vén ống quần chỉ vào hàng chục vết sẹo
lớn nhỏ, vết tích của những lần bị ghẻ lở do lội
kênh vớt rác.
Cống thoát nước gần công ty dệt Việt Thắng (Thủ Đức)
luôn có bột trắng và mùi hôi. Ảnh: Tố Tâm.
Tương tự, người dân Hóc Môn, Củ Chi cũng đang khốn
đốn vì chất thải từ các nhà máy và cơ sở sản xuất
tiểu thủ công nghiệp. Ông Tư Sảy, chủ quán nước ven
quốc lộ 22, ấp Trảng Bom, xã Tân Phú Trung, huyện Củ
Chi, luôn miệng than vãn vì quán ngày càng ế ẩm do
phải sống chung với mùi hôi thối bốc lên từ dòng
kênh đen ngòm.
“Mùa mưa nước kênh loãng ra nên bớt mùi, quán thi
thoảng còn có khách, đến mùa nắng thì vắng hẳn vì
chẳng ai chịu nổi mùi hôi thối từ kênh Trạm Bơm
trước khu công nghiệp Tân Phú Trung”, ông Tư nói.
Còn ở ấp Trảng Lắm, xã Trung Lập Hạ, huyện
Củ Chi, chị Nguyễn Thị Thanh và những người dân
khác vẫn tưới rau bằng loại nước đùng đục có
màu vàng và thoảng mùi tanh, lấy từ cái
giếng khoan sát nhà máy K. trong khu công nghiệp
Tây Bắc. “Đem bỏ mối ngoài chợ chứ người
trồng ở đây không dám ăn đâu” - chị Thanh thú
thật.
Hằng năm, Trung tâm y tế dự phòng TP HCM đều lấy mẫu
nước quanh các khu công nghiệp về xét nghiệm, kết
quả cho thấy mức độ ô nhiễm vượt ngưỡng cho phép
10%. Nồng độ các chất hữu cơ, ammoniac, natri,
nitrit trong nước đang có chiều hướng gia tăng.
Bệnh tật rình rập
Theo tìm hiểu của Đất Việt, rất nhiều người dân sống
quanh khu công nghiệp Tân Phú Trung bị viêm xoang
mạn tính do năm này qua tháng khác hít phải hóa chất
độc hại từ nước thải của các nhà máy. “Tụi tui là
dân thường, không cần phải là nhà khoa học cao siêu
cũng nhận thấy môi trường sống xung quanh mình ô
nhiễm nặng nề. Làm ăn không được, sống thì nơm nớp
lo sợ bệnh tật, nhưng biết tính sao?” - ông Tư Sảy
bày tỏ.
Ông Trần Văn Long, nhà ở thị trấn Củ Chi, nói: “Hồi
xưa, dân đất Thép này có đời nào biết đến
bệnh tật, giờ thì từ người lớn đến sắp nhỏ ai
nấy đều đổ bệnh. Mỗi tháng, mấy đứa cháu tôi đi
khám vì viêm mũi cả chục lần. Tui có ông bạn
láng giềng bỗng dưng bị ung thư gan, qua đời cách
đây 2 tháng. Đau ở chỗ là cả đời ổng không đụng đến
bia bọt, ăn uống bậy bạ”.
Ở nội thành cũng chẳng khá hơn. Bà Nguyễn Thị Hai ở
phường 16, quận 4 cho biết, cả chục năm nay, người
dân khu vực này phải sống chung với cảnh khói bụi
mịt mù thải ra từ nhà máy thủy tinh gần đó. Có đến
một nửa hộ dân sống sát bên nhà máy bị viêm đường hô
hấp, có một gia đình cả nhà đều bị bụi phổi, phải
điều trị cả năm trời.
Trao đổi với Đất Việt về vấn đề bệnh tật do ô
nhiễm môi trường, bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng,
nguyên Giám đốc Bệnh viện Ung bướu TP HCM,
nhận xét: “Rất khó phán đoán mối liên hệ
giữa ung thư và ô nhiễm môi trường vì đây là
một vấn đề phức tạp, cần thời gian nghiên
cứu sâu”. Tuy nhiên, theo bác sĩ Hùng, người dân
sống ở gần các nhà máy, khu công nghiệp tập trung dễ
bị ảnh hưởng trực tiếp do chất ô nhiễm từ nguồn
nước thải. Họ có khả năng bị nhiễm độc hóa chất,
bị bệnh tim mạch và ung thư da, ung thư nội tạng,
suy gan, thận…
Thu Thảo - Hữu Ký
http://www.baodatviet.vn/Home/Dan-TP-HCM-do-benh-vi-o-nhiem/20088/11471.datviet
3- Gia tăng bệnh tật vì dùng nước ô nhiễm
09/05/2008
Một đoạn sông Tô Lịch, Hà Nội ô nhiễm trầm trọng.
(Ảnh: Nguyễn Việt Dũng)
Hàng triệu người dân đang sống chung với “tử thần”
vì sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm... Đó là nhận định
của các chuyên gia tại Hội thảo “Báo cáo hiện trạng
tổng quan ngành nước Việt Nam” vừa tổ chức tại Hà
Nội.
Gần 22 triệu người chưa được cung cấp nước sạch
Năm 2007, nhóm nghiên cứu hỗ trợ đánh giá kỹ thuật
ngành nước Việt Nam do ngân hàng ADB tài trợ đã chọn
ngẫu nhiên 208 hộ gia đình sử dụng nước giếng khoan
cho ăn uống và sinh hoạt tại 3 xã Hoà Hậu, Bồ Đề,
Vĩnh Trụ của tỉnh Hà Nam. 100 nông dân đã được chọn
ngẫu nhiên để làm các xét nghiệm cận lâm sàng.
Kết quả cho thấy: Tình hình ô nhiễm asen trong nguồn
nước giếng khoan khu vực nghiên cứu thí điểm rất
nghiêm trọng (94,4% cao hơn tiêu chuẩn cho phép, 57%
tổng số giếng có nồng độ asen từ >100 đến >1000
mg/l).
So với một số vùng nghiên cứu khác, tỷ lệ mắc bệnh
chung của 3 xã này khá cao. Một số bệnh khác cũng có
tỷ lệ cao hơn so với các khu vực nghiên cứu khác như
bệnh ngoài da 28,3% (các nơi khác từ 5,7-13,6%). Tỷ
lệ biến đổi sắc tố da, sừng hoá, bệnh lưu thai sản
khá cao...
Theo đánh giá tổng quan của Ngân hàng châu Á, tính
đến đầu năm 2007, Việt Nam vẫn còn tới 22 triệu
người dân chưa được cung cấp đủ nước sạch. Các
chuyên gia cũng cho biết, với tình trạng nguồn nước
ngầm bị ô nhiễm nặng nề như hiện nay, phương pháp
dùng bể lọc thô như người dân vẫn dùng thời gian vừa
qua hoặc sử dụng nguồn nước mưa thì không thể đảm
bảo an toàn vệ sinh và đặc biệt là không tránh khỏi
bệnh tật.
Báo động ô nhiễm nước do thuốc trừ sâu
Ông Des CLeary - Cố vấn trưởng về dự án hỗ trợ kỹ
thuật đánh giá ngành nước Việt Nam cho biết: Hiện
nay ao, hồ và kênh rạch đang trở thành các khu chứa
nước thải và kênh tiêu. Hồ tự nhiên và kênh rạch ở
các khu đô thị đang bị ô nhiễm một cách trầm trọng.
Đặc biệt ô nhiễm nước do việc sử dụng thuốc trừ sâu
và phân hoá học đã đến mức báo động.
Ông Des CLeary khẳng định: Mặc dù Việt Nam đã có
Luật về môi trường nhưng thực tế ô nhiễm nước, thậm
chí tới mức gây nguy hiểm tới sức khoẻ con người,
vẫn chưa được nhiều ngành quan tâm. Việc cho phép và
cấp phép lượng nước thải đang thực hiện một cách
chậm chạp.
Một số chuyên gia còn cho biết: Sở dĩ việc sử dụng
nguồn nước giếng khoan gây ảnh hưởng tới sức khoẻ
của nhiều người dân là do từ trước đến nay, các hố
khoan và giếng được xây dựng đơn giản và nước được
bơm trực tiếp ngay chính từ giếng này.
Trong khi đó, chúng ta không hề có một sự nghiên cứu
khảo sát kỹ lưỡng nào về chất lượng nước cũng như có
chế tài để ngăn chặn việc lấy nước một cách không an
toàn. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho nguồn
nước ngầm, ảnh hưởng đến việc cung cấp nước cho các
hộ sử dụng mà còn tạo ra nguy cơ sụt đất và các vấn
đề khác.
Theo Dantri
http://www.cifpen.org/default.asp?page=newsdetail&newsid=1775
4- Vì một môi trường không hủy hoại cuộc sống
(Quân đội nhân dân, 05/06/2007)
Nền công nghiệp Việt Nam vẫn đang trên quá trình
phát triển, các khu công nghiệp và các đô thị vẫn
chưa thể so sánh được với các nước tiên tiến, thế
nhưng tình trạng ô nhiễm môi trường tại nhiều địa
phương đã đến mức báo động. Chúng ta đang đối mặt
với nhiều nguy cơ nhiễm bệnh nguy hiểm, chất lượng
cuộc sống giảm sút do môi trường nước, đất và không
khí bị ô nhiễm. Hằng ngày, hằng giờ, cuộc sống đang
bị hủy hoại…
Bệnh tật gia tăng do ô nhiễm không khí
Từ bao năm nay, người dân Hà Nội mỗi khi ra đường
thường không quên mang theo khẩu trang và các đồ
dùng tránh khói, bụi khác. Bởi thực tế, có không ít
con đường, tuyến phố trên địa bàn Thủ đô đang bị màn
sương khói bụi tấn công làm cho bầu không khí trở
nên ngột ngạt, khó chịu… Theo đánh giá của Cục Bảo
vệ môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) thì hiện
nay, mức độ ô nhiễm không khí ở nước ta đang ở mức
báo động cùng với quá trình đô thị hoá, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó, ở Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và một số khu đô
thị cạnh các khu công nghiệp…chất lượng không khí
đang ngày càng bị xuống cấp nghiêm trọng, ảnh hưởng
lớn đến sức khoẻ, môi trường sống của người dân Việt
Nam.
Trung tâm kỹ thuật, quan trắc môi trường (Trường đại
học Xây dựng Hà Nội) thu được những số liệu đo được
từ hệ thống máy quan trắc tự động rất hiện đại có
thể phát tín hiệu SOS. Hai khu vực vốn được đánh giá
là trong sạch nhất của thành phố Hà Nội như quận Ba
Đình, quận Tây Hồ thì mức độ ô nhiễm bụi và khí thải
vượt tiêu chuẩn cho phép trên 2 lần. Còn những khu
vực đang có công trình xây dựng hoặc đầu mối giao
thông thì ít nhất từ 5 đến 7 lần. Còn Viện Y học Lao
động và Vệ sinh môi trường cho biết, mỗi năm bầu
không khí thành phố Hà Nội tiếp nhận khoảng 80.000
tấn bụi khói, 9.000 tấn khí CO¬¬¬¬¬2, 19.000 tấn khí
NO2, 46.000 tấn khí CO2. Dự báo, đến năm 2010, nồng
độ những loại khí độc hại nói trên tại các nút giao
thông trên địa bàn Hà Nội sẽ vượt quá tiêu chuẩn cho
phép từ 7-9 lần. Riêng chất hữu cơ bay hơi sẽ vượt
ngưỡng 33 lần. Nồng độ bụi trong không khí tại các
trạm đo được ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng vượt quá
tiêu chuẩn cho phép từ 1,4 đến 3,3 lần.
Nguyên nhân chính gây ô nhiễm không khí là do quá
trình phát triển, đô thị hoá, xây dựng công trình,
công nghiệp hoá không được kiểm soát, do nạn phá
rừng và đặc biệt là sự gia tăng các phương tiện giao
thông như: ô tô, mô tô, xe gắn máy… dẫn đến sự gia
tăng các chất khí, khói xăng thải ra trực tiếp vào
môi trường. Ngoài ra, còn do tác động bởi quá trình
đun nấu bằng bếp than tổ ong, một số nơi đốt nhiên
liệu để sản xuất…
Ô nhiễm không khí đã trở thành mối đe doạ đến sức
khỏe con người. Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế
giới thì những bệnh liên quan đến ô nhiễm không khí
ở các thành phố lớn nước ta đang có xu hướng tăng
nhanh như hen phế quản, dị ứng; các bệnh phổi, lao,
ngoài da, mắt và các dị ứng khác. Có khoảng 37,7%
trường hợp viêm đường hô hấp dưới, 22% các bệnh phổi
mãn tính có nguyên nhân từ ô nhiễm không khí trong
nhà và có khoảng 5% số người mắc bệnh viêm phế quản,
ung thư phổi do ô nhiễm không khí ngoài trời. Hàm
lượng khói, bụi cao trong khí quyển cũng làm tăng
khả năng tử vong sớm đối với một số loại bệnh hô hấp
và thần kinh…
Hiểm họa từ các dòng nước đen
Mới đây, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên
Hiệp quốc (UNESCO) cho biết: Trên thế giới, mỗi ngày
có khoảng 14.000 người chết vì các bệnh do thiếu
nước sạch và nhà vệ sinh. Con số này hẳn sẽ làm
nhiều người giật mình khi liên tưởng tới tình trạng
ô nhiễm nước trầm trọng ở không ít địa phương nước
ta. Hiện nay, ở nhiều con sông, kênh rạch, nước đã
chuyển sang màu đen, được coi là những “dòng sông
chết”, bởi mức độ ô nhiễm của nó. Các động vật thủy
sinh không sống nổi trên những dòng sông này. Cục Y
tế dự phòng (Bộ Y tế) đưa ra khuyến cáo: Tình trạng
ô nhiễm môi trường ở nước ta đã gia tăng tới mức độ
đáng lo ngại. Theo đánh giá của các chuyên gia, chất
thải công nghiệp và chất thải y tế đổ thẳng ra sông
là mối hiểm họa khôn lường. Ngoài việc mắc một số
bệnh như: đau mắt, bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da,
tiêu chảy, dịch tả, thương hàn..., nhiều cư dân ở
gần các khu công nghiệp sử dụng công nghệ cũ còn có
nguy cơ mắc những chứng bệnh nan y. Những “làng ung
thư” được nói đến nhiều trong thời gian gần đây
thường nằm ở gần các khu công nghiệp nói trên.
Tuy không gây ô nhiễm nghiêm trọng như công nghiệp
nhưng nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất,
dùng để tưới lúa và hoa màu. Việc lạm dụng nông dược
và phân bón hoá học, các loại thuốc trừ sâu, hóa
chất, các chất hữu cơ, các vi sinh vật gây bệnh phục
vụ cho nông nghiệp đã và đang gây hại nghiêm trọng
tới nguồn nước và đất. Đáng chú ý nhất là các loại
vi khuẩn, siêu vi khuẩn và ký sinh trùng gây bệnh
tả, lỵ, thương hàn... có khả năng theo nguồn nước
phát tán, lây nhiễm sang những vùng dọc theo sông.
Tâm sự với chúng tôi, một cán bộ Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh Hà Tây cho biết chính
nhiều cán bộ ở đây không dám ăn các loại rau được
trồng ven sông Nhuệ, một con sông chảy qua tỉnh Hà
Tây, bởi mức độ ô nhiễm “kinh khủng” của con sông
này. “Nhiều khi rau muống luộc lên có nước đen kịt,
mùi tanh tanh”- ông cho biết. Sông Nhuệ cũng chỉ là
một trong số nhiều con sông đang bị đầu độc do nước
thải từ các khu công nghiệp, các làng nghề và nước
thải sinh hoạt đô thị.
Phải bảo vệ cho được nguồn nước và không khí
Để "cứu vãn" nguồn nước, được sự tài trợ của Quỹ
phát triển thể chế (IDF) của Ngân hàng Thế giới, Bộ
Tài nguyên và Môi trường đã bắt tay thực hiện dự án
Tăng cường năng lực kiểm soát ô nhiễm nước ở Việt
Nam từ cuối năm 2006. Dự án sẽ thực hiện trong 2 năm
với tổng kinh phí là 330.000 USD, trong đó vốn ODA
là 300.000 USD. Đúng như tên gọi, dự án nhằm tăng
cường thể chế cho kiểm soát ô nhiễm nước và nâng cao
hiệu quả của công tác thực hiện các quy định của
pháp luật (đặc biệt là thực hiện Nghị định
67/2003/NĐ-CP về Thu phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải và Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch quốc gia về xử lý
triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng). Bên cạnh đó, dự án cũng tăng cường cho các
cơ quan trong việc tuân thủ, giám sát và đánh giá
các văn bản pháp luật; nâng cao nhận thức và sự tham
gia của cộng đồng. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp
tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường. Dự án sẽ
được triển khai từ nay đến năm 2008 tại ba khu vực
sông đang bị ô nhiễm nghiêm trọng là sông Nhuệ -
sông Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai.
Giảm lượng khí thải gây ô nhiễm môi trường ở khu vực
đô thị là việc không dễ thực hiện trong tình hình
hiện nay. Vì đó là việc cần phải thực hiện song song
với quá trình đẩy mạnh phát triển xây dựng đô thị và
nâng cao đời sống kinh tế- xã hội. Thời gian qua,
một số thành phố đã tiến hành di dời các cơ sở sản
xuất công nghiệp gây ô nhiễm không khí ra khỏi khu
dân cư. Triển khai nghiên cứu và khuyến khích sử
dụng nhiên liệu khí hóa lỏng cho xe ô tô, thiết lập
hệ thống quan trắc không khí ở những nơi có mạng
lưới giao thông lớn; triển khai thực hiện các dự án
tăng cường năng lực giao thông đô thị theo quy hoạch
đô thị, đưa vào sử dụng một số loại xe máy, ô tô
chạy bằng nhiên liệu để hạn chế ô nhiễm môi trường…
Tuy nhiên, việc giảm các phương tiện giao thông để
giảm khí thải là điều rất khó vì số người đăng ký sử
dụng phương tiện xe gắn máy, ô tô vẫn tiếp tục tăng
nhanh. Do vậy, để hạn chế lượng khí thải độc vào môi
trường theo một số chuyên gia thì cần phải kiểm soát
và siết chặt tiêu chuẩn khí thải đối với các phương
tiện ô tô và xe máy khi tham gia giao thông, nên
giảm phương tiện cá nhân, tăng phương tiện giao
thông công cộng như xe buýt, tàu điện trên cao… Quản
lý chặt chẽ hoạt động sản xuất, vận chuyển vật liệu
và xây dựng… bảo đảm giữ gìn vệ sinh môi trường, sản
xuất sạch, sử dụng nhiên liệu chất đốt phù hợp trong
sinh hoạt để giảm bớt khí thải.
Các cơ quan chức năng cũng cần tăng cường tuyên
truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức tự
giác cho cộng đồng tham gia giao thông, sống, lao
động, sản xuất "thân thiện” hơn với môi trường.
Quang Phương và Thanh Minh
http://www.nea.gov.vn/thongtinmt/noidung/qd_5_06_07.htm
TP.HCM:
Người dân đang "chết mòn" vì khói bụi
02/06/2008
5- Người dân đang phải đối mặt với ô nhiễm không khí.
Ô nhiễm môi trường không khí do khói bụi đang là thủ
phạm hủy hoại sức khỏe người dân. Thế nhưng, vấn nạn
này không những không chặn được mà đang ngày một
nghiêm trọng hơn.
Ô nhiễm ở mọi nơi
Theo Chi cục Bảo vệ môi trường TP.HCM, hiện TP đang
nằm trong "top" đô thị bị ô nhiễm bụi nặng nhất hiện
nay trong cả nước, với mức độ cao trên 2,5 lần tiêu
chuẩn cho phép.
Tại các nút giao thông lớn của TP, nồng độ bụi luôn
là nỗi ám ảnh của người dân. Bằng chứng khi quan
trắc tại ngã tư khu vực An Sương, quận 12, nồng độ
bụi đã lên đến gần 1,2mg/m3.
Trong khi đó, mức độ ô nhiễm khí ôxit cabon trong
không khí ở đây cũng cao hơn tiêu chuẩn cho phép
5mg/m3. Điều mà khiến người dân lo ngại hiện nay là
hầu hết các khu vực ô nhiễm khói bụi đều là nơi tập
trung khu dân cư, lượng người sống và sinh hoạt
đông.
Báo cáo quan trắc và giám sát chất lượng môi trường
hằng năm của Chi cục Bảo vệ môi trường TPHCM, 2 khu
vực phía đông và tây bắc thành phố như khu vực Hàng
Xanh, ngã tư Đinh Tiên Hoàng – Điện Biên Phủ và Ngã
tư An Sương được xem là nặng nhất với mức ô nhiễm
không khí vượt chuẩn 1,3 – 1,8 lần.
Ngay tại khu vực cổng Trường đại học Bách khoa TPHCM
trên đường Lý Thường Kiệt, quận 10, nồng độ khí CO
cũng vượt 8mg/m3.
Nguy hiểm hơn, nồng độ bụi trung bình trong không
khí vượt tiêu chuẩn cho phép cao từ 2-7 lần đang tồn
tại nhiều năm qua ở khu vực quận 9 và Thủ Đức, dọc
theo xa lộ Hà Nội. Riêng tại đoạn từ cầu Rạch Chiếc
đến ngã tư Bình Thái, ở 2 quận, nồng độ bụi trung
bình vượt tiêu chuẩn hơn 7,1 lần.
Trong khi đó, tại các khu vực nơi đóng chân của 15
khu công nghiệp, chế xuất ở TP, tình trạng ô nhiễm
không khí khiến nhiều người giật mình hơn. Tại khu
công nghiệp Tân Bình, Khu chế xuất Linh Trung, Tân
Thuận... mức độ ô nhiễm ở khu vực luôn cao hơn nhiều
lần so với những khu vực ở xa khu công nghiệp.
Nồng độ bụi có kích thước nhỏ dưới 10 mm ở các khu
công nghiệp chiếm khoảng 70%, trong khi hàm lượng
các loại khí như NO2, CO, SO2... và ô nhiễm tiếng ồn
đều gia tăng theo từng năm.
"Sống chung" và "chết mòn"
Mỗi ngày bà Nguyễn Thị Xuân, 54 tuổi, ở 71, đường
Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận Đông, quận 7 đều
tưới nước ra đường từ 15- 20 lần để hạn chế bụi từ
các phương tiện giao thông hắt vào nhà nhưng mọi
chuyện vẫn không khá lên, nhà bà bụi vẫn tràn vào
dày đặc.
Theo bà Xuân, hầu hết các hộ dân sống 2 bên đường
nơi đây đều có nỗi khổ giống gia đình bà. Người thì
tưới nước chống bụi, nhà thì che chắn màn bạt.
Trong khi đó, ông Trần Hữu Hinh, ở đường Tây Thạnh
cạnh khu công nghiệp Tân Bình -TPHCM, cho biết:
"Hàng chục năm nay chúng tôi phải sống chung với
nhiều chất độc hại, luôn hứng chịu mùi hôi của nước
thải, mùi hóa chất".
Một nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm không khí ảnh
hưởng đến bệnh tật của Viện Vệ sinh Y tế công cộng
TPHCM, cho thấy, chỉ riêng về ô nhiễm công nghiệp từ
các khu chế xuất, công nghiệp đã gây ra 25 bệnh tật
như: nhiễm độc các-bon, nhiễm độc benzen, nhiễm độc
nicotin, viêm da, viêm gan do virus, bệnh rung
chuyển tần số cao, bệnh điếc nghề nghiệp...
Trong khi đó, theo bác sĩ Trần Anh Tuấn – Trưởng
khoa Hô hấp Bệnh viện Nhi đồng 1 thì tại khoa này
lượng bệnh nhi mắc các bệnh về viêm phổi, viêm tai
giữa, suyễn có liên quan đến ô nhiễm không khí cũng
ngày một gia tăng.
Thống kê của khoa này trong năm 2007 cho thấy, trên
50% trẻ em sống ở các quận có mức độ ô nhiễm cao như
Tân Bình, Bình Chánh, quận 8, 9 và 11 bị bệnh đường
hô hấp đến khám và điều trị tại khoa này, trong số
đó, 15% trên tổng số bệnh nhi là ở quận Tân Bình.
Theo bác sĩ Tuấn, phụ nữ đang mang thai tiếp xúc
trong khoảng thời gian dài với không khí ô nhiễm sẽ
làm ảnh hưởng đến thai nhi, quá trình lão hoá trong
cơ thể sống. Đối với người bình thường, tiếp xúc với
ô nhiễm sẽ làm suy giảm chức năng của phổi; gây bệnh
hen suyễn, viêm phế quản; gây bệnh ung thư, bệnh tim
mạch và làm giảm tuổi thọ.
(Theo Tiền Phong)
Theo dòng sự kiện
TPHCM:
6- Đại ô nhiễm bụi!
Lao Động số 158 Ngày 12/07/2008 Cập nhật: 7:58 AM,
12/07/2008
Người dân khổ sở khi đi ngang một công trường trên
đường Phạm Thế Hiển, Q.8.
(LĐ) - Hàng trăm công trường các loại công trình
giao thông, thi công hệ thống cống thoát nước, các
công trình xây dựng cao ốc... từ nội thành ra đến
ngoại thành đã biến thành phố trở thành thành phố ô
nhiễm. Ngày mưa, bùn đất bắn tung toé; ngày nắng,
bụi bặm giăng mờ mịt.
Công trường đến đâu, ô nhiễm đến đó
Chị Hải Minh - chủ một cửa hàng bán phong lan trên
đường Hoàng Văn Thụ, quận Tân Bình - vừa tiếp khách
hàng vừa lấy tay che miệng. Chị phân bua: "Chú thông
cảm, bụi quá. Mấy hôm nay còn đỡ vì hôm trước trời
có mưa, chỉ cần 3 ngày trời không mưa là bụi mù
mịt". Hàng phở gần cửa hàng của chị Hải Minh, chốc
chốc phải té nước ra đường cho đỡ bụi. Đó là tình
cảnh của hàng chục hộ dân buôn bán dọc tuyến đường
Hoàng Văn Thụ - đoạn từ vòng xoay Lăng Cha Cả đến
ngã ba Phạm Văn Hai. Cả đoạn đường được rào chắn để
thi công, trong dự án vệ sinh môi trường TP lưu vực
Nhiêu Lộc - Thị Nghè.
Phần đường còn lại quá hẹp, phương tiện giao thông
vọt lên cả vỉa hè, cuốn theo bụi bặm tuôn thẳng vào
nhà dân. Mức độ ô nhiễm có thể thấy được ngay cả
bằng mắt thường, gạch lát vỉa hè từ màu vàng bị
nhuộm thành màu đen của bùn đất. Đây cũng là tình
cảnh chung của hàng vạn hộ dân sống dọc theo các
công trường cũng như người tham gia giao thông, hàng
ngày phải hứng chịu khi lưu thông trên những con
đường bụi. Hàng loạt các con đường lớn trong nội
thành như Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn
Hữu Cảnh... bị biến thành những con đường ô nhiễm.
Mỗi khi đi qua đây, người tham gia giao thông đều
phải nín thở vì bụi.
Theo ông Trần Quang Phượng - GĐ Sở GTVT - chỉ tính
riêng 20 dự án thoát nước và nâng cấp đô thị, đã có
đến 197 công trường trên 77 tuyến đường. Ý thức được
việc các công trường làm ảnh hưởng đến môi trường,
Sở GTVT đã có quy định buộc các đơn vị thi công phải
có rào chắn cẩn thận để tránh ảnh hưởng đến bên
ngoài.
Thế nhưng, chỉ tính từ 1.1.2008 đến 20.6.2008 Thanh
tra Sở GTVT đã xử phạt các đơn vị thi công đến 529
lần, với số tiền gần 1,5 tỉ đồng vì không chấp hành
các quy định. Vi phạm chủ yếu là không rào chắn cẩn
thận, để bùn đất lọt ra ngoài, xe từ công trường
mang đất chạy ra phố mà không được vệ sinh như quy
định... Những con số này đã chứng minh là các đơn vị
thi công chả mấy quan tâm đến các quy định của ngành
giao thông vận tải cũng như môi trường xung quanh
công trường.
Ngoại thành - đại công trường đại ô nhiễm
Trong nội thành, tình trạng ô nhiễm do bụi đã vậy;
khu vực ngoại thành, tình hình còn tệ hơn. Khu vực
phía nam TP, tuyến đường Nguyễn Hữu Thọ (hay còn gọi
là đường Bắc - Nam) đoạn từ đại lộ Nguyễn Văn Linh
đi KCN Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, chẳng ai có thể
nhận ra đó là một con đường. Những ngày mưa, mặt
đường bị bao phủ bởi một lớp bùn. Những ngày nắng,
lớp bùn biến thành một lớp bụi.
Người dân té nước trên đường Trần Xuân Soạn, Q.7 để
hạn chế bụi.
Mỗi khi có xe tải chạy qua làm bụi tung mờ mịt,
những người đi trên xe máy phải tấp vào lề vì không
tài nào thấy đường. Lạ một điều, xe tải chở cát, đất
nhưng không có bạt che chắn như quy định. Dọc theo
tỉnh lộ 25, quận 2 (từ ngã ba Cát Lái đến cảng Cát
Lái), một loạt các dự án phát triển đô thị đang
trong giai đoạn thi công gấp rút lúc nào cũng ken
dày xe tải ra vào các công trình. Trong buổi sáng
11.7, chúng tôi quan sát thấy xe tải từ công trường
vô tư mang đất ra ngoài, đất bắn tung toé ra đường
nhưng không ai phạt.
Theo số liệu quan trắc của Sở TNMT, chất lượng không
khí ven đường từ năm 2002 đến nay luôn ở trong tình
trạng kém. Dường như vấn đề ô nhiễm không khí do
khói bụi - đặc biệt là bụi từ các công trình lộ
thiên - vẫn chưa được quan tâm như các loại ô nhiễm
khác như ô nhiễm nguồn nước... Thiết nghĩ, đã đến
lúc TPHCM cần phải mở một chiến dịch tuyên chiến với
nạn ô nhiễm do bụi từ các công trường xây dựng.
* Chỉ số chất lượng không khí AQI (viết tắt của từ
Air quality index) là chỉ số đại diện cho nồng độ
của nhóm các chất ô nhiễm, gồm: CO, NO2, SO2, O3 và
bụi. Chỉ số AQI cho biết tình trạng chất lượng không
khí, mức độ ảnh hưởng tới sức khoẻ người dân. Chỉ số
AQI được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới. Chỉ
số AQI từ 0 đến 50 là chất lượng không khí tốt; từ
51 đến 100 là trung bình; từ 101 đến 200 - kém; từ
201 đến 300 - xấu, trên 300 là nguy hại. Đối với
TPHCM, số liệu được cập nhật gần đây nhất là ngày
5.10.2007, chỉ số AQI là 126 - được xếp vào loại
kém.
P.V
* Nguyên nhân gây bụi nghiêm trọng ở Hà Nội: Theo số
liệu thống kê của các cơ quan chức năng, trên địa
bàn TP luôn có hơn 1.000 công trường xây dựng lớn
nhỏ đang thi công, ngoài ra mỗi tháng có khoảng hơn
10.000m2 đường bị đào bới để thi công các công trình
hạ tầng kỹ thuật. Các công trình xây dựng chưa quan
tâm đúng mức đến công tác vệ sinh môi trường, còn
các phương tiện chở vật liệu xây dựng không có hệ
thống che chắn đảm bảo, tình trạng đổ trộm phế thải
xây dựng vẫn diễn ra nghiêm trọng là một trong những
nguyên nhân gây bụi nghiêm trọng ở Hà Nội.
Hà Nội hiện có trên 200 nghìn xe ôtô, gần 2 triệu xe
môtô, ngoài ra còn có một lượng lớn xe quân đội, xe
ngoại tỉnh, xe của các cơ quan trung ương hoạt động
trên địa bàn Hà Nội. Hàng ngày, Hà Nội có khoảng gần
18.000 xe ôtô và 160.000 xe môtô, xe máy của các địa
phương khác đi qua. HN hiện cũng còn nhiều phương
tiện cũ nát lưu hành trên đường, dẫn đến tình trạng
khói, bụi thải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
H.Đ
Nhóm PV
http://www.laodong.com.vn/Home/Dai-o-nhiem-bui/20087/97237.laodong
7- Bệnh vì tiếng ồn và khí thải
Cập nhật: 8:25 AM, 07/08/2008
Người dân ở thành phố đang bị "tra tấn" bởi tiếng ồn
và khí thải.
Việt Nam đã có những tiêu chuẩn quy định về tiếng ồn
và khí thải cho mô tô và xe máy. Nhưng trên thực tế
có hàng loạt xe không đảm bảo cả hai tiêu chuẩn ấy,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân.
Khí thải vượt mức cho phép nhiều lần
Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5937(1995), giá trị
giới hạn các thông số cơ bản trong không khí trung
bình 24 giờ là CO: 5mg/m3, SO2: 0,3mg/m3, bụi lơ
lửng: 0,2mg/m3... Nhưng mới đây theo khảo sát của
Chi cục Bảo vệ môi trường TPHCM, tại những điểm có
lưu lượng xe qua lại nhiều, đặc biệt trong tình
trạng ùn tắc giao thông thì nồng độ những chất này
cao gấp 3 đến 7 lần chuẩn cho phép.
Thống kê mới đây cho thấy, tại TPHCM có khoảng 3,5
triệu chiếc xe gắn máy và 500.000 ô tô các loại. 50%
- 60% số mô tô, xe máy đang lưu hành không đạt yêu
cầu về khí thải và âm thanh (thống kê của Cục Đăng
kiểm Việt Nam 2006), ngoài tiếng ồn vượt mức giới
hạn, hàng giờ lượng xe này thải ra một lượng khí
thải với 6 triệu tấn CO2, 61.000 tấn CO, 35.000 tấn
NO2, 12.000 tấn SO2 và 22.000 tấn CmHn.
Cho nên khi TPHCM càng tiến gần đến danh hiệu "siêu
đô thị" thì bài toán về môi trường, giao thông càng
trở nên nan giải.
Bác sĩ Phạm Công Nhân, Trung tâm Sức khỏe lao động
và Môi trường TPHCM cho biết: "Những khí thải này
gây những bệnh về đường hô hấp như: viêm họng, viêm
đường hô hấp trên, bệnh phổi... không chỉ với người
tham gia giao thông mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng
tới sức khỏe những hộ dân sống ven đường. Nguy hiểm
hơn, trong khí thải của động cơ xe còn chứa benzen
và dẫn xuất của benzen - những chất có khả năng gây
ung thư rất lớn".
Theo điều tra, nồng độ benzen trong không khí trên
các trục giao thông trên địa bàn TPHCM ở mức trung
bình là 33,5mcg/m3, cao gấp 6,72 lần tiêu chuẩn cho
phép của Tổ chức Y tế thế giới.
Lãng tai trở nên phổ biến
Chị Đỗ Thị Kim Dung ở đường Lê Trọng Tấn, quận Tân
Phú cho biết: "Nhà dưới luồng bay của sân bay Tân
Sơn Nhất nhưng nhiều khi tiếng ồn từ ô tô, xe máy...
đánh bạt luôn cả tiếng máy bay, ở riết rồi cũng thấy
bình thường. Chỉ tội mấy đứa trẻ hình như đứa nào
cũng bị bệnh lãng tai".
Còn anh Nguyễn Công Bảy nhà ở đường Thích Quảng Đức,
quận Phú Nhuận cho biết: "Nhà tôi gần đường ray xe
lửa nên gần như cả ngày lẫn đêm phải chịu tiếng ồn
tra tấn, đã thế khi ra đường thì bị lũ trẻ choai
choai phóng xe bóp còi inh ỏi nên bây giờ gần như
mất cảm giác về tiếng động xung quanh rồi!".
Theo tài liệu nghiên cứu của Khoa Bệnh nghề nghiệp,
Trung tâm Sức khỏe lao động và Môi trường TPHCM, mỗi
người có một ngưỡng nghe nhất định, tiếng ồn quá
giới hạn cho phép gây ra tác hại trước mắt là: mệt
mỏi, suy nhược toàn thân, ù tai, giảm hiệu quả công
việc, biến đổi tâm lý... Tác hại lâu dài: gây điếc
tạm thời, điếc vĩnh viễn... Và các chấn thương này
nếu không kịp thời phát hiện và điều trị sẽ không
thể phục hồi.
Theo PGS.TS Nguyễn Lê Ninh, Phó Chủ tịch Thường trực
Hội Thiết bị và động lực TPHCM, tiếng ồn dọc các
tuyến đuờng chính của TPHCM, ở bất kỳ một điểm đo
nào cũng vượt ngưỡng cho phép. Thế nên việc ảnh
hưởng tới sức khỏe của người dân là chuyện tất yếu.
(Theo SGGP)
Theo dòng sự kiện
http://www.laodong.com.vn/Home/Benh-vi-tieng-on-va-khi-thai/20088/101022.laodong
Khu cảng cá Tắc Cậu (Kiên Giang):
8- Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng
Cập nhật: 1:48 PM, 05/08/2008
Dãy nhà lựa cá của khu cảng cá Tắc Cậu không có hệ
thống thu gom xử lý nước thải nên nước cá tràn ra
mặt đường, ứ đọng bốc mùi tanh hôi.
Cảng cá Tắc Cậu và khu dịch vụ hậu cần nghề cá (gọi
chung là khu cảng cá Tắc Cậu) nằm tại xã Bình An,
huyện Châu Thành (Kiên Giang). Quá trình hoạt động
của khu cảng cá đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
môi trường.
Không có hệ thống xử lý nước thải
Hiện khu cảng cá Tắc Cậu có 27 dự án đầu tư được
triển khai, trong đó có 17 dự án xây dựng nhà máy
chế biến thủy sản. Ông Đỗ Minh Phơn, phó giám đốc
Công ty cổ phần thủy sản Hải Minh, cho biết công
suất thiết kế của nhà máy là 1.100 tấn thành
phẩm/năm, nhưng do gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu
nên nhà máy hoạt động mới đạt khoảng 30% công suất.
Công ty chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải vì còn
chờ khu cảng cá Tắc Cậu xây dựng thêm một trạm xử lý
nước thải tập trung.
Phần lớn nhà máy còn lại cũng không đầu tư hệ thống
xử lý nước thải, một số cơ sở có hệ thống xử lý
nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc không vận hành xử lý,
nên nước vẫn có nồng độ ô nhiễm khá cao và đều thải
trực tiếp vào cống thoát nước mưa để ra sông Cái Bé.
Riêng hệ thống thoát nước bẩn, nước mưa của khu cảng
cá Tắc Cậu đã quá tải, làm ảnh hưởng hệ thống thoát
nước chung của khu vực.
Khu vực giáp ranh của cảng cá Tắc Cậu - kênh Bờ Bảng
Vàng - đường thoát nước cũng bị tắc nghẽn, gây ngập
úng.
Điều đáng nói là trạm xử lý nước thải tập trung của
khu cảng cá Tắc Cậu đã được xây dựng (do Xí nghiệp
Quản lý bến cảng cá Kiên Giang quản lý), tuy chỉ đủ
sức phục vụ xử lý nước thải bốn nhà máy nhưng cũng
không hoạt động thường xuyên.
Thiếu nhất quán
Thực trạng ô nhiễm môi trường tại khu cảng cá Tắc
Cậu có nguyên nhân do luận chứng kinh tế - kỹ thuật.
Ban đầu khu cảng cá này dự kiến chỉ bố trí năm nhà
máy trong 9ha, các công trình hạ tầng cơ sở cũng
được thiết kế tương ứng với quy mô này. Do các nhà
lựa cá được xây dựng ở vị trí cách xa cầu tàu, không
thuận lợi cho bốc dỡ hoặc lên hàng, nên phát sinh
ngoài luận chứng một dãy nhà lựa sản phẩm nằm cặp
cầu tàu. Đến lúc đi vào hoạt động thì các hạng mục
công trình này nảy sinh vấn đề không có mặt bằng để
bố trí hệ thống thu gom xử lý nước thải riêng.
Để thực hiện chủ trương thu hút đầu tư của tỉnh, khu
cảng cá Tắc Cậu được mở rộng với qui mô 32ha (bố trí
xây dựng 27 nhà máy). Chính vì vậy, các công trình
hạ tầng cơ sở hiện có không đủ sức đáp ứng nhu cầu
phát triển. Chẳng hạn hệ thống xử lý nước thải tập
trung có công suất thiết kế 400m3/ngày đêm nhưng nhu
cầu xử lý nước thải thực tế hơn 2.100m3/ngày đêm.
Cách quản lý đối với các doanh nghiệp (DN) ở đây
cũng còn chồng chéo và chưa có chính sách bảo vệ môi
trường nhất quán. Một giám đốc công ty than phiền:
"DN không biết phải tuân thủ quy định về bảo vệ môi
trường theo tiêu chuẩn xả thải nào. Lúc thì xí
nghiệp (Xí nghiệp quản lý bến cảng cá) yêu cầu DN
phải góp tiền để lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường chung cho khu cảng cá, khi thanh tra đến làm
việc lại đòi phạt vì DN không lập báo cáo đánh giá
tác động môi trường cho nhà máy".
Qua thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật
về bảo vệ môi trường tại bảy DN chế biến thủy sản
thuộc khu cảng cá Tắc Cậu, đoàn thanh tra Sở Tài
nguyên và môi trường đã phát hiện bảy DN không lập
báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi đưa
nhà máy vào hoạt động. Trong quá trình sản xuất, các
nhà máy đều có hành vi xả nước thải không qua xử lý
vào môi trường vượt hơn mười lần tiêu chuẩn cho
phép.
Ông Vũ Ngọc Phước - trưởng đoàn thanh tra - cho biết
do vi phạm của các DN vượt thẩm quyền xử phạt của
chánh thanh tra sở, nên vụ việc được trình lên UBND
tỉnh Kiên Giang xem xét, quyết định xử lý. Chủ tịch
UBND tỉnh Kiên Giang Bùi Ngọc Sương đã có kết luận:
giao Sở TN-MT có văn bản buộc bảy DN trong thời hạn
45 ngày làm việc phải lập báo cáo đánh giá tác động
môi trường, hoặc trong thời hạn 15 ngày làm việc
phải đăng ký và thực hiện cam kết bảo vệ môi trường,
đồng thời khắc phục ô nhiễm môi trường do DN gây ra.
Thế nhưng gần một năm rưỡi trôi qua, thực trạng ô
nhiễm môi trường tại khu cảng cá Tắc Cậu vẫn chưa có
chuyển biến đáng kể. Theo ông Đoàn Hữu Thắng -
trưởng Phòng môi trường (Sở Tài nguyên và môi
trường), đến nay mới có Công ty cổ phần Thủy sản số
4 (Kiên Giang) đến đăng ký để kiểm tra hệ thống xử
lý nước thải của nhà máy, lấy mẫu nước đem phân tích
và được xác nhận bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi
trường.
(Theo Tuổi Trẻ)
http://www.laodong.com.vn/Home/Moi-truong-bi-o-nhiem-nghiem-trong/20088/100624.laodong
9/Gia tăng bệnh phổi do ô nhiễm
không khí
Gia tăng bệnh phổi do ô nhiễm không khí
Cập nhật: 22/05/2007 - 05:32 - Nguồn: TienPhong.vn
Dưới đây là phiên bản cache tại địa chỉ
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=84652&ChannelID=9
Theo các bác sĩ BV Lao và Bệnh phổi T.Ư, thường
xuyên có 50 bệnh nhân liên quan đến phổi phải điều
trị trên cáng do không đủ giường. Một trong những
nguyên nhân chính được xác định là do sống trong bầu
không khí bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng.
Không khí ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng khiến bệnh
tật gia tăng nhanh
Viện Lao và Bệnh phổi Trung ương hiện có tổng số 400
giường, trong đó 20 giường dành cho hồi sức cấp cứu.
Phần lớn bệnh nhân điều trị tại BV là do mắc bệnh
phổi tắc nghẽn mãn tính.
Nhiều người trong số đó còn rất trẻ. Bệnh nhân N.T.H
ở Hà Tây, 33 tuổi, đã điều trị tại Viện hai tuần,
cho biết, gia đình anh sống bằng nghề đóng gạch.
Khói lò gạch cả chục năm nay ám vào phổi khiến anh
thường xuyên khó thở, tức ngực, người gầy mòn.
Anh đã điều trị thuốc hàng năm trời không khỏi.
“Thôn tôi nhà nào làm nghề này cũng có người ho hen.
Nhiều người bệnh nặng phải chuyển lên Hà Nội chữa
chạy. Có người đã không qua khỏi” - Anh buồn rầu.
Một số bệnh nhân khác cho biết gia đình ở gần quốc
lộ quanh năm hít khói bụi, hoặc sống, làm việc tại
xưởng sơn, hàn, xưởng nhựa…
Theo điều tra công bố ngày 18/5 của Viện Y học Lao
động và Vệ sinh môi trường, không khí tại các thành
phố lớn ngày càng ô nhiễm nặng nề.
Kết quả quan trắc mới đây tại Hà Nội cho thấy, mỗi
năm bầu không khí thành phố tiếp nhận 80.000 tấn bụi
khói, 9.000 tấn khí CO2, 19.000 tấn khí NO2, 46.000
tấn khí CO2.
Theo dự báo, đến năm 2010, nồng độ những loại khí
độc hại nói trên tại các nút giao thông trên địa bàn
Hà Nội sẽ vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 7 - 9 lần.
Riêng chất hữu cơ bay hơi sẽ vượt ngưỡng 33 lần.
Theo chân BS Nguyễn Thị Bích Ngọc, khoa Bệnh phổi
nhiễm trùng, chúng tôi đi qua những phòng bệnh kín
bệnh nhân. Hầu hết thể trạng bệnh nhân đều xanh xao
gầy yếu.
BS Ngọc cho biết, qua các điều tra dịch tễ thực hiện
tại BV, có thể thấy nguyên nhân hàng đầu gây nên
bệnh lao phổi hiện nay là điều kiện sống không đảm
bảo. Trong đó, bầu không khí bị ô nhiễm bởi bụi,
khói, hơi hóa chất… khiến số người mắc bệnh phổi
ngày càng gia tăng.
“Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính gây tử vong rất cao,
chỉ sau bệnh mạch vành, ung thư và tai biến mạch máu
não. Hiện nay khoảng trên 7% người trên 40 tuổi ở Hà
Nội bị viêm phổi tắc nghẽn mãn tính” – BS Ngọc nói.
Bệnh bụi phổi chiếm 87%
TS. BS Nguyễn Duy Bảo, Phó viện trưởng Viện Y học
lao động khẳng định: Không khí tại một số khu phố
của Hà Nội vào thời điểm nắng nóng rất ô nhiễm, nồng
độ các chất độc hại cao hơn tiêu chuẩn cho phép
nhiều lần.
Cụ thể, mặt phố Lò Đúc và nút giao thông Ngã Tư Sở
vào mùa hè có nồng độ CO trung bình từ 13,9 –
19,8/m3, vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) từ 2,7 –
3,9 lần; nồng độ SO2 từ 0,6 – 0,8mg/m3, vượt 2 – 2,6
lần TCCP.
Nồng độ benzen ở mặt phố Lò Đúc cũng cao hơn TCCP
1,5 lần. Nồng độ hơi khí CO, SO2, benzen đo ở mặt
phố Lò Đúc cao hơn vị trí cách mặt phố 20m.
Theo dự báo, đến năm 2010, nồng độ những loại khí
độc hại nói trên tại các nút giao thông trên địa bàn
Hà Nội sẽ vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 7 – 9 lần.
Riêng chất hữu cơ bay hơi sẽ vượt ngưỡng 33 lần. Dân
cư hai tuyến phố trên có tỷ lệ ho khan, khạc đờm,
khó thở, viêm họng khá cao, dao động từ 3,4% – 25%.
Theo TS Hoàng Dương Tùng-Giám đốc Trung tâm quan
trắc và Thông tin môi trường (Cục Bảo vệ môi
trường), không riêng Hà Nội, không khí tại nhiều đô
thị lớn đang ngày càng xuống cấp nghiêm trọng.
“Một ví dụ đơn giản nhất của việc chúng ta đang sống
trong bầu không khí bẩn là nếu đi ngoài đường không
bịt khẩu trang thì mặt và trong mũi sẽ bám toàn bụi
đen sì. Nếu đứng trong đám tắc đường thậm chí khó
thở, chóng mặt. Điều này trước đây không hề có”. -
TS Tùng nói.
Hiện nay, Việt Nam chưa có một phương pháp thống kê
cụ thể để kết luận chính xác bệnh nào do ô nhiễm môi
trường gây nên. “Tuy nhiên, những khảo sát ban đầu
cho thấy bệnh bụi phổi đang chiếm tỷ lệ đầu bảng
(87%) trong 25 bệnh nghề nghiệp của Việt Nam”. - TS
Bảo cảnh báo.
TS Bảo cho biết, hiện nay Viện YHLĐ đang phối hợp
với Cục Y tế Dự phòng (Bộ Y tế), xây dựng khung hồ
sơ quốc gia về tác động của môi trường đến sức khoẻ
nhân dân, đồng thời xây dựng bộ chỉ thị đánh giá môi
trường sức khoẻ để cung cấp cho các bệnh viện, cơ sở
y tế trên toàn quốc.
Mỹ Hằng
http://www.tin247.com/gia_tang_benh_phoi_do_o_nhiem_khong_khi-10-156131.html
10- Môi trường bị ô nhiễm: Mối nguy lớn về bệnh hô hấp
(Sài Gòn Giải phóng, ngày 10/11/2003)
Làm việc ở lò nấu thép - môi trường ô nhiễm nhưng
công nhân Công ty TNHH Quyết Thắng (Củ Chi - TPHCM)
không hề được trang bị bảo hộ lao động. Ảnh: K.H.
Kết quả quan trắc của các trạm quan trắc chất lượng
không khí xung quanh của Ban quản lý môi trường
TPHCM cho thấy chất lượng không khí tại các khu dân
cư Tân Sơn Nhất (Tân Bình), Thủ Đức và KCN Tân Bình
không đạt tiêu chuẩn cho phép, nồng độ bụi và CO cao
hơn tiêu chuẩn cho phép từ 2 - 3 lần. Các khu vực
khác của thành phố cũng không khả quan hơn. Môi
trường sống của người dân thành phố đang bị ô nhiễm
nặng. Nhiều căn bệnh, nhất là bệnh về phổi đang gia
tăng.
Bệnh về đường hô hấp tăng cao
Theo nhận định của các bác sĩ chuyên khoa Hô hấp tại
TPHCM thì tỷ lệ bệnh nhân bị bệnh đường hô hấp và
bệnh phổi ngày càng tăng cao do ảnh hưởng của môi
trường sống và lao động ngày một ô nhiễm. Năm 2002,
riêng Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch đã
điều trị nội trú cho gần 2.600 bệnh nhân bị bệnh về
đường hô hấp, nhưng 9 tháng đầu năm 2003, con số
bệnh nhân đã lên tới trên 2.000 người. Tại các bệnh
viện Chợ Rẫy, Nhân dân Gia Định, 115, Nguyễn Tri
Phương, Nguyễn Trãi, Tai - Mũi - Họng...qua tổng kết
sơ bộ 9 tháng đầu năm 2003 đều cho thấy tỷ lệ bệnh
nhân bị đường hô hấp và bệnh phổi có xu hướng tăng
so với cùng kỳ năm trước.
Anh Nguyễn Văn Hòa (sinh năm 1966) ngụ đường Âu Cơ,
phường 10, Tân Bình được đưa vào Bệnh viện Lao và
Bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch ngày 15 tháng 10 vừa qua
trong tình trạng khó thở, tim đập nhanh, sốt nhẹ.
Bác sĩ chẩn đoán anh đã bị viêm phổi. Từ 5 năm nay,
anh Hòa là công nhân hút cát nhưng thường không được
trang bị bảo hộ lao động. Còn chị Trần Thị Minh Hà
ngụ đường 3-2, phường 11, quận 10 thì sau một năm
làm cho công ty dệt may sức khỏe bắt đầu giảm sút,
các biểu hiện khó thở, thở gấp, tức ngực, ho thường
xuyên hành hạ. Đến đầu tháng 10 vừa qua sức khỏe của
chị suy sụp hẳn, phải đến khám ở Bệnh viện Lao và
Bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch và được chẩn đoán viêm phế
quản cấp. Trường hợp anh Hoàng Thái Phú (41 tuổi) ở
đường Nguyễn Văn Quá, quận 12 đáng lo ngại hơn. Anh
sống trong khu vực có nhiều cơ sở sản xuất nên
thường xuyên hít phải những khói, bụi và hơi hóa
chất mà các cơ sở sản xuất thải ra. Anh Phú cho biết
những lúc trở trời anh lại ho sặc sụa, đau ngực và
như có ai đó bóp vào cổ. Bác sĩ chẩn đoán anh Phú bị
viêm phổi và cần phải điều trị lâu dài. Cũng theo
anh Phú thì không phải mỗi mình anh mà những hàng
xóm của anh đều có bất ổn về đường hô hấp và phổi.
Chất lượng không khí ở mức báo động
Trong quý 3 năm 2003, Trung tâm Sức khỏe - Lao động
và Môi trường TPHCM (TTSK-LĐ-MT TPHCM) đã tiến hành
đo đạc môi trường lao động cho 492 cơ sở. Kết quả
cho thấy, 50% nước thải của các cơ sở sản xuất không
đạt tiêu chuẩn nguồn loại C. Nồng độ pH, COD, BOD,
cặn lơ lửng và các chỉ tiêu kim loại nặng đều vượt
tiêu chuẩn cho phép. Năm 2002, trong tổng số 1.673
mẫu đo mức độ bụi tại các cơ sở sản xuất trên địa
bàn thành phố có 102 mẫu không đạt tiêu chuẩn; trong
khi chỉ 6 tháng đầu năm 2003 qua xét nghiệm 868 mẫu
đã có 53 mẫu không đạt. Đó là chưa kể các xét nghiệm
về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, từ trường... trong 6
tháng đầu năm 2003 đều có số mẫu không đạt tăng gấp
nhiều lần so với cùng kỳ năm 2002. Điều đó cho thấy
môi trường lao động đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. 6
tháng đầu năm 2003, TTSK-LĐ-MT TPHCM đã tiến hành
khám bệnh nghề nghiệp cho gần 4.000 công nhân làm
việc trong môi trường có yếu tố độc hại thì có đến
372 người mắc bệnh nghề nghiệp (chủ yếu các bệnh
liên quan đến đường hô hấp, bệnh phổi), tăng so với
cùng kỳ năm trước xấp xỉ 5%. Trong số 473 người được
khám về bệnh bụi phổi silic thì 12 người bị nghi ngờ
và 3 người mắc. Trong khi cả năm 2002, kiểm tra 696
công nhân tiếp xúc với bụi có hàm lượng SiO2 cao thì
16 người bị nghi ngờ mắc bệnh và 8 người được Hội
đồng Giám định Y khoa xác định bị bệnh phổi silic.
Bên cạnh đó, các bệnh bụi phổi bông, bụi phổi
amiăng, bệnh viêm phế quản nghề nghiệp đều tăng.
Kết quả quan trắc tại các trạm quan trắc chất lượng
không khí xung quanh của Ban quản lý Môi trường
thành phố năm 2002 cho thấy chất lượng không khí tại
các khu dân cư Tân Sơn Nhất (Tân Bình), Thủ Đức và
KCN Tân Bình không đạt tiêu chuẩn cho phép do ảnh
hưởng của các hoạt động công nghiệp xung quanh, nồng
độ bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,13 - 3,73
lần. Nồng độ bụi tại các trạm quan trắc Tân Sơn Nhất
và KCN Tân Bình trong năm 2002 cao hơn năm 2001
tương ứng từ 1,59 –1,94 lần. Thế nhưng kết quả quan
trắc chất lượng không khí 8 tháng đầu năm 2003 tại
các khu dân cư nói trên cũng cho thấy nồng độ bụi
cao hơn tiêu chuẩn cho phép 2 - 3 lần. Bên cạnh đó
là chất lượng không khí ven đường cũng là điều đáng
báo động. Quan trắc ô nhiễm do giao thông tại vòng
xoay Hàng Xanh, vòng xoay Phú Lâm và ngã tư Đinh
Tiên Hoàng - Điện Biên Phủ trong năm 2002 cho thấy:
nồng độ bụi và CO vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,2 -
3,2 lần. Nhưng trong 8 tháng đầu năm 2003 các chỉ số
này còn tăng cao hơn. Các chuyên gia y tế cũng như
môi trường đều xác định nồng độ bụi (TSP, PM10) và
CO vượt tiêu chuẩn cho phép là một trong những “hiểm
họa” cần báo động. Đó là những chất gây ô nhiễm môi
trường chủ yếu và cực kỳ nguy hại cho sức khỏe người
dân thành phố. Đặc biệt sẽ làm tăng nguy cơ các bệnh
về đường hô hấp, bệnh phổi.
BS Đỗ Thị Khánh Dương, Phó Giám đốc Trung tâm Sức
khỏe - Lao động - Môi trường TPHCM:
Phải kiểm soát chặt chẽ điều kiện lao động
Vệ sinh lao động là một nội dung quan trọng của công
tác Bảo hộ lao động rất cần thiết ở TPHCM, một trung
tâm công nghiệp lớn nhất nước, có nhiều cơ sở sản
xuất đa dạng về loại hình, quy mô. Qua thống kê cho
thấy, môi trường lao động ở TPHCM đang gây nhiều
nguy cơ bệnh tật cho người lao động, gọi là bệnh
nghề nghiệp. Tùy theo công việc mà người lao động sẽ
mắc những bệnh nghề nghiệp khác nhau như do hóa
chất; do bụi; do vi khuẩn, do yếu tố vật lý…Trong đó
bệnh do bụi ảnh hưởng đến đường hô hấp, phổi vẫn là
phổ biến nhất. Phải khẳng định rằng, điều kiện lao
động ở các cơ sở sản xuất tại TPHCM hiện nay còn rất
hạn chế. Khuynh hướng chạy theo lợi nhuận của chủ cơ
sở đã bỏ mặc công nhân xoay xở; các điều kiện (nhà
xưởng, thiết bị sản xuất…) chưa đáp ứng yêu cầu vệ
sinh và an toàn; sự phối hợp của các ngành, các cấp
trong lĩnh vực này chưa chặt chẽ; vai trò của các tổ
chức xã hội trong các cơ sở sản xuất chưa thể hiện
vai trò; chưa nhận thức đúng đắn về công tác vệ sinh
lao động ở một bộ phận các ngành, các cấp, các cơ sở
sản xuất và người lao động… Nhiều văn bản pháp quy
đã ban hành nhưng hầu như các cơ sở sản xuất không
chấp hành, công tác thanh tra kiểm tra còn lỏng lẻo.
Vì vậy, biện pháp đặt ra là buộc các chủ cơ sở cải
tiến điều kiện làm việc, các cơ quan chức năng cũng
cần phối hợp kiểm soát chặt chẽ hơn.
BS Nguyễn Hữu Lân, Trưởng khoa Tạp bệnh phổi Bệnh
viện Lao và Bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch: Hãy đi khám
nếu bạn cảm thấy có vấn đề về hô hấp
Với môi trường sống và lao động ngày càng ô nhiễm
như hiện nay thì nguy cơ mắc phải những bệnh về
đường hô hấp và bệnh phổi là không thể tránh khỏi.
Những bệnh phổi ngoài lao thường gặp hiện nay là
bệnh phổi nhiễm trùng; ung thư hệ thống hô hấp (ung
thư phổi, màng phổi); bệnh hệ đường dẫn khí (hen phế
quản, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính...). Khi cảm thấy
trong người có các triệu chứng biểu hiện như mệt
mỏi, hắt hơi kéo dài, khó thở, ho kéo dài, tức ngực,
sốt nhẹ thì hãy nghĩ ngay đến sự bất thường về đường
hô hấp. Khi đó hãy đến gặp bác sĩ để được làm các
xét nghiệm chẩn đoán và điều trị. Với khoa học kỹ
thuật và phác đồ điều trị hiện nay thì các bệnh đơn
thuần về đường hô hấp, bệnh phổi đều có thể được
chữa trị hữu hiệu. Tuy nhiên, trước hết chúng ta cần
phải tự bảo vệ sức khỏe chính mình bằng cách thực
hiện các biện pháp bảo hộ, cải tạo môi trường làm
việc, xử lý tốt hệ thống khói thải, chất thải của
các cơ sở sản xuất, nhà máy trong các khu chế xuất,
khu công nghiệp...
Tấn Hiền
http://203.162.12.202/Sukien_Noibat/Chatluong_KK/Chuyende/suckhoe1.htm
11- Ô nhiễm tiếng ồn và bệnh tật
ảnh minh họa
Không có tiếng nói, tiếng cười, giai điệu âm nhạc,
tiếng chim kêu vượn hót thì con người sẽ rơi vào tâm
trạng mất định hướng, lạc lõng với xã hội, buồn tẻ.
Nhưng quá ồn, âm thanh lại gây ra nhiều rủi ro.
Các ảnh hưởng có thể xảy ra âm thầm, từ từ hoặc tức
thì, tùy theo cường độ lớn nhỏ của tiếng ồn và thời
gian tiếp xúc lâu hay mau.
Ảnh hưởng tới tai
Ảnh hưởng của tiếng ồn lên thính giác đã được biết
tới từ thuở xa xưa, khi người thợ rèn, thợ hầm mỏ
hoặc người giật chuông nhà thờ làm việc lâu năm với
nghề của mình. Thính giác của họ giảm dần, rồi đưa
tới điếc hoàn toàn.
Theo nhà nghiên cứu A.J. Hudspeth, ĐH Y khoa
California, sự tiếp xúc lâu ngày với tiếng ồn mạnh
sẽ "đẵn, cắt, gọt" tan hoang những tế bào lông ở tai
trong. Các tế bào này sẽ bị bứng gốc, hủy hoại. Đây
là những tế bào có nhiệm vụ thu nhận các đợt sóng âm
thanh, chuyển lên não bộ để được nhận rõ đó là âm
thanh gì và từ đâu phát ra.
Tiếng động mạnh cũng gây tổn thương cho dây thần
kinh thính giác, đưa tới điếc tức thì và vĩnh viễn
với cảm giác ù tai.
Tiếp xúc với tiếng động đột ngột và liên tục có thể
gây ra mất thính lực tạm thời, nhưng thường thì
thính lực trở lại bình thường sau 16 - 18 giờ khi
không còn tiếng động.
Ảnh hưởng của tiếng động lên tai tùy thuộc ở cường
độ của tiếng động và số lượng thời gian tiếp cận với
chúng. Hậu quả có thể tạm thời hoặc vĩnh viễn.
Rối loạn giấc ngủ
Nhiều nghiên cứu chứng minh tiếng ồn từ 35dB trở lên
đã đủ để gây ra rối loạn cho giấc ngủ bình thường.
Tiếng động ban đêm tạo ra những cơn thức giấc bất
thường, làm thay đổi chu kỳ các giai đoạn của giấc
ngủ và gây khó khăn đi vào giấc ngủ. Nhiều thức giấc
bất thường sẽ đưa tới thiếu ngủ và hậu quả là sự mệt
mỏi, bải hoải, buồn chán vào ngày hôm sau. Tiếng
động trong khi ngủ cũng làm tăng huyết áp, nhịp tim,
co mạch máu ngoại vi và các cử động của cơ thể như
trằn trọc, trở mình, co chân duỗi tay.
Một điểm đáng lưu ý là trẻ em dường như có một cơ
chế bảo vệ với tiếng động khi ngủ ban đêm, nên các
cháu vẫn ngủ ngon, ít bị thức giấc như người lớn.
Tuy nhiên hệ thần kinh của trẻ vẫn dễ bị ảnh hưởng
và phản ứng.
Với bệnh tim mạch
Tiếp xúc lâu ngày với tiếng ồn đưa tới thay đổi chức
năng của hệ thần kinh tự chủ, làm tăng nhịp tim,
huyết áp, sức cản mạch máu ngoại vi.
Nhà khoa học Ying Ming Zhao và đồng nghiệp tại ĐH
Bắc Kinh đã nghiên cứu hậu quả của tiếng ồn đối với
hơn 1.000 công nhân dệt vải và thấy rằng sau 5 năm
làm việc trong tiếng ồn, huyết áp của họ lên cao
đáng kể.
Nghiên cứu của TS. Wolfgang Babisch, Đức cho thấy
liên tục nghe tiếng ồn giao thông ở mức độ 70dB có
thể tăng rủi ro bệnh nhồi máu cơ tim.
Với cơ quan nội tiết
Tiếng ồn xí nghiệp làm tăng sản xuất noradrenaline
và adrenaline ở công nhân nhưng khi họ mang vật bảo
vệ tai thì adrenaline trở lại bình thường. Một
nghiên cứu tại Việt Nam do các tác giả Nguyễn An
Lương, Ayako Sudo, Hoàng Minh Hiển thực hiện cũng
tìm thấy kết quả tương tự ở công nhân xưởng dệt.
Ảnh hưởng trên sự học hỏi của trẻ em
Mặc dù chưa có bằng chứng xác đáng nhưng nhiều nhận
xét, nghiên cứu cho thấy tiếng ồn ảnh hưởng tới sự
học hỏi của con em. Theo Sheldom Cohen, Đại học
Oregon, trẻ em sống trong các căn phòng ở tầng thấp
trong một cao ốc gần trục lộ giao thông có khó khăn
tập đọc, làm toán, phân biệt chữ có âm tương tự, so
với các em sống ở tầng trên cao, xa tiếng ồn. Nhiều
nghiên cứu cho hay, tiếng ồn có thể ảnh hưởng tới
bào thai còn trong bụng mẹ và thai nhi đáp ứng bằng
tăng nhịp tim và chuyển động thân mình. Một nghiên
cứu khác cho hay bà mẹ sống gần phi trường có tỷ lệ
sinh non cao hơn.
Trên sự tiêu hóa
Donald Eric Broadbend, Anh, nhận thấy tiếng ồn cũng
ảnh hưởng tới sự tiêu hóa như làm giảm co bóp của dạ
dày, giảm dịch vị dạ dày và nước miếng.
Ảnh hưởng lên sự thực hiện công việc
Tại nơi làm việc, tiếng ồn là rủi ro lớn cho sức
khỏe, gây khó khăn cho sự đối thoại, giảm tập trung
vào công việc và giảm sản xuất, tăng tai nạn thương
tích.
Theo Viện Quốc gia Sức khỏe và An toàn nghề nghiệp
Hoa Kỳ, công nhân tiếp xúc với âm thanh cường độ
75dB trong 3 năm sẽ làm tăng nhịp tim và nhịp thở và
trong tương lai có thể gây ù tai, tăng huyết áp,
loét dạ dày, tâm trạng bất ổn vì căng thẳng. Họ trở
nên bẳn tính, khó chịu, hay gây gổ hơn là người làm
việc nơi yên tĩnh. Họ cũng hay vắng mặt tại sở làm
và tai nạn lao động cũng thường xảy ra.
Tuy nhiên cũng có nghiên cứu cho hay, âm thanh vừa
phải kích thích sự hứng khởi khi đang làm một công
việc có tính cách đơn điệu, đều đều.
Ảnh hưởng lên hành vi con người trong cộng đồng
Sống trong khu xóm ồn ào, nhiều tiếng động, con
người trở nên bực bội, giận giữ, khó chịu, hay gây
gổ, ít giao thiệp với lối xóm.
David Glas và Jerome Singer cho biết tiếng ồn có ảnh
hưởng rất nhiều lên con người kể cả sau khi không
còn tiếng ồn. Tiếng ồn bất ngờ có tác hại nhiều hơn
biết trước.
Tiếng ồn dường như cũng khiến con người giảm đặc
tính giúp đỡ và tăng sự hung hổ, gây hấn. Một quan
sát cho thấy, khi đang định giúp nhặt một vật rơi
cho người khác mà có tiếng ồn dội tới, thì động tác
giúp đỡ này ngưng lại.
Gửi vào 07/08/08 19:07 bởi billgate
http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=71576
12- Hà Nam: Dân khốn khổ vì ô nhiễm
Thứ hai, 19/05/2008, 14:57 (GMT+7)
Cứ tầm 4 – 5g chiều, người dân trong xã Bạch Thượng
(huyện Duy Tiên - Hà Nam) lại phải chịu đựng mùi hôi
thối bốc ra từ Khu công nghiệp (KCN) Đồng Văn. Nhiều
con mương, giếng nước trong xã đặc quánh một màu
đen, cây cối không thể sống…
Ông Long không thể chịu được khi phải sống gần con
mương đen sì nước thải của KCN
Đến xã Bạch Thượng, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt
chúng tôi là từng chiếc xe ben, xe tải cuốn theo cả
đám khói bụi chạy rầm rầm trên những con đường dẫn
vào các KCN. Nơi đây, được người dân mệnh danh là
“thung lũng” ô nhiễm của cả huyện. Thôn Thần Nữ (xã
Bạch Thượng) và KCN Đồng Văn được ngăn cách với nhau
bởi con mương rộng chừng hơn 1m, màu nước đen quánh,
bốc lên một mùi hôi thối nồng nặc.
Gặp chúng tôi, chị Trần Thị Liên, một người dân
trong xã, bức xúc: “Các anh nhìn mà xem, nước đen
sì, hôi thối như vậy thì trồng được cây gì. Trước
đây nhà tôi còn trồng sen, nuôi cá có thêm chút thu
nhập nhưng giờ đây người còn khó sống huống hồ là
rau, cá”.
Phía cuối con mương của thôn Thần Nữ là hai cái
giếng làng nhưng mấy năm gần đây không còn ai dám
“bén mảng” tới đó nữa vì sợ dùng nước đó sẽ bị bệnh
tật. Người dân chỉ còn biết đợi trời mưa mà lấy nước
thôi.
Không chỉ nguồn nước bị ô nhiễm mà hàng ngày cứ vào
khoảng 4 – 6g chiều, mùi cám Con Cò, nước giặt vải,
chất đốt nhựa, cao su, sắt, nhôm… từ trong KCN theo
hướng gió tràn ngập khắp xóm làng. Nhiều người sức
khỏe yếu, không chịu được, đúng giờ “cao điểm” lại
phải di dời đi nơi khác.
Ông Lâm, 72 tuổi, than vãn: “Chắc không sống được
nổi anh à. Cứ khoảng 4g chiều là tôi lại phải đi
sang nhà người quen ở xã bên cạnh để tránh”. Ông Ngô
Mạnh Uyển - Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã Bạch
Thượng, cho biết: “Hội người cao tuổi của xã đã làm
đơn kiến nghị nhiều lần lên các cấp trên nhưng vẫn
chưa thấy hồi đáp. Nếu cứ tiếp diễn tình trạng này
người già như chúng tôi làm sao chịu thấu…”.
Ông Vũ Văn Toàn - Trưởng thôn Thần Nữ, bức xúc:
“Cuộc họp, hội nghị nào người dân cũng phản ánh,
kiến nghị lên trên ghê lắm. Lãnh đạo chúng tôi cũng
rất bức xúc. Chúng tôi cũng đã vào tận KCN ít nhất 5
lần để tìm hiều thực hư nhưng các doanh nghiệp lại
tỏ ra bất hợp tác…”.
Theo ông Bùi Văn Tùy, Trạm trưởng Trạm y tế xã Bạch
Thượng, thì: “Trong hai năm gần đây xã chúng tôi có
số ca chết do bị các bệnh ung thư, bệnh liên quan
đến đường hô hấp, đường ruột… tăng lên đột biến. Tuy
chưa tìm ra nguyên nhân chính xác nhưng tôi cho rằng
môi trường đang ngày càng ô nhiễm đã ảnh hưởng đến
sức khỏe người dân hiện nay”. Vừa nói, ông Tùy vừa
mang cuốn sổ báo tử của xã từ năm 2006 ra. Theo đó,
năm 2006, số ca bị chết do ung thư và các bệnh về
phổi của toàn xã là 9 người nhưng đến năm 2007 số ca
này tăng lên đột biến với 28 người.
Rõ ràng việc gây ô nhiễm của KCN Đồng Văn đang ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống, sức khỏe của người
dân xã Bạch Thượng. Đã đến lúc các cấp chính quyền
địa phương cần có những biện pháp mạnh tay, xử lý và
ngăn chặn tình trạng trên.
Duy Phong
http://www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2008/5/152769/
13- Dân bị ô nhiễm, chính quyền làm ngơ…?
Chủ nhật, 18/05/2008, 15:03 (GMT+7)
Khối phố 1 và 2 (thị trấn Rừng Thông, Đông Sơn,
Thanh Hóa) hơn 10 năm nay phải sống trong bầu không
khí ô nhiễm nặng do phân xưởng thuốc trừ sâu và bãi
rác thị trấn. Hàng trăm lá đơn kiến nghị suốt 10 năm
qua vẫn không ai giải quyết. Và người dân vẫn phải
đối mặt với ô nhiễm, bệnh tật.
Sống trong vùng nhiễm độc
Nhiều năm nay kho chứa thuốc thành nơi sản xuất
thuốc trừ sâu
Người thì còi cọc, ốm yếu (nhất là trẻ nhỏ, các cụ
già), các chị phụ nữ khi đi làm đồng thì chân tay lở
loét, ngứa ngáy, muốn lội xuống ruộng thì phải đeo
ủng, mang găng tay, tránh tiếp xúc với nước, hàng
ngày thấy khó thở, tức ngực… Còn vật nuôi lâu lớn,
nhiều con chết không rõ nguyên nhân. Đó là những gì
mà hàng ngàn người dân khối phố 1,2 (thị trấn Rừng
Thông) đang phải đối mặt.
Họ xác định là do chất độc từ kho thuốc trừ sâu dưới
chân núi Kết gây ra. Năm 1994, kho được xây dựng để
dự trữ các loại thuốc bảo vệ thực vật như trừ sâu,
diệt cỏ, diệt chuột cho các huyện đồng bằng. Thay vì
phải cách xa khu dân cư nhưng kho lại nằm lọt thỏm
giữa khu dân cư.
Chính vì vậy, hơn 10 năm nay, hàng ngàn người dân
quanh khu vực kho thuốc phải hít thở bầu không khí
nồng nặc, ao hồ, giếng nước của nhiều gia đình
chuyển màu đen kịt, tanh tưởi một mùi khó tả.
Ông Nguyễn Hữu Ba, Bí thư chi bộ khối phố 2, người
đã nhiều năm nay gửi đơn thư đến các cấp chính
quyền, cho biết: “Năm ngoái gia đình tôi có 15 con
bò, 23 con dê thả quanh khu vực kho thuốc đột ngột
chết”.
Bà Lê Thị Huệ (khối phố 2) 7 năm trước đấu thầu mảnh
ao làng nuôi cá, cho biết: “Mấy năm trước gia đình
tôi thu nhập nhờ 5 sào ao cá của làng, nhưng đùng
một cái cá chết nổi trắng ao, được cán bộ kho thuốc
đền bù 200.000đ, đến nay ao cá đành bỏ không”.
Nhiều người dân xung quanh cũng đang phải đối mặt
với bệnh tật. Như nhà ông Ba, vợ thì mắc bệnh nan y,
2 đứa con bị suy dinh dưỡng. Hay bà Lê Thị Quyết,
ông Nguyễn Xuân Tá… mắc bệnh phổi nhiều năm nay.
Mức độ khuếch tán của thuốc ra môi trường rất lớn,
bằng chứng là các xã Đông Tiến, Đông Lĩnh (cách đó
4km), nhiều khối phố đã gửi đơn kiến nghị lên huyện
vì mùi thuốc từ kho phát tán. Nhưng đã hơn 10 năm
với biết bao lá đơn, không hề có cơ quan nào quan
tâm giải quyết.
Đổ quấy cho nhau
Kho thuốc trừ sâu của Chi cục Bảo vệ thực vật Thanh
Hóa được xây dựng để dự trữ thuốc bảo vệ thực vật từ
những năm 1994. Nhưng chi cục lại liên kết với Công
ty TNHH một thành viên bảo vệ thực vật Sài Gòn cho
thuê lại kho để đóng chai, đóng gói các sản phẩm
thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ cung cấp cho các tỉnh
phía Bắc, miền Trung…
Kho vẫn hoạt động bình thường và lượng thuốc được
nhập về còn nhiều hơn: hàng năm tiếp nhận từ 1.000 -
1.500 tấn thuốc bán thành phẩm để sang chiết, đóng
gói...
Ông Nguyễn Văn An, Phó Chủ tịch thị trấn Rừng Thông,
cho biết: “Vì đây là đơn vị trực thuộc sự quản lý
của tỉnh nên huyện đã kiến nghị lên tỉnh rất nhiều
lần, nhưng vẫn chưa thấy ai giải quyết. Hiện tại
nhân dân mong muốn các ngành chức năng của tỉnh vào
cuộc xác định mức độ ô nhiễm, sớm có biện pháp di
dời kho ra xa khu vực dân cư để bảo vệ sức khỏe
người dân”.
Còn ông Lê Tuấn Anh, phụ trách quản lý kho thuốc,
cho biết: “Chưa xác định được do kho thuốc hay do
bãi rác của thị trấn gây ô nhiễm, vì bãi rác cũng
gây ô nhiễm nặng nhiều năm nay. Nếu cần phải di dời
thì cả bãi rác và kho thuốc phải được xử lý cùng
lúc. Chúng tôi sẵn sàng dời đi nơi khác nếu có sự
chỉ đạo của cấp thẩm quyền!”.
Có một thực tế là bãi rác của thị trấn tồn tại từ
năm 1994 đến nay cũng gây bức xúc cho dân không kém
kho thuốc trừ sâu. Như vậy hàng ngàn người dân thị
trấn Rừng Thông đang sống trong sự nguy hiểm gấp
bội. Vấn nạn ô nhiễm đang chờ các cơ quan, ban ngành
tỉnh Thanh Hóa trả lời….
ĐÌNH HỢP
http://www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2008/5/152664/
MÔI TRƯỜNG - ĐÔ THỊ
14- Giải quyết ô nhiễm môi trường - Nhận thức chậm, hậu
quả khó lường
Thứ hai, 06/10/2008, 00:02 (GMT+7)
Tình trạng ô nhiễm môi trường đã đến mức báo động
đỏ, vụ Vedan bức tử sông Thị Vải đã gây phẫn nộ
trong dân chúng nhiều tuần qua. Thế nhưng, trách
nhiệm thuộc về ai, xử lý ai… một lần nữa được tranh
luận sôi nổi giữa các đại biểu HĐND TPHCM và lãnh
đạo các Sở Tài nguyên – Môi trường TPHCM, Đồng Nai,
Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu và Long An tại trong
chương trình Nói và làm của HĐND TPHCM vào ngày hôm
qua 5-10.
Xử lý phải “lúc cứng, lúc mềm”
Chủ tịch HĐND TP Phạm Phương Thảo đặt câu hỏi với Sở
TN-MT TPHCM bằng những vấn đề quản lý nhà nước: liệu
có bất cập trong cách thức kiểm tra, khả năng kiểm
tra…? Ông Đào Anh Kiệt, Giám đốc Sở TN-MT TPHCM, trả
lời ngay: Bảo vệ và kiểm tra tình hình ô nhiễm môi
trường không chỉ có sở mà rất nhiều đầu mối cả
phường xã, quận huyện. Bộ phận thanh tra sở chỉ có
30 người, trong khi đó lực lượng cảnh sát môi trường
mới được thành lập, chưa có đủ quyền hạn để xử phạt.
Theo ông Kiệt, vấn đề ô nhiễm môi trường không phải
mới xảy ra, mà từ nhiều năm rồi. Không cần phương
tiện kỹ thuật đo lường, mà ngay cả người dân bằng
mắt thường nhìn vào hiện trạng đã thấy mức độ ô
nhiễm ngày càng trầm trọng hơn.
Nghe vậy ĐB Đặng Văn Khoa lập tức phản ứng: Đã nhận
định như vậy mà anh Kiệt còn trả lời trên Báo SGGP
rằng “… chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe, hoặc có
nhưng cơ quan thực thi chưa dám phạt nặng. Người
thực thi nhiệm vụ chưa dám mạnh tay với DN (như cúp
điện, cúp nước, đình chỉ hoạt động…) vì ngại ảnh
hưởng đến công ăn việc làm của người lao động… “.
Nếu “xê xoa” như vậy thì khi nào mới khắc phục được?
Ông Kiệt nhẹ nhàng: Xử lý vấn đề này không hề đơn
giản, mong anh Khoa cũng như người dân TP hãy nhìn
những cách làm của chúng tôi là có chuyển biến,
nhưng nó không thể một sớm một chiều được. Nhiều vấn
đề do lịch sử để lại, chứ không phải mới xảy ra hôm
qua. Chúng ta có rất nhiều biện pháp nhưng cũng phải
có “lúc cứng, lúc mềm”. Tất cả đều phải dựa trên
luật mà xử lý, không thể tùy tiện! Theo ông Kiệt, sở
đang xin UBND TP cơ chế “đột nhập” như đoàn kiểm tra
liên ngành 814 để kiểm tra bất ngờ những địa chỉ gây
ô nhiễm được người dân tố giác.
Nhiều ĐB đồng tình cao cơ chế đặc thù này, nhưng góp
ý thêm: Đã đột nhập mà đưa công văn báo trước ngày
giờ đến kiểm tra là thua trắng! Không phải người dân
không ghi nhận những nỗ lực của ngành môi trường
thời gian qua, mà người dân cần một lộ trình cụ thể
1 năm, 5 năm hay 10 năm nữa tất cả doanh nghiệp phải
có hệ thống xử lý nước thải hoạt động được.
Giám đốc Sở TN-MT tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Đặng Như
Hiển quả quyết: Tất cả dự án đầu tư mới phải “thân
thiện” với môi trường thì mới được hoạt động, còn
những doanh nghiệp đang hoạt động, thì ngay trong
năm 2009 phải có hệ thống xử lý nước thải “chạy”
tốt. Bây giờ nếu không làm thì mai sau con cháu
chúng ta sẽ lãnh đủ!
Phó Giám đốc Sở TN-MT tỉnh Long An cũng chứng minh
sự quyết liệt của mình: hiện nay doanh nghiệp nào
vào Long An phải thay đổi công nghệ, chứ không mang
ô nhiễm từ nơi khác đến. Vừa qua tỉnh đã đóng cửa 10
doanh nghiệp gây ô nhiễm. Quan điểm của tỉnh là
doanh nghiệp phải đặt lợi ích của môi trường lên
trên lợi nhuận, không thể chấp nhận tình trạng doanh
nghiệp làm hệ thống xử lý nước thải nhưng để “ngó”,
khi kiểm tra mới vận hành.
Doanh nghiệp: tội 1, cơ quan quản lý: tội 10
Ông Đặng Như Hiển cũng bức xúc không kém gì người
dân đang sống ven dòng sông Thị Vải: ai cũng biết cả
chục năm qua, dòng sông Thị Vải bị ô nhiễm, nhiều
lần bà con đã nêu đích danh địa chỉ gây ô nhiễm.
Nhưng các cơ quan quản lý không làm đến nơi đến
chốn, chúng ta phải coi trọng ý kiến của dân thì
khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
mới thực sự có ý nghĩa.
Phó Giám đốc Sở TN-MT Đồng Nai Phan Văn Hết lên
tiếng: “Việc khắc phục ô nhiễm sông Thị Vải là cực
kỳ khó khăn…, nhưng chúng ta phải cố gắng cải tạo…”.
Không đồng ý với cách trả lời chung chung, ĐB Trương
Trọng Nghĩa bày tỏ: Xin hỏi “chúng ta” ở đây là ai?
Là Tỉnh ủy, UBND, Sở TN-MT Đồng Nai, Vedan hay là
dân? Giờ không phải là lúc có thể nói “chúng ta” nữa
mà phải chỉ rõ trách nhiệm thuộc về ai? Dòng sông
không có tội, người dân cũng không có tội, để kéo
dài là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước.
Nhiều ĐB lên tiếng: Trong vụ này, dư luận phê phán
doanh nghiệp có tội: 1, nhưng nói trách nhiệm thì
tội của cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương đến
10. Luật Bảo vệ môi trường đã quy định rõ, vậy trong
vụ ô nhiễm sông Thị Vải đã có cơ quan nào bị kiểm
điểm và cán bộ nào từ chức chưa? Không chỉ vậy,
người dân huyện Cần Giờ TPHCM cũng đã kiến nghị
không biết bao nhiêu lần với các ĐB HĐND TP, Quốc
hội về tình trạng ô nhiễm của sông Thị Vải (đoạn
chạy qua Cần Giờ) nhưng “đâu vẫn vào đấy”.
Ông Hết giải thích: Hiện nay chúng tôi chưa nhận
được bản kết luận chính thức của đoàn kiểm tra tình
hình ô nhiễm nên chưa thể công bố điều gì. Khi có,
chúng tôi sẽ xử lý theo đúng quy trình, buộc Vedan
phải làm nghiêm túc và chúng tôi sẽ giám sát chặt
chẽ. Chúng tôi cũng sẽ nghiêm túc kiểm điểm tập thể,
cá nhân có liên quan.
Nhiều phóng viên theo dõi chương trình lên tiếng:
Hiện nay người dân đang làm thủ tục kiện Vedan, vậy
sở có thể giúp cho dân những số liệu chứng minh? Ông
Hết trả lời ngắn gọn: Chúng tôi đang chờ kết luận
chính của đoàn kiểm tra!
Chủ tịch HĐND TP Phạm Phương Thảo cho rằng: Ô nhiễm
môi trường đang bao vây tứ bề. Chúng ta cần tập
trung bằng một quyết tâm chính trị bằng các luật lệ,
quy định của nhà nước và bằng sự giám sát của người
dân. Chúng ta rất cần sự phát triển kinh tế nhưng
phải là phát triển bền vững với GDP “xanh”. Vấn đề
môi trường nếu nhận thức chậm chừng nào thì hậu quả
khó lường chừng ấy. TPHCM cũng như các địa phương
không thể chờ mà phải chủ động phát huy vai trò phối
hợp giữa liên vùng, để xử lý vấn đề này. “Nói không”
với các ngành sản xuất gây ô nhiễm là một tín hiệu
đáng mừng. Tuy nhiên, công tác tiền kiểm, hậu kiểm
phải gắt gao hơn, khi cần thiết, rút giấy phép đầu
tư, đình chỉ hoạt động.
Trần Toàn
http://www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2008/10/167393/
15- Giảm thiểu ô nhiễm không khí
03:52-14/02/2006
Nếu không nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc, từ
các cấp quản lí tới người dân bình thường, tương lai
sẽ phải trả giá rất đắt cho tình trạng ô nhiễm không
khí ngày một gia tăng, nhất là tại các thành phố lớn
và đông dân như Hà Nội và TP HCM...
Mở mắt đã ngửi thấy mùi ô nhiễm
Ít nhất hơn 8 triệu người ở các thành phố lớn như Hà
Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng hàng ngày đang
phải hít một lượng không khí bị ô nhiễm một cách
“đáng báo động”. Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường
Quốc gia 2005 vừa được Bộ Tài nguyên và Môi trường
công bố, nồng độ bụi
Cách đơn giản nhất để bảo vệ sức khoẻ trước tình
trạng ô nhiễm môi trường là đeo khẩu trang. Ảnh:
Quốc Tuấn
trong không khí trung bình cao hơn tiêu chuẩn cho
phép từ 2-3 lần. Tại các nút giao thông thì nồng độ
bụi vượt tiêu chuẩn từ 2-5 lần. Còn ở các khu đang
xây dựng trong đô thị, nồng độ bụi vượt quá tiêu
chuẩn là từ 10-20 lần. Bụi trong không khí trên
đường phố chủ yếu là bụi đường (trên 80%). Ô nhiễm
bụi riêng ở Hà Nội, theo đề tài nghiên cứu của
PGS.TS Hoàng Xuân Cơ (Đại học Khoa học tự nhiên)
ngoài ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ của con người
còn gây ra các thiệt hại to lớn khác như giảm năng
suất cây trồng, ảnh hưởng tới hệ sinh thái, hư hỏng
thiết bị, suy giảm tuổi thọ công trình và làm mất mỹ
quan cơ sở hạ tầng. Các thiệt hại về kinh tế có thể
lượng hóa bằng tiền với mức thiệt hại ước tính
khoảng 200-500 tỉ đồng (12-31 triệu đô la) một năm.
Không chỉ bụi, nồng độ khí CO và NO2 tại các nút
giao thông lớn trong đô thị cũng đã vượt tiêu chuẩn
cho phép. Theo đánh giá của các chuyên gia môi
trường, ô nhiễm không khí ở đô thị do giao thông vận
tải, do lưu lượng xe lớn và tình trạng kẹt xe liên
tục tại các nút giao thông gây ra chiếm tỉ lệ khoảng
70%. Tác hại của ô nhiễm môi trường hiện nay ở Hà
Nội, theo Giáo sư vật lý Phạm Duy Hiển tương đương
với việc người ta hút... 2 bao thuốc mỗi ngày.
Hạ tầng giao thông đô thị kém
Theo số liệu thống kê, tại các đô thị lớn, các chỉ
tiêu về hạ tầng giao thông hiện rất thấp, chỉ đáp
ứng được khoảng 35-40% so với như cầu cần thiết. Tại
Hà Nội, diện tích đất lưu thông chiếm khoảng 7,8%,
mật độ đường đạt 3,89 km/km2. Tại thành phố Hồ Chí
Minh, diện tích đất giao thông khoảng 7,5%, mật độ
đường đạt 3,88 km/km2. Hệ thống giao thông công cộng
tại hầu hết các đô thị lớn ở Việt Nam còn rất yếu
kém, ở Hà Nội mới đáp ứng được khoảng 10-12% nhu cầu
đi lại, ở TP HCM mới đáp ứng được 7%.
Nguồn:Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn-Bộ Xây dựng
Vẫn theo Báo cáo Hiện trạng môi trường Quốc gia
2005, y học hiện đại đã ghi nhận nhiều bệnh tật
đường hô hấp do môi trường không khí bị ô nhiễm bởi
bụi, hơi khí độc CO, CO2, NO và chì như: viêm nhiễm
do vi khuẩn, virut, hen, lao, dị ứng, viêm phế quản
và ung thư. Các nghiên cứu ở Hà Nội cũng đã xác định
có mối quan hệ rõ rệt giữa ô nhiễm không khí và các
bệnh đường hô hấp. Trong các năm từ 2001-2003 đã có
gần 5.000 trẻ em dưới 15 tuổi điều trị tại các khoa
nhi bệnh viện Thanh Nhàn Hà Nội vì mắc các bệnh liên
quan tới ô nhiễm không khí. Tỉ lệ mắc hen phế quản
của dân cư các quận nội thành cao gấp 1,4 lần dân cư
các huyện ngoại thành. Cũng như vậy, thống kê tại
Bệnh viện Bạch Mai cho thấy tỉ lệ mắc bệnh hen phế
quản phải điều trị của Hà Nội là 23,52%, cao gần 4
lần so với tỉnh phụ cận Hà Tây (6,75%). Riêng tại
khoa hô hấp bệnh viện Bạch Mai, năm 2001 tỉ lệ bệnh
nhân mắc bệnh đường hô hấp tăng 2,1 lần so với trung
bình hàng năm của giai đoạn 1991-1995 và tăng 1,9
lần so với trung bình hàng năm giai đoạn 1996-2000.
Trong đó, riêng bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD)
có chiều hướng gia tăng mạnh nhất với tỉ lệ là
25,2%.
Tình trạng ô nhiễm không khí ở Hà Nội nhiều và
“quen” tới mức có người đã nói đùa “ngủ dậy, mở mắt
đã ngửi thấy mùi ô nhiễm”. Mùi ô nhiễm ở đây chính
là mùi quạt than tổ ong của nhà... hàng xóm.
Một nghiên cứu mới đây của Giáo sư Phạm Duy Hiển cho
thấy một hiện tượng gia tăng ô nhiễm không khí về
đêm ở Hà Nội vào mùa đông do nguyên nhân nghịch
nhiệt. Những đợt gió mùa đông bắc khiến các chất ô
nhiễm sau cả ngày lắng đọng phát tán nhanh hơn vào
buổi tối. Cách duy nhất để đề phòng là hạn chế ra
đường về ban đêm. Như vậy, những người có thói quen
tập thể dục buổi tối, đêm cũng cần đổi sang buổi
sáng để tránh những hậu quả đáng tiếc (Xem thêm bài
Hà Nội bị ô nhiễm nhiều hơn về mùa đông).
Làm gì để hạn chế ô nhiễm?
Hầu hết các kết quả nghiên cứu về tình hình ô nhiễm
không khí ở Việt Nam đều cho thấy các nguồn gây ô
nhiễm hiện nay chủ yếu là từ các hoạt động công
nghiệp (ở các thành phố lớn) và tiểu thủ công nghiệp
(ở các làng nghề), từ các hoạt động giao thông vận
tải, do quá trình xây dựng đô thị, hạ tầng kỹ thuật,
do sinh hoạt của nhân dân (đun than, dầu, củi) và do
cháy hoặc ảnh hưởng từ các quốc gia lân cận.
Bộ Tài nguyên và Môi trường và nhiều thành phố lớn
hiện đã và đang thiết lập các hệ thống quan trắc và
phân tích môi trường để thu thập các thông tin môi
trường nước, không khí, đất và chất thải rắn. Tuy
nhiên, hiệu quả của hệ thống quan trắc hiện nay là
điều đáng bàn. Với số tiền đầu tư cộng với số tiền
bảo dưỡng hàng năm rất lớn mà các kết quả quan trắc
mới chủ yếu để cung cấp thông tin nhằm lập báo cáo
hiện trạng môi trường hàng năm thì quả là một sự
lãng phí lớn (xem thêm bài Hệ thống quan trắc môi
trường: mạnh ai nấy mua).
Sản xuất công nghiệp là một trong những nguồn gây ô
nhiễm ở Hà Nội. Ảnh: Quốc Tuấn
Năm 2003, Chính phủ cũng đã ra Quyết định 64 nhằm
từng bước loại bỏ những cơ sở cơ sở gây ô nhiễm môi
trường ở các thành phố lớn. Theo đó, kế hoạch thực
hiện đề ra mục tiêu đến năm 2005 xử lý triệt để 51
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đến năm
2007, xử lý 388 cơ sở và đến năm 2012 xử lý hơn
3.800 cơ sở còn lại. Tuy nhiên, số liệu của Bộ Tài
nguyên và Môi trường cho thấy đến tháng 9/2005, mới
có 104/439 cơ sở áp dụng các biện pháp để không còn
gây ô nhiễm môi trường. 335 cơ sở còn lại mới ở các
giai đoạn “đang trong quá trình xây dựng hoặc triển
khai các biện pháp xử lý ô nhiễm”. Còn tới 70 cơ sở
trong số này hoàn toàn chưa có biện pháp nào để
triển khai quyết định này của Chính phủ. Như vậy,
mục tiêu xử lý triệt để các cơ sở này để khỏi gây ô
nhiễm đến năm 2007 quả là điều khó khăn, chưa nói
đến mục tiêu tận... 2012. Đơn giản vì 3 năm đầu của
chương trình (từ năm 2003) đến nay mới giải quyết
được ¼ các cơ sở gây ô nhiễm. Nguyên nhân chủ yếu
gây tiến độ chậm là do các cơ sở gây ô nhiễm đều
thiếu nguồn vốn để thực thi các biện pháp xử lý
triệt để.
Người dân Hà Nội nói gì về ô nhiễm môi trường
Theo tôi thấy, môi trường ở Hà Nội và cả nước nói
chung đang trong tình trạng ô nhiễm nặng nề. Trước
hết là ô nhiễm bụi trên đường phố, bụi có thể nói là
như mưa giăng. Tiếp đến là ô nhiễm về rác thải do
cách tổ chức thu gom rác chưa được tốt và ý thức
người dân và cộng đồng chưa cao. Người Việt Nam dù
sống ở các thành phố lớn vẫn mang đặc tính của người
nông dân. Ăn xong thẳng tay vứt rác xuống đường. Hút
xong điếu thuốc, đầu mẩu và vỏ bao tiện tay ném ngay
bất kể đó là công viên, nhà ga hay bến xe mặc dù
cách đó không xa có thùng rác công cộng. Và cuối
cùng là môi trường nước, cả nước sinh hoạt và nước
thải công nghiệp đều ô nhiễm. Nước sạch cung cấp cho
sinh hoạt không đảm bảo. Nước thải công nghiệp tuy
đã có điều luật song việc thực thi chưa nghiêm khắc.
Đoàn kiểm tra đến thì các nhà máy xử lý nước thải
trước khi đưa ra ngoài môi trường nhưng đoàn kiểm
tra đi thì đâu lại vào đấy. Điều này dẫn đến hiện
tượng ở một làng có hàng trăm người bị ung thư (Lập
Thạch, Vĩnh Phú). Chưa kể, người dân có thể khoan
nước ngầm vô tội vạ.
Để giải quyết vấn đề này tôi cho cần có chính sách
đồng bộ ở tầm vĩ mô và thực thi chính sách đó một
cách nghiêm túc. Ngoài ra phải tổ chức tuyên truyền
nâng cao ý thức người dân, làm sao để mọi người thấy
ô nhiễm môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
bản thân họ. Bộ Tài nguyên và môi trường cùng các
cấp các ngành, các cơ quan đoàn thể, cho tới từng
phường, từng cụm dân cư, tổ dân phố phối hợp làm sao
để hàng tuần có được ngày toàn dân tổng vệ sinh thôn
xóm tiến tới hàng tháng có được 2 – 3 ngày tất cả
mọi người đều ra đường khơi thông cống rãnh, thu gom
rác thải. Nếu làm được như thế thì dù chưa giải
quyết triệt để vấn đề môi trường nhưng trước mắt sẽ
có bước tiến.
Hồ Minh Trí, P1 – C3 Tập thể Khí tượng Thủy văn
Ở Hà Nội, tôi thấy hầu hết phụ nữ ra đường đều đeo
khẩu trang để bảo vệ sức khỏe song trong cuộc sống
hàng ngày chúng ta lại không thực hiện tốt việc giữ
gìn vệ sinh chung để đảm bảo môi trường sống trong
sạch. Thậm chí, ở khu chung cư nơi tôi từng sống
(khu tập thể H2 của Tổng công ty xây dựng sông Đà),
người dân ở tầng trên cứ vô tư ném rác xuống tầng
một, rác chất đống ngày một nhiều đến độ mấy xe rác
có lẽ vẫn chưa chở hết. Mọi người đều nói môi trường
là vấn đề cấp thiết và quan trọng nhưng người dân
thiếu ý thức trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường,
các cơ quan nhà nước đưa ra nhiều văn bản, quy định
song thực hiện thì chưa được mấy.
Hàn Nguyệt (Sinh viên lớp K49, Khoa Báo chí, Trường
ĐH KHXH&NV)
Riêng tại Hà Nội, để khắc phục tình trạng ô nhiễm
ngày càng gia tăng, nhiều đề xuất đã được đưa ra như
khuyến khích sử dụng nhiên liệu khí hóa lỏng (LPG)
cho xe taxi, triển khai thực hiện các dự án tăng
cường giao thông đô thị (cải tạo hệ thống mạng lưới
giao thông lớn, tổ chức quản lý và phát triển giao
thông công cộng), di dời các nhà máy gây ô nhiễm...
nhưng hiệu quả đạt được còn rất thấp. Những chiếc xe
chạy nhiên liệu khí hóa lỏng vẫn chỉ ở giai đoạn thí
điểm và ngày càng teo tóp. Hệ thống đường vành đai
và các dự án cầu vượt giao thông vẫn ở giai đoạn
triển khai, chưa hoàn thiện. Mạng lưới giao thông
công cộng, cụ thể là xe buýt có gia tăng nhưng chính
số lượng xe buýt ngày càng lớn lại là một trong
những nguyên nhân khiến tắc nghẽn giao thông nhiều
hơn. Vẫn còn các nhà máy gây ô nhiễm trong nội đô
chưa được di dời (Công ty Thuốc lá Thăng Long, Nhà
máy rượu Hà Nội...).
Bài học đắt giá của nhiều nước đã và đang phát triển
(xem bài Châu Á “khó thở” vì ô nhiễm từ Trung Quốc)
dường như ít tác động tới hoàn cảnh của Việt Nam và
dường như nền kinh tế của Việt Nam vẫn tiếp tục vận
động mà ít bị ảnh hưởng của Luật Môi trường. Cụ thể
là mặc dù đạo luật này đã được ban hành hơn 10 năm
nay (1993) nhưng cho tới nay chưa có bất cứ tội danh
nào trong việc hủy hoại môi trường sống và sức khỏe
con người được đưa ra xét xử, trừng phạt.
Viện Nhi Trung ương luôn quá tải bệnh nhân trong đó
có rất nhiều trẻ em bị các bệnh về hô hấp do lạnh và
ô nhiễm môi trường. Ảnh: Quốc Tuấn
Theo PGS.TS Hoàng Xuân Cơ, tất cả các chương trình
giảm thiểu ô nhiễm bụi hiện nay chỉ có thể hiệu quả
trong điều kiện có sự quản lý, tổ chức thực hiện tốt
và đặc biệt là có đủ... kinh phí. Như vậy, nỗ lực
cần có không chỉ từ cơ quan quản lý môi trường mà
của nhiều người, nhiều ngành nghề và đặc biệt là của
nhân dân. Điều cần làm trước mắt là việc nâng cao
nhận thức về môi trường, bảo vệ môi trường của người
dân. Trong các chiến dịch truyền thông lớn cần khẳng
định rằng trong câu chuyện ô nhiễm, đặc biệt là ô
nhiễm không khí, mỗi người dân vừa là tác nhân gây ô
nhiễm và cũng là nạn nhân của ô nhiễm. Ngay trong
đầu năm 2006 này, dự tính bản tin dự báo chất lượng
không khí
Ô nhiễm không khí tại các đô thị và vùng kinh tế
trọng điểm
Không khí đường phố đô thị nước ta bị ô nhiễm nặng
vì bụi, khí CO và hơi xăng dầu. Ô nhiễm không khí ở
các vùng kinh tế trọng điểm gây ra bởi các hoạt động
xây dựng, sản xuất công nghiệp và giao thông vận tải
với cường độ lớn. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
một trong 3 vùng kinh tế trọng điểm của nước ta là
vùng bị ô nhiễm không khí nhiều nhất.
Ngoài vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn và một
số các khu vực khác cũng đang bị ô nhiễm không khí
cục bộ bởi bụi, khí dioxit lưu huỳnh SO2, đặc biệt ở
các khu vực gần nhà máy xây dựng vật liệu xây dựng.
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia
2005-Bộ Tài nguyên và Môi trường
sẽ được Viện Khí tượng-Thủy văn đưa lên website
www.imh.ac.vn. Hy vọng đây sẽ là bản tin “cảnh tỉnh”
về tình trạng ô nhiễm trong không khí đối với mỗi
người dân, nhằm hạn chế các hành động gây ô nhiễm
môi trường ở nước ta.
Tỷ lệ mắc bệnh do ô nhiễm không khí tại vùng ô nhiễm
Thượng Đình (Hà Nội)
Bệnh Tỉ lệ mắc bệnh ở Thượng Đình Tỉ lệ mắc bệnh ở
vùng đối chứng
Viêm phế quản mãn 6,4 % 2,8 %
Viêm đường hô hấp trên 36,1 % 13,1 %
Viêm đường hô hấp dưới 17,9 % 15,5 %
Triệu chứng về mắt 28,5 % 16,1 %
Triệu chứng về mũi 17,5 % 13,7 %
Triệu chứng về họng 31,4 % 26,3 %
Triệu chứng về da 17,6 % 6,5 %
Triệu chứng thần kinh thực vật 30,6 % 21,5 %
Triệu chứng đáp ứng thần kinh 40,7 % 37,7 %
Rối loạn chức năng thông khí phổi 29,4 % 2,8 %
Nguồn: Dự án nâng cao chất lượng không khí tại các
nước đang phát triển ở Châu Á, 2004
Người dân Hà Nội nói gì về ô nhiễm môi trường!
Ở Hà Nội, tôi thấy hầu hết phụ nữ ra đường đều đeo
khẩu trang để bảo vệ sức khỏe song trong cuộc sống
hàng ngày chúng ta lại không thực hiện tốt việc giữ
gìn vệ sinh chung để đảm bảo môi trường sống trong
sạch. Thậm chí, ở khu chung cư nơi tôi từng sống
(khu tập thể H2 của Tổng công ty xây dựng sông Đà),
người dân ở tầng trên cứ vô tư ném rác xuống tầng
một, rác chất đống ngày một nhiều đến độ mấy xe rác
có lẽ vẫn chưa chở hết. Mọi người đều nói môi trường
là vấn đề cấp thiết và quan trọng nhưng người dân
thiếu ý thức trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường,
các cơ quan nhà nước đưa ra nhiều văn bản, quy định
song thực hiện thì chưa được mấy.
Hàn Nguyệt (Sinh viên lớp K49, Khoa Báo chí, Trường
ĐH KHXH&NV)
Hoàng An _ Nguyễn Vạn
Nguồn tin: Tia Sáng
http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=77&CategoryID=31&News=832
16- Hà Nội bị ô nhiễm nhiều hơn về mùa đông
03:36-08/01/2006
Hà Nội bước vào mùa khô từ tháng mười hàng năm khi
không khí lạnh từ phương Bắc kéo về qua lục địa
Trung Hoa mang lại cho miền Bắc một thời tiết khô
hanh. Độ ẩm không khí xuống đến mức thấp nhất, trời
nắng suốt ngày, gió nhẹ. Thời tiết hanh khô và chênh
lệch nhiệt độ quá lớn trong một ngày khiến nhiều
người cảm thấy khó chịu, mệt mỏi. Nhưng yếu tố không
kém phần quan trọng là ô nhiễm không khí gia tăng
mạnh trong điều kiện thời tiết bất lợi này. Bằng mắt
thường cũng có thể thấy các trục giao thông chìm
ngập trong khói bụi, nhất là về ban đêm.
Nghịch nhiệt làm gia tăng ô nhiễm
Đồ thị dưới đây minh hoạ diễn biến hàm lượng bụi khí
PM10 có kích thước hạt bé hơn 10 micron do thiết bị
quan trắc chất lượng không khí tự động của Trung tâm
Khí tượng Thủy văn ghi từng giờ tại trạm khí tượng
Láng, Hà Nội trong những ngày cuối tháng 11 vừa qua.
Gió mùa Đông Bắc bắt đầu tràn qua Hà Nội từ ngày
15/11. Cho đến ngày 20/11, chất lượng không khí Hà
Nội không tồi lắm nhờ có gió mạnh làm phát tán nhanh
các chất ô nhiễm. Nhưng từ ngày 20 trở đi, khi chế
độ xoáy nghịch hoàn toàn ngự trị trên một vùng rộng
lớn bao trùm miền Bắc nước ta, độ ẩm không khí bắt
đầu xuống thấp và gió yếu dần, hạn chế khả năng phát
tán của khí quyển, làm tăng mức ô nhiễm, đặc biệt
sau lúc chập tối (18:00 giờ) và kéo dài cho đến gần
sáng hôm sau. Từ gần trưa đến chiều mức ô nhiễm giảm
bớt, sau đó lại tăng lên.
Các nguồn phát ô nhiễm thường hoạt động vào ban ngày
nên thông thường ô nhiễm không khí ban ngày cao hơn
ban đêm. Nhưng với thời tiết khô hanh nửa đầu mùa
đông, hàm lượng các chất ô nhiễm về ban đêm có thể
cao hơn ban ngày đến 2-3 lần. Đây là điều mà ít
người ngờ tới. Sở dĩ như vậy là vì có hiện tượng
nghịch nhiệt do bức xạ về ban đêm. Nói nghịch nhiệt
vì trong lớp không khí vài trăm mét gần mặt đất
nhiệt độ không khí tăng theo độ cao, khác với diễn
biến thông thường theo đó càng lên cao nhiệt độ càng
giảm. Trời nắng suốt ngày đốt nóng mặt đất, tối đến
mặt đất vẫn còn ấm phát ra bức xạ hồng ngoại. Hơi
nước và khí CO2 hấp thụ chúng làm cho lớp không khí
sát mặt đất ấm lên và nhiệt độ không khí tăng theo
độ cao cho đến vài trăm mét. Càng về khuya lớp
nghịch nhiệt dày vài trăm mét này càng dâng lên cao
làm cho hàm lượng bụi giảm bớt, nhưng sau đó sương
mù thường xuất hiện trước khi mặt trời mọc lại làm
gia tăng ô nhiễm vào những giờ cao điểm buổi sáng.
Nghịch nhiệt bắt đầu xảy ra đúng vào giờ cao điểm
buổi chiều làm ô nhiễm không khí trầm trọng thêm.
Khí độc cùng bụi bặm do xe cộ thải ra và tung lên từ
mặt đường khô khốc, từ các bếp đun nấu dùng than
chất lượng thấp và chứa nhiều lưu huỳnh, không phát
tán lên cao mà cứ tích tụ lại ở lớp sát mặt đất ngày
càng đậm đặc. Chẳng may bị kẹt xe hàng giờ vào lúc
đầu hôm, bạn có thể hít thở một lượng chất ô nhiễm
tương đương với cả một ngày bình thường. Không chỉ
có bụi, những khí độc không cho phép vượt quá mức
quy định như SO2, NOx, CO đều gia tăng trong mùa
khô, nhất là về ban đêm.
Dấu hiệu có nghịch nhiệt do bức xạ về ban đêm rất dễ
nhận ra. Đó là trời nắng suốt ngày, độ ẩm không khí
dưới 60-65% và lặn gió vào chập tối. Vào những ngày
này, hạn chế ra ngoài đường về ban đêm là cách đề
phòng an toàn nhất cho những ai mắc các chứng bệnh
nhạy cảm với ô nhiễm không khí như bệnh hô hấp và
tim mạch.
Hàng năm ở Hà nội vào nửa đầu mùa đông những đợt
nghịch nhiệt về ban đêm thường xảy ra vài ngày sau
khi gió mùa đông bắc tràn về và kéo dài có khi suốt
mười ngày cho đến khi hướng gió thịnh hành chuyển
sang đông nam, để sau đó lại bắt đầu đợt gió mùa
đông bắc mới.
Trong nửa sau mùa đông, không khí lạnh thường tràn
về qua ngả vịnh Bắc bộ hình thành một kiểu thời tiết
ẩm lạnh. Trong thời gian này thường thấy những ngày
mù do có lớp nghịch nhiệt lơ lửng suốt ngày đêm ở độ
cao vài trăm mét trong chế độ xoáy nghịch cản trở sự
phát tán các chất ô nhiễm cả ban ngày lẫn ban đêm.
Bụi không phải do xe cộ tốc lên (vì mặt đường bị ẩm
ướt) mà từ các nguồn khí thải và do quá trình chuyển
hoá từ dạng khí sang những hạt bụi có kích thước rất
bé.
Ô nhiễm nhiều hơn vào mùa đông
Những diễn biến thời tiết trên đây làm cho mức ô
nhiễm không khí ở Hà Nội về mùa đông cao hơn mùa hè.
Cao nhất vào giai đoạn các tháng 12 - 01, gấp 4-5
lần so với giai đoạn các tháng 07 - 08, lúc này mưa
nhiều và trời nóng làm cho các chất ô nhiễm dễ tiêu
tan và phát tán lên cao. Sự tương phản giữa hai mùa
còn do khối không khí lạnh đi qua Trung Quốc mang
thêm chất ô nhiễm vào miền Bắc nước ta.
Những hiện tượng trên đã được một nhóm thuộc Viện
Năng lượng Nguyên tử Việt nam nghiên cứu chi tiết từ
năm 1998 dùng các thiết bị tách bụi khí ra hai loại
có kích thước dưới 10 micron (PM10) và dưới 2,5
micron (PM2,5), sau đó thành phần hóa học của chúng
được xác định bằng các kỹ thuật phân tích hiện đại.
Nhóm này đã công bố nhiều công trình liên quan đến
tác động của chế độ gió mùa Đông Nam Á đối với chất
lượng không khí trên các tạp chí quốc tế. Gần đây,
một thiết bị quan trắc tự động tại trạm Láng của
Trung tâm Khí tượng Thủy văn có khả năng ghi lại
diễn biến hàng giờ của 08 chất khí và bụi khí giúp
mô tả chi tiết và đầy đủ hơn hiệu ứng gió mùa nói
trên.
Mỗi ngày một người bình thường phải hít vào phổi 20
m3 không khí. Thế mà về mùa đông, trung bình một mét
khối không khí Hà Nội chứa 45 mg (microgram) SO2, 40
mg NO2, 31 mg O3, 1850 mg CO, 180 mg các chất khí
hữu cơ độc hại, 135 mg PM10 và 65 mg PM2,5. Tất cả
đều do con người và xe cộ thải ra. Không khí Hà Nội
bị ô nhiễm, nặng nhất là bụi do xe cộ tốc lên từ
đường sá không được giữ sạch sẽ. Cần phải cắt giảm
ít nhất là 85 mg PM10 trong một mét khối không khí
về mùa đông để đưa chất lượng không khí ở Hà Nội phù
hợp với tiêu chuẩn hiện hành ở nhiều nước. Một nhóm
nghiên cứu quốc tế về tác hại của PM10 đến sức khoẻ
người dân Bangkok đã đi đến kết luận rằng cứ giảm
được 10 mg PM10 trong một mét khối không khí thì con
số tử vong sẽ rút bớt 1-2% về bệnh tim mạch và 3-6%
về bệnh đường hô hấp.
Tờ Time số tháng 12/2004 bàn về ô nhiễm không khí ở
châu Á, có trích dẫn một khoa học gia Ấn Độ tính
toán rằng người dân thành phố Mumbai hàng ngày hít
vào phổi một lượng khí bụi độc hại tương đương với
hút hai bao thuốc lá. Người dân Hà Nội cũng được
"hút thuốc lá miễn phí" không kém, nhất là về mùa
đông.
Giảm bớt bụi bặm và khí thải độc hại phải được xem
là một nhiệm vụ ưu tiên của chính quyền và người dân
Hà Nội. Đưa thêm một chỉ tiêu chất lượng không khí
vào các nghị quyết của thành phố để phấn đấu sẽ là
món quà hết sức thiết thực cho người dân thủ đô nhân
dịp 1.000 năm Thăng Long lịch sử.
Phạm Duy Hiển
Nguồn tin: Tia Sáng
17- Ô nhiễm trầm trọng, sông Đồng Nai làm nhiều người đổ
bệnh
________________________________________
Tuesday, February 26, 2008
ĐỒNG NAI, (NV) - Nhiều đoạn sông Đồng Nai đang
“chết” vì ô nhiễm trầm trọng và tình trạng ô nhiễm
của con sông này đã trở thành nguyên nhân gây ra
bệnh tật cho dân chúng cư ngụ quanh lưu vực của con
sông này.
Trên số ra ngày 26 tháng 2, tờ Tuổi Trẻ đã dẫn một
báo cáo khoa học của ông Hoàng Dương Tùng, chuyên
viên Trung Tâm Quan Trắc, thuộc Bộ Tài Nguyên Môi
Trường, cho biết, trong vài năm gần đây, tỉ lệ mắc
các bệnh liên quan đến tình trạng nguồn nước thuộc
lưu vực sông Đồng Nai-Sài Gòn bị ô nhiễm đang tăng.
Ở một hội thảo về việc bảo vệ môi trường lưu vực hệ
thống sông Đồng Nai, các nhà khoa học cho biết, tại
tỉnh Bình Dương (thuộc lưu vực sông Đồng Nai-Sài
Gòn), tỉ lệ dân chúng cư ngụ ở các huyện gần sông
Sài Gòn như: Bến Cát, Dầu Tiếng, Tân Uyên mắc bệnh
lị và tiêu chảy, cao hơn rất nhiều so với các huyện
không chịu ảnh hưởng bởi tình trạng ô nhiễm nước
sông.
Cũng tại hội thảo vừa kể, Cục Bảo Vệ Môi Trường
thuộc Bộ Tài Nguyên Môi Trường, thừa nhận: Nhiều
loại bệnh nguy hiểm do ảnh hưởng của kim loại nặng
và hóa chất bảo vệ thực vật xuất hiện trong nước
đang là nguy cơ tiềm ẩn, đe dọa cộng đồng.
Khi hàm lượng kim loại nặng cũng như các hóa chất
bảo vệ thực vật trong nước vượt mức quy định, chúng
sẽ tích lũy trong các động, thực vật thủy sinh và
cây trồng. Lúc được dùng làm thực phẩm, các chất
nguy hại sẽ tích tụ trong cơ thể, nếu vượt qua
ngưỡng cho phép, các chất này sẽ làm rối loạn hoạt
động của nhiều cơ quan nội tạng, dẫn đến một số bệnh
nguy hiểm như: gây đột biến gen, ung thư, thiếu máu,
các bệnh về tim mạch (cao huyết áp, rối loạn tuần
hoàn máu, viêm tắc mạch ngoại vi, bệnh mạch vành,
thiếu máu cục bộ cơ tim và não), các loại bệnh ngoài
da (biến đổi sắc tố, sạm da, ung thư dự án...), tiểu
đường, gan và các bệnh liên quan tới hệ tiêu hóa,
các rối loạn ở hệ thần kinh hoặc dẫn đến tử vong.
Giới khoa học cảnh báo: Dù hàm lượng các chất ô
nhiễm trong nước của lưu vực sông Đồng Nai chưa vượt
xa giới hạn cho phép nhưng nếu không quản lý tốt và
hạn chế việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, kiểm
soát các nguồn nước thải từ sản xuất công nghiệp thì
nguy cơ ô nhiễm, từ đó gây ra các bệnh nguy hiểm sẽ
tăng vừa cao, vừa nhanh.
Hệ thống lưu vực sông Đồng Nai trải rộng trên 12
tỉnh, thành phố. Phần hạ lưu của nhiều con sông
trong lưu vực này đã được xác nhận là đang bị ô
nhiễm trầm trọng, trong đó trầm trọng nhất là sông
Thị Vải. (G.Đ)
(nguoi-viet)
__________________
[url]http://www.saigonsingle.com/[/url]
18- Bệnh Minamata và vấn đề ô nhiễm môi trường tại các
khu công nghiệp ở Việt Nam
Minamata là tên của một thành phố thơ mộng, xinh đẹp
thuộc tỉnh Kumamoto (Nhật Bản). Nhưng Minamata còn
là tên gọi một căn bệnh đã từng gây nỗi kinh hoàng
cho biết bao người Nhật. Năm 1956 và năm 1968, người
ta phát hiện ra những người mắc bệnh ở Minamata với
biểu hiện chân tay bị liệt hoặc run lẩy bẩy, tai
điếc, mắt mờ, nói lắp bắp... Nhiều bệnh nhân đã bị
điên, bất tỉnh và chết sau một tháng mắc bệnh. Có
nhiều người bị mắc bệnh Minamata kinh niên, hoặc bẩm
sinh. Họ sinh ra bị tàn tật vì người mẹ khi mang
thai đã ăn cá bị nhiễm độc ở vùng vịnh....
Vì sao lại như vậy? Mãi đến năm 1968, Chính phủ Nhật
Bản mới chính thức tuyên bố: căn bệnh này do Công ty
Chisso gây ra vì đã làm ô nhiễm môi trường. Các nhà
máy hóa chất của Công ty này đã thải ra quá nhiều
lượng thủy ngân hữu cơ độc hại làm cho cá bị nhiễm
độc. Khi ăn cá, thủy ngân hữu cơ xâm nhâp vào cơ thể
con người, chúng sẽ tấn công vào cơ quan thần kinh
trung ương, gây nên căn bệnh mà các nhà y học gọi là
bệnh Minamata. Tổ chức cứu trợ Nhật Bản cho biết,
đến nay có gần 13.000 người mắc bệnh Minamata, có
hơn 2.000 người bị chết. Năm1965, bệnh Minamata còn
bùng phát dọc theo con sông Agano thuộc tỉnh Nigata,
do công ty Showa Denko thải thủy ngân xuống lòng
sông. Ngoài bệnh Minamata, các nhà nghiên cứu về
kinh tế-môi trường của Nhật đã không ngần ngại khi
đưa ra bản danh sách các căn bệnh, các vụ nhiễm độc
như bệnh itai-itai ở tỉnh Toyama, nhiễm độc catmi,
nhiễm độc đồng.... do các nhà máy thải chất thải
nguy hại ra môi trường trong suốt mấy chục năm phát
triển công nghiệp.
Ở Việt Nam từ năm 1996 đến năm 1998, Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển công
nghiệp và kết cấu hạ tầng cơ sở 1996 – 2010, và mới
đây, ngày 14/3/2008, Thủ tướng Chính phủ lại ký Nghị
định Quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và
khu kinh tế. Tính đến cuối năm 2007, cả nước có gần
190 khu công nghiệp (KCN) với tổng diện tích 44.000
ha, trong đó có hơn 110 KCN đã đi vào hoạt động. Các
KCN đã thu hút hơn 3.000 dự án đầu tư nước ngoài với
tổng vốn gần 30 tỉ USD. Ngoài ra còn có 3.000 dự án
trong nước với tổng vốn gần 200 ngàn tỉ đồng, giải
quyết việc làm cho hơn 3 triệu lao động. Các KCN đã
tạo ra một bộ mặt mới cho công nghiệp Việt Nam. Các
KCN được phân bố ở 54 tỉnh, thành phố, chủ yếu ở các
vùng Đông Nam bộ, đồng bằng sông Hồng và ven biển
miền Trung, làm cho đường giao thông, cảng sông,
cảng biển, thông tin liên lạc và các kết cấu hạ tầng
kỹ thuật, dịch vụ... phát triển. Đội ngũ công nhân
kỹ thuật có tác phong công nghiệp có trình độ quản
lý được hình thành. Trong những năm qua, nhiều
thương hiệu của các doanh nghiệp trong KCN đã xuất
hiện và có uy tín trên thị trường trong nước và quốc
tế.
Có thể nói, thành tựu của KCN đã đánh dấu một mốc
son trong phát triển kinh tế nước ta thời hội nhập.
Tuy nhiên, nó cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết mà trước hết là ô nhiễm môi trường. Do KCN
thường bám sát quốc lộ, gần khu vực dân cư, cộng với
việc một số doanh nghiệp nhập khẩu các thiết bị cũ,
công nghệ lạc hậu, nguyên liệu kém chất lượng, đã
làm cho môi trường càng thêm ô nhiễm. Trong số 154
KCN đang hoạt động trên toàn quốc chỉ có 39 KCN có
hệ thống xử lý nước thải tập trung (chiếm 25%),
chính vì hệ thống nước thải ở các KCN chưa được xây
dựng đồng bộ, nên lượng nước thải công nghiệp mỗi
ngày thải ra môi trường khoảng 500.000-700.000 m3
hầu hết chưa được xử lý đã làm ô nhiễm môi trường
nước. Tình trạng ô nhiễm trên một số con sông như
sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai, sông
Sài Gòn, sông Thị Vải... đã đến mức báo động. Đó là
chưa kể, các KCN khi xây dựng thiếu biện pháp bảo vệ
môi trường, làm ô nhiễm môi trường không khí và khi
sản xuất, các chất thải rắn không có chỗ chôn lấp,
cũng như không có hệ thống xử lý, làm cho môi trường
càng ô nhiễm. Hiện nay, chất thải công nghiệp mỗi
năm lên tới hơn 2,9 triệu tấn, trong đó các KCN là
1,2 triệu tấn và khối lượng chất thải nguy hại chiếm
175.000 tấn, nhưng lượng thu gom, xử lý không được
50%. Nếu kể cả lượng rác sinh hoạt, trong 20 năm qua
còn tồn đọng 70 triệu tấn, trong khi cả nước hiện có
850 bãi chôn lấp rác thải đang vận hành, nhưng chỉ
có 8 bãi là hợp vệ sinh. Các KCN làm ô nhiễm môi
trường đã gây nhiều tác hại đến sức khỏe con người.
Ngân hàng thế giới đã đưa con số: Mỗi năm ở Việt Nam
thiệt hại 780 triệu USD trong các lĩnh vực sức khỏe
cộng đồng vì ô nhiễm môi trường. Không phải ngẫu
nhiên mà nhân 50 năm ngày phát hiện ra bệnh
Minamata, Hội đồng Môi trường Nhật Bản đã tổ chức
một diễn đàn quốc tế về ô nhiễm môi trường ảnh hưởng
đến sức khỏe ở thành phố Kumamoto với chủ đề "Bài
học gì từ 50 năm phát hiện ra bệnh Minamata?". 300
đại biểu đến từ 141 vùng lãnh thổ của 12 quốc gia,
trong đó có Việt Nam đã rút ra bài học cho mình là,
không vì tăng trưởng kinh tế mà bỏ qua nguy cơ ô
nhiễm môi trường tiềm ẩn gây hậu họa lâu dài cho đất
nước và con người.
Bước vào thực hiện CNH, HĐH, Việt Nam đã rút ra bài
học kinh nghiệm của các nước đi trước là sớm có
Chiến lược bảo vệ môi trường; đó là việc ban hành
Luật Môi trường, thiết lập hệ thống quản lý nhà nước
về môi trường. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tình trạng
ô nhiễm là do pháp luật chưa đồng bộ, thực hiện chưa
nghiêm, hệ thống quản lý chưa đủ mạnh mặc dù lực
lượng cảnh sát môi trường đã được thành lập, chế tài
xử phạt chưa đủ sức răn đe đối với các doanh nghiệp
làm ô nhiễm môi trường.
Cho đến nay, chưa có doanh nghiệp nào bị xử lý trách
nhiệm hình sự và công khai trên các phương tiện
thông tin đại chúng khi vi phạm Luật Môi trường.
Nhiều doanh nghiệp còn thiếu ý thức, chưa coi chi
phí bảo vệ môi trường là chi phí sản xuất cần thiết.
Kết quả kiểm tra năm 2007 của Cục Bảo vệ môi trường
cho thấy: 10% các cơ sở công nghiệp được kiểm tra
không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc
bản cam kết bảo vệ môi trường chưa có cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt; 125/156 cơ sở không thực hiện
đúng nội dung cam kết bảo vệ môi trường; 102/140 cơ
sở phát sinh nước thải vượt tiêu chuẩn; 77 cơ sở
phát sinh chất thải nguy hại nhưng không quản lý,
vận chuyển và xử lý theo quy định của Nhà nước,
không lập hồ sơ đăng ký chủ nguồn chất thải nguy
hại. Hiện nay, việc giải quyết ô nhiễm môi trường ở
các KCN đang là nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước,
doanh nghiệp và nhà đầu tư. Việc làm đó đạt kết quả
khả quan hay không còn tùy thuộc vào việc đã coi môi
trường là yếu tố cơ bản của sản xuất và của chất
lượng cuộc sống hay chưa? Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội năm 2008 được Quốc hội thông qua đã chỉ
rõ, cần ngăn chặn, xử lý kịp thời các cơ sở gây ô
nhiễm môi trường tại các khu dân cư, khu vực đô thị,
KCN, vùng đầu nguồn nước, ven biển, khu vực làng
nghề. Kế hoạch cũng nêu ra các chỉ tiêu về môi
trường, trong đó năm 2008, xử lý các cơ sở gây ô
nhiễm môi trường đạt 60%; Tỷ lệ chất thải rắn được
thu gom đạt 80%; Tỷ lệ xử lý chất thải nguy hại đạt
64%; Tỷ lệ KCN, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước
thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 60%.
Thực hiện những chỉ tiêu này sẽ giảm bớt ô nhiễm môi
trường ở KCN và đảm bảo phát triển bền vững.
http://irv.moi.gov.vn/News/PrintView.aspx?ID=20111
19- Bệnh... môi trường
Thứ sáu, 03 Tháng 10 2008
Những bệnh truyền nhiễm nguy hại như nhiễm trùng
đường hô hấp cấp tính, tiêu chảy và các bệnh điếc,
suyễn, bại não, viêm tai giữa đang gia tăng. Tình
trạng trên được cho là liên quan đến ô nhiễm môi
trường.
Một thời gian dài bị gia đình và hàng xóm than phiền
vì mở tivi quá lớn, ông P.X.Đ., ngụ P.25, quận Bình
Thạnh đến Bệnh viện Tai mũi họng, TP.HCM khám. Tại
đây, sau khi chụp X-quang và làm các xét nghiệm cần
thiết, ông Đ. được chẩn đoán bệnh điếc. Nguyên nhân
của "sức nghe kém dần" được các bác sĩ xác định do
làm việc, sinh hoạt trong môi trường ô nhiễm tiếng
ồn cao, gây tê liệt các dây thần kinh nghe.
Ông Đ. cho biết lúc nhỏ tai ông rất bình thường, nếu
không muốn nói là thính. Cách đây khoảng năm, sáu
năm, ông vẫn nghe rõ mồn một. Hồi tai còn nghe tốt,
mỗi khi có tiếng động lớn ông thường bị chói tai,
cảm giác ghê ghê, nhưng khoảng ba năm trở lại đây,
ông quen dần với tiếng ồn và kết cuộc bây giờ tiếng
động phải lớn ông mới nghe thấy.
Mặc dù các bác sĩ giải thích rất rõ ràng nhưng ông
P.X.Đ. vẫn không tin tiếng ồn tác động lên tai kinh
khủng như vậy. "Nếu biết tiếng ồn nguy hiểm đến thế,
tôi đã… cảnh giác với nó”. Tuy nhiên, các bác sĩ cho
rằng với mức độ ô nhiễm tiếng ồn ở mọi lúc, mọi nơi
như hiện nay rất khó để tránh.
Bác sĩ Phan Thị Thảo, trưởng khoa nhi, Bệnh viện Tai
mũi họng, TP.HCM, cho biết: nếu tiếp xúc với tiếng
ồn ở âm độ cao lâu dài rất dễ bị điếc. Không chỉ tác
hại lâu dài, tiếng ồn còn tác động mạnh lên thần
kinh, làm xáo trộn tâm lý, gây bất ổn cho tâm trạng.
Nhưng điều bác sĩ Thảo lo lắng hơn là bệnh này thật
khó phòng tránh vì tai của chúng ta tiếp nhận âm
thanh một cách thụ động.
Bệnh nặng hơn
Bảy loại bệnh… môi trường
Theo báo cáo quốc gia về sức khỏe môi trường năm
2007, có bảy loại bệnh được cho là liên quan mật
thiết với ô nhiễm môi trường, bao gồm: bệnh ung thư,
bệnh hệ tuần hoàn, bệnh hệ thần kinh, ngộ độc, bệnh
nhiễm khuẩn và ký sinh trùng, bệnh hệ tiêu hóa, bệnh
hô hấp.
Những bệnh này chiếm tỉ lệ khác nhau ở những nơi có
nguồn ô nhiễm môi trường khác nhau. Chẳng hạn, tại
khu vực Thượng Đình (Hà Nội) tỉ lệ mắc bệnh viêm phế
quản mãn tính là 6,4%, ở nơi khác chỉ 2,8%; hô hấp
trên 36,1%, ở nơi khác là 13,1%; triệu chứng về mắt:
28,5%, nơi khác: 16,1%; rối loạn chức năng thông khí
phổi: 29,4% so với nơi khác là 22,8%.
Không chỉ bệnh về tai, ghi nhận gần đây tại các bệnh
viện, nhiều bệnh liên quan đến môi trường đều gia
tăng. Thống kê ở Bệnh viện Nhi Đồng 1, TP.HCM trong
10 năm lại đây, số ca nhập viện vì các bệnh liên
quan trực tiếp đến ô nhiễm môi trường nói chung đều
đáng báo động (xem bảng).
Không chỉ gia tăng, cấp độ bệnh và độ tuổi mắc bệnh
cũng được cảnh báo. Bác sĩ Trần Anh Tuấn, trưởng
khoa hô hấp Bệnh viện Nhi Đồng 1, khẳng định: "Trước
đây rất hiếm trường hợp trẻ 2 tuổi bị hen phế quản.
Nay những trường hợp này ngày càng nhiều hơn, trầm
trọng hơn".
Tương tự, bác sĩ Đặng Hoàng Sơn, trưởng khoa tai -
mũi - họng, Bệnh viện Nhi Đồng 1, cho rằng cấp độ
của bệnh đã tăng lên. Chẳng hạn, trước đây, bệnh
viêm mũi thường chỉ có triệu chứng sổ mũi, nay
chuyển xuống viêm họng, viêm thanh quản. Mật độ dân
cư đông, ô nhiễm môi trường được cho là nguyên nhân
làm trầm trọng và gia tăng bệnh tật như hiện nay.
Nguồn cơn
Bác sĩ Hà Mạnh Tuấn, giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng 2,
cho biết theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới,
mỗi năm có đến 2 triệu trẻ em tử vong vì nhiễm khuẩn
hô hấp cấp, 60% trong số đó do ô nhiễm không khí.
Ông Tuấn giải thích: "Mối liên hệ giữa ô nhiễm môi
trường, không khí với các bệnh như bại não, bạch cầu
cấp, dị tật bẩm sinh... khá phức tạp. Chúng có thể
đi theo nhiều con đường để tác động lên người, có
thể thông qua mẹ truyền qua nhau thai, tác động lên
bào thai gây ra các biến đổi và các dị tật cho thai
nhi".
Thống kê các ca bệnh tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 còn
cho thấy những quận có mật độ dân cư đông, phương
tiện giao thông nhiều, nhà máy sản xuất lắm thường
có tỉ lệ trẻ mắc các bệnh về hô hấp cao hơn so với
những quận khác trong TP. Chẳng hạn, quận Tân Bình
chiếm đến 16% trong tổng số các ca nhập viện. Bác sĩ
Võ Công Đồng, Bệnh viện Nhi Đồng 2, cũng cho rằng
một số bệnh có thể chịu tác động của môi trường và
ngày càng gia tăng tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 như:
viêm họng, viêm phế quản, viêm phổi, hen phế quản,
tiêu chảy.
Bệnh liên quan đến môi trường tại BV Nhi Đồng 1
Loại bệnh |
Số ca năm 1996 |
Số ca năm 2006 |
Mức tăng (lần) |
Viêm tai giữa |
441 |
~2.700 |
6,1 |
Suyễn |
3.074 |
13.000 |
4,2 |
Bại não |
553 |
1.095 |
1,9 |
Dị tật bẩm sinh |
968 |
2.535 |
2,6 |
Theo Tuổi Trẻ
http://www.vtdonline.net/home/index.php?option=com_content&view=article&id=437:bnh-moi-trng&catid=11:sc-khe&Itemid=11
20- Vì Sao Bệnh Nan Y Phát Sinh Và Lan Tràn Khắp Nơi?
GS PHẠM VĂN CHÍNH . Việt Báo Thứ Bảy, 2/9/2008,
1:53:00 PM
- GS Phạm Văn Chính
Muốn đẩy lùi các bệnh nan y của thời đại, chúng ta
cần phải biết nguyên nhân nào làm phát sinh và giúp
lan tràn các loại bệnh này. Có biết được nguyên
nhân, chúng ta mới có thể trị được tận gốc.
Mỗi bệnh thường bắt nguồn từ các nguyên nhân khác
nhau. Chúng ta không có điều kiện để tra cứu từng
nguyên nhân của từng bệnh riêng rẽ. Chúng ta chỉ có
thể kể ra các nguyên nhân chính dẫn đến các bệnh nan
y của thời đại. Mỗi người tự tìm ra nguyên nhân của
bệnh mình đang mắc phải để tự điều chỉnh.
Nguyên nhân sinh bệnh cũng có các loại nguyên nhân
xa và nguyên nhân gần. Nguyên nhân gần là cơ thể mất
quân bình âm dương, kinh lạc huyệt đạo bị tắt nghẽn.
Vấn đề này chúng tôi đã nói đến trong quyển “Tiên
Thiên Khí Công Toàn Tập”. Trong tài liệu này, chúng
ta đi xa hơn, tức là thử tìm hiểu xem vì sao cơ thể
bị mất quân bình âm dương và, từ đó, làm cho kinh
lạc huyệt đạo bị tắt nghẽn?
Nhiều tài liệu nghiên cứu cho biết cơ thể mất quân
bình âm dương do các nguyên nhân chính sau đây:
1- Do ăn uống: Khi ăn uống chúng ta đưa vào cơ thể
những chất bổ dưỡng cần thiết nhưng đồng thời cũng
đưa vào nhiều chất đôc hại cho cơ thể.Trong xã hội
công nghiệp, thức ăn thức uống được làm quá lâu, ướp
lạnh đến độ các tế bào chứa đựng trong các loại tôm,
cua, cá bị biến thể. Đã thế mà phần lớn thức ăn,
thức uống, do cần giữ gìn được lâu, nên thường bị
thêm vào các loại hóa chất. Dù là hóa chất thực
phẩm, chúng cũng thường ảnh hưởng đến sự hấp thụ của
cơ thể, làm mệt bộ phận tiêu hóa.
Chúng ta được biết một miếng thịt các loại từ lò
thịt đến siêu thị, rồi đến người tiêu thụ, thường
mất khoảng sáu tháng hoặc có thể lâu hơn nữa. Còn
các loại thức ăn làm sẵn vô các loại hộp làm bằng
kim loại hoặc bằng nhựa, thời gian lưu trữ cũng rất
lâu mới đến ngừơi tiêu thụ.Vì vậy, các loại thức ăn,
thức uống này hầu hết đều chứa đựng những mầm mống
sanh bệnh. Đó là chưa kể phần đông các loại thú vật
cũng mang các loại bệnh nan y.
Như chúng ta đã từng nghe nói đến vụ bò điên; và
chứng bệnh điên này chắc chắn có ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe của người ăn thịt chúng.Vì thế, người ta dù
không theo tôn giáo cũng thường khuyên nhau nên giảm
ăn các loại thịt và nên ăn nhiều các loại rau đậu,
trái cây. Các loại thức ăn này vừa dễ tiêu hóa, vừa
rất ít mầm sanh bệnh, lại rất thích hợp đối với cơ
thể con người. Thật vậy, bộ phận tiêu hóa của con
người, như bộ răng, dạ dày..., không được trang bị
như các động vật ăn thịt (carnivore). Do đó những ai
lạm dụng thịt theo thói quen thường có nhiều bệnh
tật hơn người ăn rau đậu trái cây.
Các loại bệnh phát sinh từ ăn uống thường là bệnh về
đường ruột, gan, thận, cao máu, cao mỡ, tiểu đường,
viêm gan A B C... Nếu chúng ta biết cách lựa chọn
các loại thức ăn, thức uống quân bình âm dương, hoặc
biết lựa chọn cách ăn uống để giúp cho cơ thể trở
lại quân bình âm dương, chúng ta cũng có thể đẩy lùi
được tận gốc các bệnh nan y. Nhưng nếu ta đang mắc
một chứng bệnh nan y, mà thời gian mắc bệnh lại lâu
dài, thì việc đẩy lùi căn bệnh bằng cách ăn uống
quân bình âm dương phải mất một thời gian khá dài.
Trong khi, với một kỳ Nhập Thất ngắn, cơ thể chúng
ta đã có thể bắt đầu tái cấu trúc, và sau đó chúng
ta có thể thay đổi dễ dàng cách ăn uống.
2- Do môi trường: Môi trường ở các nước công nghiệp
thường rất ô nhiễm. Khí trời ô nhiễm cũng độc hại
không thua thức ăn, thức uống bị nhiễm độc. Thức ăn,
thức uống đi vào bộ máy tiêu hóa, còn khí trời vào
bộ máy hô hấp và bộ máy tuần hoàn. Mà qua bộ máy hô
hấp, tuần hoàn bệnh xâm nhập còn nhanh hơn bằng
đường tiêu hóa. Vì thế, nếu chúng ta cứ tiếp tục hít
thở khí trời ô nhiễm thì sớm muộn cũng phải bị bệnh.
Các loại bệnh xuất phát từ môi trường ô nhiễm là
viêm gan, viêm mũi, viêm phế quản, bệnh tim mạch,
cao huyết áp và các dạng bệnh nhiễm trùng do đường
hô hấp gây ra... Vì thế, ngoài việc Nhập một hay vài
Kỳ Thất để tẩy sạch các loại vi trùng, để điều hòa
huyết áp và tim mạch, chúng ta cũng cần phải thay
đổi môi trường sống thì bệnh tật mới không có cơ tái
phát.
Thay đổi môi trường sống đồng nghĩa với thay đổi chỗ
ở. Phải chọn chỗ ở có không khí trong lành, thoáng
khí thì các loại bệnh do môi trường sinh ra mới thật
sự rời khỏi chúng ta mà thôi.
3- Do ức chế thần kinh (stress). Sự ức chế thần kinh
do công việc sinh sống hằng ngày, hoặc do âu lo,
buồn phiền thường tác động trực tiếp đến bộ tiêu hóa
và giấc ngủ. Bộ máy tiêu hóa của những người bị ức
chế thường bị tổn hại nặng nề khó hồi phục, biến
chứng thành các bệnh nan y như loét dạ dày, gan,
thận hoạt động khó khăn.
Các loại vi trùng và siêu vi trùng thừa cơ hội này
cũng xâm nhập và sinh sản nhanh chóng để trở thành
các loại bệnh viêm nhiễm kinh niên mà không một loại
thuốc trụ sinh nào tiêu diệt được. Trường hợp này
Nhập Thất là môt diệu pháp giúp cho hệ thống miễn
nhiễm của cơ thể tấn công và tiêu diệt các loại vi
trùng, đồng thời tăng thêm sức đề kháng cho cơ thể.
Tình trạng bị ức chế thần kinh đang lan rộng trong
mọi tầng lớp xã hội là điều đáng báo động. Phải dừng
lại, phải nhìn thật sâu vào chính mình. Đừng chạy
theo sự hào nhoáng bên ngoài nữa.
Sự ức chế thần kinh thường đi kèm với bệnh mất ngủ,
lâu ngày trở thành kinh niên. Mất ngủ kinh niên cũng
là một bệnh nan y bất trị. Càng uống thuốc ngủ, hệ
thần kinh càng suy nhược thêm. Lâu ngày bệnh mất ngủ
biến thành bệnh về tâm thần, làm tính tình thay đổi,
dễ nóng giận, gắt gỏng, dẫn đến mất trí nhớ.
Bệnh mất trí nhớ cũng gọi là bệnh quên, làm cho con
người mất hết ý nghĩa trong đời sống. Sự ức chế thần
kinh hiện đang là tình trạng khá phổ biến tại các xã
hội văn minh, có thừa thải vât chất nhưng lại thiếu
trang bị về nếp sống, phong cách sống hay một quan
niệm sống. Con người có khuynh hướng dễ bị cuốn vào
một vòng xoáy nguy hiểm mà không bao giờ thoát ra
được.
Hình như con người phần đông đang chạy theo ảo ảnh
nhiều hơn là tìm kiếm một thứ hạnh phúc chân thật.
Triết học gọi hiện tượng này là sự vong thân, tự
đánh mất mình mà không bao giờ tỉnh thức. Nỗi ám ảnh
của Đại Đế Napoléon là chiến thắng. Ông đi tìm chiến
thắng trên chiến trường, đến khi gần chết ông cho
biết cả đời ông chỉ sống được có ba ngày. Đó là ba
ngày trăng mật của ông. Người ta hưởng tuần trăng
mật 7 ngày. Còn ông hưởng tuần trăng mật chỉ vỏn vẹn
có 3 ngày. Vậy mà ông cũng được xem là một nhân vật
nổi danh trên thế giới ! Như vậy, danh vọng của ông
là gì ? Phải chăng chỉ là những hư danh, những ảo
vọng xuất phát từ kiêu hãnh cá nhân ? Ông không chịu
trở lại chiến thắng chính mình. Ông chỉ thích chiến
thắng người khác. Chính vì thế mà ông đã hối hận vì
cả đời chỉ sống được có ba ngày.
Vậy nếu ai trong chúng ta sống được 4 ngày có ý
nghĩa trong cuộc đời sáu bảy mươi năm, chúng ta sẽ
hạnh phúc hơn Napoléon.
Hãy thực nghiệm một Kỳ Thất để quay lại với chính
mình. Hãy bắt đầu chiến thắng tính thèm ăn, thèm
uống, thắng dục vọng đang sôi sục trong lòng, trong
tâm tư của mình, nhất định chúng ta sẽ có cuộc sống
tràn đầy hạnh phúc.
4- Do sử dụng thuốc men: Thuốc men cần để chữa trị
các bệnh thông thường. Thuốc men nói chung từ Đông y
đến Tây y đều hữu ích trong các trường hợp cấp thời,
nhưng lại tỏ ra bất lực đối với các loại bệnh nan y.
Và sự lạm dụng thuốc men trong bất cứ loại bệnh gì
cũng đều đưa đến hậu quả xấu.
Nhiều loại thuốc lại có phản ứng phụ. Uống Aspirin
lâu ngày dễ bị đau dạ dày. Uống trụ sinh nhiều cũng
làm suy yếu bộ máy tiêu hóa và làm chết hết các loại
con men có ích và cần thiết cho sự tiêu hóa. Uống
nhiều các loại thuốc cao máu, cao mỡ ... cũng ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe.
Sự lạm dụng thuốc men, cũng như sự lạm dụng thức ăn
uống, đều làm cho sức khỏe suy yếu dễ đi đến bệnh
hoạn. Hải Thượng Lãn Ông, một danh sư Việt Nam rất
hữu lý khi nói rằng: “Dùng thuốc trị bệnh là hạ
sách. Không dùng thuốc mà trị được bệnh mới là
thượng sách“.
Tại sao dùng thuốc trị bệnh là hạ sách? - Vì sau khi
được dùng để đẩy lùi căn bệnh, thuốc thường để lại
hậu quả xấu cho ngũ tạng lục phủ. Còn không dùng
thuốc mà trị được bệnh là thượng sách, bởi vì như
thế cơ thể được hồi phục một cách tự nhiên, sức khỏe
thể chất và tâm linh đều được bảo toàn. Mà không
dùng thuốc tức là dùng một phương pháp hợp tự nhiên,
như ăn uống hoặc luyện tập cơ thể để trị bệnh. Còn
vì sao Nhập Thất trị được bệnh, chúng ta sẽ nói ở
chương khác.
Điều cần nói đến ngay là đừng bao giờ lạm dụng
thuốc. Đừng bao giờ để cho bị lệ thuộc thuốc. Và
nhứt là đừng bao giờ làm suy yếu cơ thể bằng thuốc
men.
Thuốc dù được bào chế bằng hóa chất hay bằng các
loại dược thảo cũng không phải là thức ăn tự nhiên
dành cho con người, trừ phi loại dược thảo đó bồi bổ
cơ thể, làm trẻ hóa được tế bào, hoặc giúp kéo dài
được tuổi thọ một cách cường tráng và khang kiện về
mặt tinh thần.
Và, nếu đã tránh được việc lệ thuộc thuốc men, thì
cũng nên tránh việc giải phẫu bằng dao mỗ, trừ
trường hợp khẩn cấp. Mọi cuộc giải phẫu bằng dao mỗ
đều không tự nhiên và đều làm giảm sức khỏe, giảm
tuổi thọ. Muốn tránh dao mổ trên cơ thể, chúng ta
phải biết cách giải phẩu không dùng dao mổ. Nhập
Thất chính là cách giải phẫu không dùng dao mỗ và
trị bệnh nan y không dùng thuốc.
5- Do các tiện nghi của đời sống: Đề tài này chúng
tôi đã đề cập trong quyển sách số 2. Chúng tôi xin
không lặp lại. Ở đây chỉ muốn nhắc lại rằng các tiện
nghi của đời sống thường cũng là nguyên nhân làm cho
kinh lạc huyệt đạo bị tắt nghẽn, đưa đến các bệnh
nan y, chứ không phải bệnh thông thường.
Ngồi lâu trước máy điện toán, nghe điện thoại cả
ngày, xem phim quá lâu trên màn ảnh truyền hình, đều
tác hại lên hệ thần kinh. Mà hệ thần kinh suy nhược
lại phát sinh những bệnh nan y khác như mất ngủ,
tuyến giáp trạng hoạt động bất bình thường và nhiều
chứng bệnh tâm thần khác. Có một người tôi biết rất
rõ là do xử dụng quá thường xuyên máy điện toán đã
phải mang một chứng bệnh nan y bất trị: tuyến giáp
trạng phình to, cơ thể bị đau nhức và cứng đơ rất
khó trị. Sau nhiều năm đau khổ vì phải lặn lội tìm
thầy tìm thuốc một cách vô vọng, người này đã tìm
đến với Tiên Thiên Khí Công và đã khỏi bệnh rất
nhanh lại không phải tốn kém tiền bạc.
Một người khác bị suyển trên 30 năm, bệnh suyễn đã
trở thành nan y, mặc dù đã chạy chữa bằng mọi biện
pháp, bằng nhiều loại thuốc men. Người này đã lành
bệnh sau một thời gian dài tập các động tác của Tiên
Thiên Khí Công, sau khi nhập Thất 3 ngày, và nhứt là
sau khi hạn chế sự tác hại của các loại tiện nghi
trong đời sống hằng ngày.
6- Do lạm dụng sinh lý nam nữ: Đề tài này cũng đã
được nói đến trong quyển sách số 2, chương nói về
“Bí quyết trường thọ theo danh y Tuệ Tĩnh”. Ở đây,
chúng tôi chỉ muốn nhắc lại vấn đề này như là một
nguyên nhân sinh bệnh mà cũng thuộc loại nan y.
Phần đông những dân tộc có mức sống cao, ăn uống đầy
đủ, nhưng thiếu trang bị kiến thức về các yếu tố
tinh, khí, thần, xem sự giao hợp nam nữ là một thứ
khoái lạc cao cấp, một thứ hạnh phúc cùng tột. Họ cố
ăn uống bổ dưỡng cho có nhiều sức khỏe, rồi dùng sức
khỏe này cho việc giao hợp. Họ tìm mọi kiểu cách để
thõa mãn dục tính. Họ sử dụng phương cách phản tự
nhiên để thảa mãn tình dục. Hơn thế nữa, để kéo dài
những giây phút khoái lạc của cuộc giao hoan, họ
dùng đến cả những loại thuốc trợ lực, những loại
thuốc kích thích. Hậu quả là tinh khí bị cạn kiệt,
sức khỏe bị suy yếu, tinh thần bị bại hoại...
Những ai chạy theo loại khoái lạc xác thịt này rất
dễ bị bệnh tim mạch, trí não bị thoái hóa, tay chân
mỏi mệt, đi đứng yếu đuối, tuổi thọ bị rút ngắn.
Trong khi đó, hầu như người Á Đông nào cũng được
nghe câu nói thời danh này: “Tinh túc thì ít bệnh,
Khí túc thì ít ăn và Thần túc thì ít ngủ”. Ba yếu tố
Tinh, Khí, Thần có liên quan chặt chẽ với nhau. Kẻ
nào biết giữ ba yếu tố này, người đó sống khỏe mạnh,
sống trường thọ và có một cuộc sống thanh cao, phi
thường.
Thật là tội nghiệp cho bất cứ dân tộc nào chỉ có một
nguồn vui duy nhứt tìm được trong những phút giao
hoan thể xác.
7- Do di truyền: Nhiều người mắc các chứng bệnh nan
y do di truyền. Ví dụ cha mẹ bị bệnh tiểu đường con
cháu cũng bị di truyền. Ngoài bệnh tiểu đường cũng
còn một số bệnh khác do cha mẹ để lại cho con cháu
nên khó tránh. Khó tránh không có nghĩa là chúng ta
phải chịu đựng suốt đời không có cách chữa trị. Bệnh
tiểu đường, cũng như bất cứ bệnh nào khác do di
truyền, cũng đều có thể được trị lành và nhờ đó tính
di truyền sẽ bị chận lại. Nói cách khác ngưới bị
bệnh nan y, dù xuất phát từ bất cứ nguyên nhân nào,
cũng đều trị được nếu chúng ta biết cách trị tận gốc
căn bệnh. Vấn đề là mình phải bíết rõ bệnh trạng do
nguyên nhân nào gây ra. Có hiểu rõ nguyên nhân sinh
bệnh thì việc trị bệnh mới có hiệu quả lâu dài.
Sau một Kỳ Thất, cơ thể tái cấu trúc, lấy chỗ thừa
bù cho chỗ thiếu, đưa đến tình trạng quân bình, làm
cho mọi căn bệnh nan y đều thuyên giảm hoặc biến
mất. Nhưng muốn cho bệnh vĩnh viễn không trở lại,
chúng ta còn phải thay đổi cả cách sống, cách đưa
vào cơ thể các loại thực phẩm có khả năng trị được
tận gốc căn bệnh và thay đổi nếp sống.
Cần tìm hiểu thêm về cách tự chữa trị các bịnh nan y
như tiểu đường, cao mỡ, cao máu, nhiễm trùng, ung
bướu...
Quý vị có thể theo dõi các bài viết đăng trên Việt
Báo hằng tuần vào ngày thứ bảy hoặc order trực tiếp
các tài liệu tham khảo qua website của Hội:
tienthienkhicong.org. Điện thoại liên lạc: GS Phạm
Văn Chính (714) 902-3544, Nguyễn Định (714)
725-1522.
http://www.tienthienkhicong.org/visao.htm
21- Ô nhiễm môi sinh làm tăng sơ sinh khuyết tật
DCVOnline – Tin ngắn
Ô nhiễm môi sinh làm tăng sơ sinh khuyết tật
Bắc Kinh - Khuyết tật của trẻ sơ sinh Trung Quốc
tăng gần 40 phần trăm kể từ năm 2001, theo một báo
cáo của chính phủ, và các viên chức nhà nước cho
rằng có sự liên quan của vấn đề này với sự xuống cấp
môi trường ngày càng trầm trọng của Trung Quốc.
Thành phố Yutian, tỉnh Hebei: Không phải sương giăng
chiều hôm, hay sương mù sáng sớm, mà là đám mây ô
nhiễm tỏa ra từ nhà máy nằm gần đó. Nguồn: Peter
Parks/AFP/Getty Images
________________________________________
Tỉ lệ sinh khuyết tật tăng 104.9 phần trăm mỗi
10,000 trẻ sơ sinh trong năm 2001, lên đến 145.5
phần trăm trong năm 2006, ảnh hưởng có thể nói gần
như cứ mười gia đình là có một gia đình có vấn đề
này, theo một báo cáo của Ủy ban Kế hoạch hóa Gia
đình và Dân số Trung Quốc đăng tải trên mạng của họ
(www.chinapop.gov.cn)
"Trẻ sơ sinh với khuyết tật bẩm sinh giờ chiếm
khoảng 4 đến 6 phần trăm tổng số trẻ sơ sinh hằng
năm. Trong số này, khoảng 30 phần trăm sẽ chết và 40
phần trăm sẽ trở thành người tàn tật", theo báo cáo
của Ban Kế hoạch hóa Gia đình.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (The World Health
Organisation) lượng định thì có khoảng 3 đến 5 phần
trăm trẻ em trên toàn thế giới bị sinh ra ra với
khuyết tật bẩm sinh. Tỉnh Shanxi, vốn có nhiều mỏ
than ở vùng Nam Trung Quốc, là một trung tâm thải
khí độc từ những nhà máy hoá chất và chế biến than
cốc loại lớn, có tỉ lệ trẻ sơ sinh với khuyết tật
cao nhất, thông tấn xã Xinhua cho hay và bản tin này
được đi trên báo Tin tức Bắc Kinh hôm thứ Hai tuần
này.
Ông An Huanxiao, Giám đốc Ủy ban Kế hoạch hóa Gia
đình của tỉnh Shanxi nói: "Tỉ lệ sơ sinh khuyết tật
liên quan đến ô nhiễm môi sinh. Thống kê của bản báo
cáo cho thấy tám khu vực với kỹ nghệ than lớn nhất
tỉnh Shanxi có tỉ lệ sơ sinh khuyết tật cao hơn hẳn
so với tỉ lệ sinh khuyết tật toàn quốc."
Bản báo cáo còn cho hay khoảng 2 đến 3 triệu trẻ sơ
sinh ở Trung Quốc sinh ra với dị tật bẩm sinh có thể
thấy và phát hiện ngay, nhưng hơn 8 đến 12 triệu trẻ
sơ sinh tuy cũng sinh ra với khuyết tật bẩm sinh,
nhưng tại chỗ thì không phát hiện cho đến vài tháng
sau hay có khi cả mấy năm sau khi sinh mới phát tiết
ra ngoài những khuyết tật.
Bắc Kinh: Một công nhân đang vớt rác ở ở con kênh.
Báo cáo cho hay khoảng 300 triệu người dân Trung
Quốc uống nước thiếu vệ sinh - xem như cứ một trong
bốn người - phải chịu uống nước dơ. Nguồn: Peter
Parks/AFP/Getty Images
________________________________________
Viên chức nhà nước cho rằng khuyết tật bẩm sinh này
liên quan đến sự nghèo đói, những vùng nông thôn, và
những vùng bị "tỉ lệ đau ốm cao". Khoảng 460,000
người Trung Quốc chết non hằng năm do thở không khí
ô nhiễm và uống nước dơ, theo một nghiên cứu của
Ngân hàng Thế giới (World Bank).
Bản báo cáo được tường thuật cùng lúc Bắc Kinh đang
nỗ lực cải thiện không khí trong lành hơn cho kịp
mùa Thế Vận Hôi mùa hè năm 2008, vốn chứa nhiều bụi
nhỏ - mà đôi khi lượng bụi trong không khí vượt qúa
mức an toàn đến 200 phần trăm.
Trung Quốc, nơi có nhiều thành phố ô nhiễm nhất thế
giới (trong 20 thành phố ô nhiễm nhất thế giới hiện
nay, Trung Quốc lấy hết 16!), đã quyết tâm giảm sự
thải khí và làm sạch môi trường, vốn bị tàn phá sau
cả mấy thập niên phát triển với một tốc độ nhanh
nhưng cũng rất nguy hiểm cho môi trường vì sự thiếu
hiểu biết thoạt đầu và sau đó là bất chấp!
© DCVOnline
________________________________________
Nguồn:
(1) “China birth defects soar due to pollution".
Reuters, 26 October 2007
(2) “River Pollution in China". Stephen Voss,
Photojournalist
(3) “Chinese Pollution Is An Increasing Threat". CBS
News, 6 June 2007.
[ Trở lại ]
http://72.14.235.104/search?q=cache:-uptP1KfmTsJ:www.dcvonline.net/php/modules.php%3Fname%3DNews%26file%3Darticle%26sid%3D4109+b%E1%BB%87nh+t%E1%BA%ADt+t%C4%83ng+cao+v%C3%AC+%C3%B4+nhi%E1%BB%85m&hl=en&ct=clnk&cd=75
World News
21- Ô
nhiễm môi sinh làm tăng sơ sinh khuyết tật
Bắc Kinh - Khuyết tật của trẻ sơ sinh Trung Quốc
tăng gần 40 phần trăm kể từ năm 2001, theo một báo
cáo của chính phủ, và các viên chức nhà nước cho
rằng có sự liên quan của vấn đề này với sự xuống cấp
môi trường ngày càng trầm trọng của Trung Quốc.
Thành phố Yutian, tỉnh Hebei: Không phải sương giăng
chiều hôm, hay sương mù sáng sớm, mà là đám mây ô
nhiễm tỏa ra từ nhà máy nằm gần đó. Nguồn: Peter
Parks/AFP/Getty Images
________________________________________
Tỉ lệ sinh khuyết tật tăng 104.9 phần trăm mỗi
10,000 trẻ sơ sinh trong năm 2001, lên đến 145.5
phần trăm trong năm 2006, ảnh hưởng có thể nói gần
như cứ mười gia đình là có một gia đình có vấn đề
này, theo một báo cáo của Ủy ban Kế hoạch hóa Gia
đình và Dân số Trung Quốc đăng tải trên mạng của họ
(www.chinapop.gov.cn)
"Trẻ sơ sinh với khuyết tật bẩm sinh giờ chiếm
khoảng 4 đến 6 phần trăm tổng số trẻ sơ sinh hằng
năm. Trong số này, khoảng 30 phần trăm sẽ chết và 40
phần trăm sẽ trở thành người tàn tật", theo báo cáo
của Ban Kế hoạch hóa Gia đình.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (The World Health
Organisation) lượng định thì có khoảng 3 đến 5 phần
trăm trẻ em trên toàn thế giới bị sinh ra ra với
khuyết tật bẩm sinh. Tỉnh Shanxi, vốn có nhiều mỏ
than ở vùng Nam Trung Quốc, là một trung tâm thải
khí độc từ những nhà máy hoá chất và chế biến than
cốc loại lớn, có tỉ lệ trẻ sơ sinh với khuyết tật
cao nhất, thông tấn xã Xinhua cho hay và bản tin này
được đi trên báo Tin tức Bắc Kinh hôm thứ Hai tuần
này.
Ông An Huanxiao, Giám đốc Ủy ban Kế hoạch hóa Gia
đình của tỉnh Shanxi nói: "Tỉ lệ sơ sinh khuyết tật
liên quan đến ô nhiễm môi sinh. Thống kê của bản báo
cáo cho thấy tám khu vực với kỹ nghệ than lớn nhất
tỉnh Shanxi có tỉ lệ sơ sinh khuyết tật cao hơn hẳn
so với tỉ lệ sinh khuyết tật toàn quốc."
Bản báo cáo còn cho hay khoảng 2 đến 3 triệu trẻ sơ
sinh ở Trung Quốc sinh ra với dị tật bẩm sinh có thể
thấy và phát hiện ngay, nhưng hơn 8 đến 12 triệu trẻ
sơ sinh tuy cũng sinh ra với khuyết tật bẩm sinh,
nhưng tại chỗ thì không phát hiện cho đến vài tháng
sau hay có khi cả mấy năm sau khi sinh mới phát tiết
ra ngoài những khuyết tật.
Bắc Kinh: Một công nhân đang vớt rác ở ở con kênh.
Báo cáo cho hay khoảng 300 triệu người dân Trung
Quốc uống nước thiếu vệ sinh - xem như cứ một trong
bốn người - phải chịu uống nước dơ. Nguồn: Peter
Parks/AFP/Getty Images
________________________________________
Viên chức nhà nước cho rằng khuyết tật bẩm sinh này
liên quan đến sự nghèo đói, những vùng nông thôn, và
những vùng bị "tỉ lệ đau ốm cao". Khoảng 460,000
người Trung Quốc chết non hằng năm do thở không khí
ô nhiễm và uống nước dơ, theo một nghiên cứu của
Ngân hàng Thế giới (World Bank).
Bản báo cáo được tường thuật cùng lúc Bắc Kinh đang
nỗ lực cải thiện không khí trong lành hơn cho kịp
mùa Thế Vận Hôi mùa hè năm 2008, vốn chứa nhiều bụi
nhỏ - mà đôi khi lượng bụi trong không khí vượt qúa
mức an toàn đến 200 phần trăm.
Trung Quốc, nơi có nhiều thành phố ô nhiễm nhất thế
giới (trong 20 thành phố ô nhiễm nhất thế giới hiện
nay, Trung Quốc lấy hết 16!), đã quyết tâm giảm sự
thải khí và làm sạch môi trường, vốn bị tàn phá sau
cả mấy thập niên phát triển với một tốc độ nhanh
nhưng cũng rất nguy hiểm cho môi trường vì sự thiếu
hiểu biết thoạt đầu và sau đó là bất chấp!
© DCVOnline
________________________________________
Nguồn:
(1) “China birth defects soar due to pollution".
Reuters, 26 October 2007
(2) “River Pollution in China". Stephen Voss,
Photojournalist
(3) “Chinese Pollution Is An Increasing Threat". CBS
News, 6 June 2007.
[ Trở lại ]
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4109
http://www.thiennhien.net/
22- Báo động tình trạng ô nhiễm vì bụi
21-03-2008
Mật độ giao thông dày đặc gây ô nhiễm ở TP Hồ Chí
Minh.
Quá trình đô thị hóa phát triển không đồng bộ với hạ
tầng kỹ thuật trong khi khả năng quản lý xây dựng và
cải tạo đô thị còn nhiều yếu kém đã khiến chất lượng
không khí ở các đô thị lớn bị ô nhiễm trầm trọng.
Thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay tại các thành
phố lớn đang đòi hỏi các cơ quan chức năng phải
nhanh chóng có những giải pháp mạnh...
Thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa (Đồng Nai) được xem
là những đô thị bị ô nhiễm bụi nặng nhất, gấp 2 -
2,5 lần tiêu chuẩn cho phép. Tại ngã tư Đinh Tiên
Hoàng - Điện Biên Phủ (TP. Hồ Chí Minh), nồng độ bụi
lên đến xấp xỉ 1,2mg/m3. Mức độ ô nhiễm ô-xít
các-bon (CO) trong không khí ở các đô thị đang có xu
hướng tăng, đặc biệt ở các nút giao thông lớn, nồng
độ CO thường cao hơn tiêu chuẩn cho phép (5mg/m3).
Cụ thể, tại khu vực Nhà máy VICASA (Đồng Nai), nồng
độ khí CO lên tới trên 9mg/m3; cổng Trường đại học
Bách khoa nồng độ khí CO là 8mg/m3. Với nồng độ quá
cao như vậy, bản thân những người có mặt tại các nút
giao thông, nơi thường xuyên xảy ra tắc đường sẽ
phải chịu một lượng chất độc rất lớn, gây ra hiện
tượng hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu...
Thủ đô Hà Nội được đánh giá là thành phố có môi
trường khá tốt do có nhiều cây xanh và diện tích mặt
nước lớn cũng đang xuất hiện ngày càng nhiều con
đường mà mỗi khi có gió to là người dân hít bụi. Các
đường vành đai như Minh Khai, Âu Cơ, đường nối với
quốc lộ như đường Nguyễn Khoái - đê Hữu Hồng luôn có
bụi mù mịt. Đi lại thường xuyên trên những con đường
này, nếu không đeo khẩu trang, thật khó mà chịu đựng
nổi.
Môi trường không khí ở Hà Nội đang bị ô nhiễm cục
bộ, chủ yếu ở các nút giao thông trọng điểm, các
trục đường giao thông chính và các khu công nghiệp.
Tại một số "điểm nóng" của Hà Nội, nồng độ bụi trong
không khí luôn vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần;
khu vực ngã tư Kim Liên - Giải Phóng đang thi công
cầu vượt, lượng bụi lên đến 0,5mg/m3 (trong khi tiêu
chuẩn cho phép là 0,2mg/m3). Trong các quận, huyện ở
Hà Nội, Gia Lâm là nơi có chất lượng không khí kém
nhất, tiếp đến là Thanh Trì, Đống Đa, Tây Hồ, Hai Bà
Trưng, Từ Liêm, Ba Đình, Hoàn Kiếm.
Lưu lượng xe tham gia giao thông đang tăng nhanh
cũng là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm
không khí nghiêm trọng. Trong đó, phát thải xe máy
là nguyên nhân chính. Chỉ tính riêng Thủ đô Hà Nội
đã có xấp xỉ 2 triệu xe máy, 150.000 xe ô-tô các
loại thường xuyên hoạt động. Những chiếc xe máy,
hiện chiếm hơn 87% tổng lưu lượng xe hoạt động trong
nội thành, là đối tượng chính gây gia tăng ô nhiễm
không khí cho thành phố thời gian gần đây. Các loại
khí độc hại có trong khí thải xe máy thường thấy là
CO, NOx, SOx và HC (Hy-đrô các-bon thơm - một loại
chất gây ung thư).
Khảo sát của Sở Tài nguyên, Môi trường và Nhà đất Hà
Nội cũng cho thấy, 70% số xe máy đang lưu hành trên
đường phố Hà Nội không đạt tiêu chuẩn cho phép về
khí thải, làm gia tăng tình trạng ô nhiễm không khí
tại thành phố. Số xe máy nói trên chủ yếu là xe cũ,
đã chạy từ 1,5 vạn km trở lên và chủ xe không bảo
dưỡng định kỳ. Số lượng ô-tô cũ với chất lượng kỹ
thuật lạc hậu vẫn đang sử dụng nhiều.
Trong số 1.000 xe buýt của Thủ đô chỉ có khoảng 10%
tuân thủ đầy đủ tiêu chuẩn EURO2 (tiêu chuẩn châu Âu
về lượng khí thải), bao gồm cả cách lái xe, bảo
dưỡng sao cho giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Vào giờ
cao điểm, nồng độ bụi mịn trong không khí đều vượt
tiêu chuẩn cho phép từ 1,3 - 2,3 lần; nồng độ bụi
trong các ngày mưa giảm tới 45 - 50%. Tình trạng ô
nhiễm chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe
người dân Hà Nội, đặc biệt với những người tiếp xúc
thường xuyên hoặc cư trú tại khu vực ô nhiễm. Một số
nghiên cứu về tỷ lệ bệnh tật, nhất là các loại bệnh
về hô hấp trong vài năm gần đây cũng đã xác nhận
điều này.
Trong khi tiêu chuẩn quy hoạch trên thế giới thì
đường phải chiếm 30 - 50% diện tích chung của đô
thị. Tuy nhiên, ở Việt Nam con số này mới chiếm
khoảng 3,5 - 4%.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trong các giờ cao điểm
tại Hà Nội, hệ số sử dụng lòng đường đã vượt quá mức
cho phép 3 - 4 lần. Khi xảy ra tắc nghẽn, luồng xe
thường chỉ đạt vận tốc dưới 5 km/h, thậm chí bằng 0
trong nhiều giờ liên tục. Trong tình trạng này, xe
máy và ô-tô con sẽ thải ra một lượng khí CO nhiều
gấp 5 lần; xe buýt, xe tải nhiều gấp 3,6 lần so với
khi chạy ở tốc độ 30 km/h.
Theo tính toán của Viện Y tế lao động, do ô nhiễm
không khí, Hà Nội bị tổn thất mỗi ngày một tỷ đồng.
Mức thiệt hại về kinh tế do khí thải xe máy được các
nhà nghiên cứu đưa ra là hơn 50 triệu USD/ năm tại
TP Hồ Chí Minh và hơn 20 triệu USD/năm tại Hà Nội.
Đáng ngại là mức thiệt hại ngày càng tăng, chiếm từ
0,3 - 0,6% GDP của thành phố, nguyên nhân chính là
do lượng phát thải từ mô-tô, xe máy hiện đang bị thả
nổi, không kiểm soát được. Lượng xe máy không ngừng
tăng, năm 2006 đã lên tới con số 18 triệu xe.
Các quốc gia như Ấn Độ, Thái-lan... là những nước có
nhiều xe mô-tô, xe gắn máy đều thực hiện việc kiểm
soát phát thải xe máy. Mặc dù mỗi quốc gia có những
biện pháp khác nhau, nhưng theo Hội đồng quốc tế về
giao thông sạch (ICCT) thì các nước đều có những
hình thức chung sau. Thứ nhất, kiểm soát công nghệ
sản xuất mô-tô, xe máy, áp dụng tiêu chuẩn khí thải
Euro 2-4. Thứ hai, sử dụng nhiên liệu sạch, có động
thái kiên quyết tách các chất độc hại như chì, lưu
huỳnh... ra khỏi xăng. Thứ ba, phải quy hoạch giao
thông hợp lý, giảm thiểu tắc nghẽn giao thông, vì
khi các phương tiện bị tắc nghẽn, nồng độ khí thải
độc hại sẽ tăng đột biến. Thứ tư, có chế độ bảo
dưỡng thích hợp với xe máy. Thứ năm, có lộ trình
loại bỏ xe máy cũ.
Tuy nhiên, khó khăn khi thực hiện kiểm soát khí thải
xe máy tại Việt Nam còn do lượng xe quá lớn, đòi hỏi
một lực lượng thiết bị và nhân lực không nhỏ và cùng
đó là thói quen sử dụng xe máy tự do của người dân,
tất cả đang khiến các nhà quản lý phải nghiên cứu,
cân nhắc kỹ.
Theo các nhà môi trường, phát triển giao thông công
cộng và hạn chế sử dụng các phương tiện cá nhân với
mục đích giảm thiểu lượng xe cơ giới lưu thông trên
đường là giải pháp cơ bản giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ
môi trường.
Để giảm thiểu ô nhiễm không khí, thành phố cần sớm
thực hiện giải pháp cấp bách là tổ chức lại hệ thống
giao thông theo hướng thân thiện với môi trường, mở
rộng và xây dựng mới các đường giao thông đô thị để
giảm áp lực xe cộ và các tuyến đường vành đai nhằm
giảm lưu lượng xe vận chuyển liên tỉnh và quốc gia
đi ngang qua khu vực nội thành.
Bên cạnh đó, trong khu vực nội thành nên có một số
đường hoặc khu dành riêng cho xe đạp và người đi bộ
để giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn, đặc biệt là
những nơi có nhiều trường học, bệnh viện, nơi nghỉ
ngơi, giải trí của người già và trẻ em cũng như vùng
danh lam thắng cảnh.
Theo Nhân dân, 19/03/2008
http://www.thiennhien.net/print.php?a=4896
23- Ô Nhiễm Không Khí ở TPHCM – Kẻ Giết Người Thầm Lặng
Người dân Thành Phố Hồ Chí Minh(TPHCM) luôn tự hào
là nơi đầu tàu kinh tế, văn hoá, giáo dục… của cả
nước nhưng hiên nay thành phố này đang phải đối diện
gay gắt với vấn đề ô nhiễm môi trường, trong đó
nhiều khu vực người dân thành phố đang phải sống
chung và chết mòn với ô nhiễm không khí mà các thủ
phạm không ai khác là bụi, tiếng ồn, các chất độc
thải ra từ xăng dầu…
Hiện Trạng Ô Nhiễm Không Khí ở TP.HCM
Trong hội thảo môi trường mới đây về môi trường
TPHCM, các nhà khoa học khẳng định: 90% các loại khi
gây ô nhiễm không khí thành phố hiện nay là do
phương tiện giao thông gây ra, nhất là xe gắn máy.
Còn theo thống kê của sở giao thông công chính: Hiện
thành phố có 320.000 xe ô tô các loại, hơn 3,2 triệu
xe gắn máy mỗi ngày đốt hàng triệu lít xăng, dầu các
loại trên đường phố, tương ứng với những con số này
là một khối lượng khổng lồ các chất thải độc hại chủ
yếu là CO2.
Lượng xe đông đúc tại cầu Sài Gòn(Ảnh:
vietnamnet.vn)
Theo một báo cáo kết quả năm 2007 của Chi cục Bảo vệ
môi trường TPHCM, ô nhiễm bụi và tiếng ồn tại nhiều
khu vực trên địa bàn thành phố đang ở mức cao đến
đáng lo ngại: Khoảng 50% các trạm quan trắc bán tự
động cho chỉ số ô nhiễm không khí vượt tiêu chuẩn
cho phép, 50% trạm còn lại đang ở mức chạm ngưỡng
hoặc gần vượt ngưỡng cho phép.
Ô nhiễm bụi ngày càng tăng cao, đặc biệt là khu vực
phía Đông và Tây Bắc thành phố ở các khu vực Hàng
Xanh, ngã tư Đinh Tiên Hoàng – Điện Biên Phủ và Ngã
tư An Sương. Cả ba khu vực này đều có mức ô nhiễm
không khí trung bình vượt chuẩn 1,3 – 1,8 lần. Còn
nhìn chung TP.HCM đang nằm trong số các đô thị bị ô
nhiễm nặng nề nhất hiện nay trong cả nước, với mức
độ cao trên 2,5 lần tiêu chuẩn cho phép.
Do lưu lượng giao thông trong thành phố tăng cao
trong thời gian qua, nên nồng độ benzene trong không
khí cũng "leo thang", đặc biệt có thời điểm nồng độ
benzene vượt hơn 10 lần. Có tới gần 67% các chỉ số
quan trắc nồng độ benzene vượt xa tiêu chuẩn cho
phép.
Riêng khu vực quận 9 và Thủ Đức, dọc theo xa lộ Hà
Nội, đặc biệt đoạn từ Cầu Rạch Chiếc đến Ngã tư Bình
Thái, nồng độ bụi trung bình trong không khí vượt
tiêu chuẩn cho phép 1,3 – 7,1 lần, chủ yếu là do mật
độ giao thông cao vì khu vực này tập trung nhiều nhà
máy như Nhà máy Xi măng Hà Tiên, Nhà máy điện Thủ
Đức, Nhà máy Thép Thủ Đức, Công ty liên doanh
Posvina, Công ty Hóa phẩm P/S...
Các trung tâm thành phố cũng không ngoại lệ, điểm
"nóng" nhất là đoạn đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Hầu hết
mức ô nhiễm bụi ở các lần đo trong ngày cho kết quả
vượt tiêu chuẩn cho phép 2,5 – 4,5 lần. Dân cư sinh
sống hai bên đường là những người trực tiếp chịu ảnh
hưởng do hít phải lượng bụi xuất phát từ hoạt động
xây dựng công trình và xe cộ.
Chỉ số chất lượng không khí (AQI) dành cho khu vực
ven đường hầu hết ở mức kém. Trong khi đó, chỉ số
AQI cho khu vực dân cư cũng ở mức trung bình. Điều
này cho thấy việc phát triển cơ sở hạ tầng trong năm
2007 như đào đường, xây cao ốc và nâng cấp các công
trình ngầm cũng góp phần làm ô nhiễm không khí.
Cuối cùng do khói bụi luôn ở mức cao cùng với việc
betông hoá mặt bằng nên nhiệt độ tại thành phố luôn
ở mức cao nhất trong khu vực, cao hơn từ 1-30C so
với các vùng lân cận.
Sống Chung Với Nguy Hiểm
Mỗi ngày bà Nguyễn Thị Xuân, 54 tuổi, ở 71, đường
Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận Đông, quận 7 đều
tưới nước ra đường từ 15- 20 lần để hạn chế bụi từ
các phương tiện giao thông hắt vào nhà nhưng mọi
chuyện vẫn không khá lên, nhà bà bụi vẫn tràn vào
dày đặc.
Theo bà Xuân, hầu hết các hộ dân sống 2 bên đường
nơi đây đều có nỗi khổ giống gia đình bà. Người thì
tưới nước chống bụi, nhà thì che chắn màn bạt.
Trong khi đó, ông Trần Hữu Hinh, ở đường Tây Thạnh
cạnh khu công nghiệp Tân Bình -TPHCM, cho biết:
"Hàng chục năm nay chúng tôi phải sống chung với
nhiều chất độc hại, luôn hứng chịu mùi hôi của nước
thải, mùi hóa chất".
Người đi đường tự "phòng vệ" bằng khẩu trang(Ảnh:
www.nld.com.vn)
Ông Nguyễn Đình Tuấn, Trưởng Chi cục Bảo vệ môi
trường TPHCM cho biết việc bùng nổ các công trình
xây dựng, sự gia tăng nhanh chóng số lượng phương
tiện giao thông cá nhân và chất lượng xăng không đảm
bảo là nguyên nhân khiến gây ô nhiễm nặng nề nguồn
không khí trên địa bàn TP, điều này đã kéo theo số
lượng bệnh nhân mắc các chứng bệnh về đường hô hấp
như viêm phổi, viêm tiểu phế quản… tăng nhanh trong
thời gian qua.
Một nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm không khí ảnh
hưởng đến bệnh tật của Viện Vệ sinh Y tế công cộng
TPHCM, cho thấy, chỉ riêng về ô nhiễm công nghiệp từ
các khu chế xuất, công nghiệp đã gây ra 25 bệnh tật
như: nhiễm độc các-bon, nhiễm độc benzen, nhiễm độc
nicotin, viêm da, viêm gan do virus, bệnh rung
chuyển tần số cao, bệnh điếc nghề nghiệp...
Trong khi đó, theo bác sĩ Trần Anh Tuấn – Trưởng
khoa Hô hấp Bệnh viện Nhi đồng 1 thì tại khoa này
lượng bệnh nhi mắc các bệnh về viêm phổi, viêm tai
giữa, suyễn có liên quan đến ô nhiễm không khí cũng
ngày một gia tăng.
Thống kê của khoa này trong năm 2007 cho thấy, trên
50% trẻ em sống ở các quận có mức độ ô nhiễm cao như
Tân Bình, Bình Chánh, quận 8, 9 và 11 bị bệnh đường
hô hấp đến khám và điều trị tại khoa này, trong số
đó, 15% trên tổng số bệnh nhi là ở quận Tân Bình.
Cũng theo các bác sĩ Tuấn, phụ nữ đang mang thai
tiếp xúc trong khoảng thời gian dài với không khí ô
nhiễm sẽ làm ảnh hưởng đến thai nhi, quá trình lão
hoá trong cơ thể sống. Ngay với người bình thường,
tiếp xúc với ô nhiễm sẽ làm suy giảm chức năng của
phổi; gây bệnh hen suyễn, viêm phế quản; gây bệnh
ung thư, bệnh tim mạch và làm giảm tuổi thọ.
Đây là vấn đề vô cùng bức xúc nó ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khoẻ , tính mạng của người dân, sự phát
triển kinh tế như vậy thì không thể nói là ổn và bền
vững. Việc giải quyết thì cũng vô cùng nan giải, đơn
cử như việc hạn chế xe máy là điều vô cùng khó… vì
vậy để giải quyết vấn đề này, cần một chiến lược
dài, một sự phối hợp của tất cả các ban nghành và
người dân… điều này không chỉ riêng cho một vấn đề ô
nhiễm không khí mà cả các vấn đề ô nhiễm môi trường
từ các nguyên nhân khác.
ĐỨC VIỆT(Tổng hợp)
Cập nhật: 27/06/2008
http://thv.vn/news/Detail/?gID=6&tID=18&cID=4820
24- ĐBCSL: Các khu công nghiệp đang “sát hại” môi trường
Tại hội thảo “Bảo vệ môi trường trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa tại ĐBSCL” vừa diễn ra, một
loạt những con số thống kê đã khiến không ít người
giật mình: Môi trường đang bị “sát hại” mà nguyên
nhân chính là từ những cơn khát đầu tư.
Ống cống nước thải của một DN tại KCN Trà Nóc (Cần
Thơ) bắc ra sông Hậu.
Môi trường đang giẫy chết
Theo sở TN-MT Cần Thơ, hiện có 3 KCN đang hoạt động
là Trà Nóc 1, Trà Nóc 2 và Thốt Nốt thì chưa có nơi
nào xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Theo quy trình, nước thải sau khi được DN xử lý bước
1, tập trung lại tại KCN xử lý lần 2 rồi mới được
thải ra sông Hậu. Tuy nhiên, thực tế tại các KCN
này, DN bắc các ống cống trực tiếp thải ra sông,
việc này diễn ra hàng chục năm nay.
15% DN tại các KCN thải nước bẩn trực tiếp ra sông,
còn lại 85% có xây dựng hệ thống xử lý nước thải
bước 1, tuy nhiên việc các hệ thống này có được vận
hanh thường xuyên hay không thì không chắc chắn.
Thực tế tại cơ sở, hầu hết các miệng cống từ các
doanh nghiệp tại các KCN này thường xuyên thải ra
thứ nước đen ngòm, đặc quánh. Trên địa bàn Cần Thơ
ngoài hàng trăm DN đang ngày đêm bức tử sông Hậu còn
có 500 ao, bè cá, trên dưới 5.000 cơ sở tiểu thủ
công nghiệp, bệnh viện, cơ sở y tế… đều chưa có hệ
thống xử lý nước thải chung. Tổng cộng, mỗi ngày
bình quân dòng sông này phải “uống” hàng triệu m3
nước thải ô nhiễm.
Theo thống kê sơ bộ, tại TP Cần Thơ, nước ở sông Hậu
đã bị ô nhiễm cấp độ 2, rạch Sang Trắng (Phước Thới,
Ô Môn) ô nhiễm cấp độ 7, rạch Bò Ót (Thới Thuận,
Thốt Nốt) ô nhiễm cấp độ 4.
Tại xã Long Hòa, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, nồng
độ NH3 vào mùa khô cao gấp 40 lần so với tiêu chuẩn
môi trường cho phép. Tại Long An, với các KCN, CCN
hiện có, mỗi ngày dự tính thải ra môi trường khoảng
363 tấn rác công nghiệp và 151.000m3 nước thải công
nghiệp...
Còn theo số liệu của các nhà khoa học, tại ĐBSCL,
tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt thải ra mỗi năm
là 606.267 tấn, nước thải sinh hoạt 102 triệu
m3/năm, nước thải công nghiệp 47,2 triệu m3/năm,
chất thải rắn công nghiệp 222.032 tấn/năm, rác thải
y tế 3.800 tấn/năm...
Các khu công nghiệp tại ĐBSCL đều được chọn vị trí
đặt tại ven sông rạch và chưa có khu công nghiệp nào
xây dựng hệ thống xử lý nước thải. Từ trước đến nay,
các loại chất thải đủ loại đều tuôn ra sông rạch một
cách… thường trực khiến môi trường sống ô nhiễm trầm
trọng.
Hệ lụy của “cơn khát” đầu tư
Ông Trần Tuấn Anh, Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ,
nhìn nhận: “Phát triển các KCN ở ĐBSCL đang có chiều
hướng tự phát, manh mún, cơ sở hạ tầng không đồng
bộ. Chúng ta quá dễ trong việc cấp phép và đó là một
nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường”.
Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, riêng nuôi tôm làm cho
diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp, lượng ao, đầm
được đào đắp, nạo vét phá vỡ kết cấu tự nhiên, động
đến tầng đất phèn, cùng hàng loạt chất độc hại như
kim loại nặng, các loại kháng sinh, ô nhiễm gây mùi
khó chịu được nạo vét đưa lên từ đáy ao nuôi, làm
cho không một loại cây trồng nào có thể sinh trưởng
và phát triển được.
Phong trào nuôi cá tra tự phát ở nhiều địa phương
ĐBSCL gần đây đã làm cho nhiều nơi từ chuyên trồng
lúa, nhiều khu vực cồn trở thành ao đầm nuôi cá, phá
vỡ hệ sinh thái tự nhiên, lãng phí tài nguyên đất
đai...
Tại hội thảo, nhiều nhà nghiên cứu, khoa học và quản
lý môi trường đều phát đi lời cảnh báo ô nhiễm không
chỉ hủy hoại môi trường mà hiện đang làm nảy sinh
nhiều loại bệnh tật hiểm nghèo, làm dị tật và biến
dạng bào thai của không ít bà mẹ trẻ.
Kỹ sư Phan Phùng Sanh, Phó Chủ tịch Hội Xây dựng
TPHCM, bức xúc: “Chúng ta không thể thỏa hiệp, đừng
vì lợi ích trước mắt mà đánh đổi môi trường. Các địa
phương phải thẩm định chặt chẽ các dự án đầu tư,
cương quyết từ chối các dự án sử dụng công nghệ lạc
hậu, dự án gây ô nhiễm”.
Trước mắt, để giải quyết các vấn đề ô nhiễm vùng
ĐBSCL, ông Trần Tuấn Anh, Phó Chủ tịch UBND TP Cần
Thơ, cho biết: “Các bộ, ngành Trung ương phải kịp
thời quy hoạch bảo vệ môi trường ĐBSCL và lồng ghép
cùng lúc với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội,
quy hoạch phát triển các KCN, quy hoạch vùng thủy
sản ven sông Hậu, sông Tiền. Đồng thời, các địa
phương trong khu vực cần phải có sự phối hợp chặt
chẽ trong việc bảo vê môi trường tại các lưu vực
sông lớn chảy qua”.
Cứu lấy môi trường ĐBSCL là thông điệp mà hội thảo
nói trên đưa ra. Tuy nhiên, một lần nữa, những giải
pháp cụ thể, khoa học và có tính thiết thực lại chưa
xuất hiện. Môi trường tại ĐBSCL tiếp tục… giẫy chết.
Nhật Trường
dantri.com.vn
Cập nhật: 16/10/2008
http://thv.vn/news/Detail/?gID=6&tID=18&cID=9288
25- Môi trường nông thôn: Thảm họa đã đến...
Nước ta là một nước nông nghiệp, 74% dân số đang
sống ở khu vực nông thôn và miền núi với khoảng 20%
số hộ ở mức nghèo đói. Những năm gần đây, các hoạt
động nông nghiệp cùng với những hoạt động dịch vụ,
sinh hoạt đã làm xuất hiện nhiều vấn đề môi trường
có tính chất đan xen lẫn nhau và ở nhiều nơi, nhiều
chỗ đã và đang trở thành, bức xúc.
Những vấn đề này gây tác động mạnh mẽ và lâu dài đến
các hệ sinh thái nông nghiệp và nông thôn. Nó hạn
chế tính năng sản xuất của các thành phần môi
trường, giảm năng suất cây trồng, vật nuôi, cản trở
sự phát triển bền vững. Càng ngày, những vấn đề ô
nhiễm môi trường càng trở nên phổ biến rộng rãi, len
lỏi trong mọi hoạt động sản xuất và sinh hoạt thường
nhật của người dân nông thôn. Và quan trọng nhất,
hiện trạng trên tác động xấu đến sức khoẻ cộng đồng
nông thôn và hậu quả là lâu dài, không những đối với
thế hệ hiện tại mà cả thế hệ mai sau.
1. Kinh hoàng ô nhiễm môi trường nông thôn Việt Nam
Vấn đề đầu tiên phải kể đến về hiện tượng môi trường
sống của người dân ở các vùng nông thôn Việt Nam
đang bị tàn phá nghiêm trọng là nước sạch và vệ sinh
môi trường (VSMT) nông thôn.
Nếu như chúng ta quan niệm nước sạch chỉ đơn giản là
nước mưa, nước giếng khoan qua xử lý bằng bể lọc đơn
giản chứ không phải nước sạch như đã được xử lý ở
các thành phố lớn thì tỷ lệ người dân nông thôn,
nhất là khu vực miền núi còn rất thấp. Chúng ta có
thể thấy rõ điều này thông qua bảng số liệu sau:
Bảng tỷ lệ người dân nông thôn được cấp nước sạch ở
các vùng
TT |
Vùng |
Tỷ lệ người dân nông thôn được cấp nước sạch (%) |
1 |
Vùng núi phía Bắc |
15 |
2 |
Trung du Bắc Bộ & Tây Nguyên |
18 |
3 |
Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung |
35-36 |
4 |
Đông Nam Bộ |
21 |
5 |
Đồng bằng Sông Hồng |
33 |
6 |
Đồng bằng Sông Cửu Long |
39 |
Qua bảng trên, chúng ta có thể thấy rõ, những người
dân ở nông thôn Việt Nam đang phải sinh hoạt với
những nguồn nước như thế nào. Ở vùng Đồng bằng sông
Cửu Long, nơi có tỷ lệ cao nhất cũng chỉ 39% dân số
được sử dụng nguồn nước (tạm coi là) sạch. Còn vùng
thấp nhất là vùng núi phía Bắc, chỉ có 15% dân số
được cấp nước sạch.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tác động trực
tiếp đến sức khoẻ, là nguyên nhân gây các bệnh như
tiêu chảy, tả, thương hàn, giun sán...Các bệnh này
gây suy dinh dưỡng, thiếu máu, thiếu sắt, kém phát
triển gây tử vong nhất là ở trẻ em. Có đến 88%
trường hợp bệnh tiêu chảy là do thiếu nước sạch,
VSMT kém . Có thể thấy, nguyên nhân gây ra tình
trạng ô nhiễm môi trường và nguồn nước ở nông thôn
do các nguyên nhân cơ bản sau
Đầu tiên phải kể đến tình trạng sử dụng hóa chất
trong nông nghiệp như phân bón hóa học, thuốc bảo vệ
thực vật một cách tràn lan và không có kiểm soát.
Nhìn chung, lượng phân bón hoá học ở nước ta sử dụng
còn ở mức trung bình cho 1 ha gieo trồng, bình quân
80 - 90 kg/ha (cho lúa là 150 - 180kg/ha), so với Hà
Lan 758 kg/ha, Nhật 430kg/ha, Hàn Quốc - 467kg/ha,
Trung Quốc - 390 kg/ha. Tuy nhiên việc sử dụng này
lại gây sức ép đến MT nông nghiệp và nông thôn với 3
lý do: Sử dụng không đúng kỹ thuật nên hiệu lực phân
bón thấp; Bón phân không cân đối, nặng về sử dụng
phân đạm; Chất lượng phân bón không đảm bảo, các
loại phân bón N - P - K, hữu cơ vi sinh, hữu cơ
khoáng do các cơ sở nhỏ lẻ sản xuất trôi nổi trên
thị trường không đảm bảo chất lượng đăng ký, nhãn
mác bao bì nhái, đóng gói không đúng khối lượng đang
là những áp lực chính cho nông dân và môi trường
đất.
Ngoài ra, ở miền Bắc Việt Nam còn tồn tại tập quán
sử dụng phân bắc, phân chuồng tươi vào canh tác. Ở
ĐBSCL, phân tươi được coi là nguồn thức ăn cho cá,
gây ô nhiễm môi trường đất, nước và ảnh hưởng đến
sức khoẻ con người.
Thuốc bảo vệ thực vạt (BVTV) gồm: Thuốc trừ sâu;
thuốc trừ nấm; thuốc trừ chuột; thuốc trừ bệnh;
thuốc trừ cỏ. Các loại này có đặc điểm là rất độc
đối với mọi sinh vật; Tồn dư lâu dài trong môi
trường đất - nước gây ra ô nhiễm; Tác dụng gây độc
không phân biệt, nghĩa là gây chết tất cả những sinh
vật có hại và có lợi trong môi trường đất, nước.
Hiện nay, nước ta chưa sản xuất được nguyên liệu
thuốc BVTV mà phải nhập khẩu để gia công hoặc nhập
khẩu thuốc thành phẩm bao gói lớn để sang chai đóng
gói nhỏ tại các nhà máy trong nước.
Đặc biệt ở rau xanh, sâu bệnh có thể làm tổn thất
trung bình từ 10 - 40% sản lượng nên đầu tư cho
thuốc BVTV sẽ mang lại lợi nhuận trên 5 lần. Chính
vì vậy, lượng thuốc BVTV sử dụng cho rau thường quá
mức cho phép. Điều này dẫn đến ô nhiễm đất, nước. Từ
môi trường đất, nước và nông sản, thuốc BVTV sẽ xâm
nhập vào cơ thể con người và tích tụ lâu dài gây các
bệnh như ung thư, tổn thương về di truyền. Trẻ em
nhạy cảm với thuốc BVTV cao hơn người lớn gấp 10
lần. Đặc biệt thuốc BVTV làm cho trẻ thiếu ôxi trong
máu, suy dinh dưỡng, giảm chỉ số thông minh, chậm
biết đọc, biết viết.
Điều đáng quan tâm là tình hình ngộ độc thực phẩm do
các hoá chất độc, trong đó có thuốc BVTV vẫn diễn ra
phức tạp và có chiều hướng gia tăng không chỉ riêng
ở nông thôn mà còn cả ở các thành phố lớn có sử dụng
nông sản có nguồn gốc từ nông thôn.
Nguyên nhân tình trạng trên là do việc quản lý thuốc
BVTV còn nhiều bất cập và gặp nhiều khó khăn. Hàng
năm khoảng 10% khối lượng thuốc được nhập lậu theo
đường tiểu ngạch. Số này rất đa dạng về chủng loại,
chất lượng không đảm bảo và vẫn lưu hành trên thị
trường. Thứ hai là việc sử dụng còn tuỳ tiện, không
tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật theo nhãn mác, không
đảm bảo thời gian cách ly của từng loại thuốc. Thứ
ba là do một lượng lớn thuốc BVTV tồn đọng tại các
kho thuốc cũ, hết niên hạn sử dụng còn nằm rải rác
tại các tỉnh thành trên cả nước. Theo Trung tâm Công
nghệ xử lý môi trường, Bộ Tư lệnh Hoá học (2004),
trong khoảng hơn 300 tấn thuốc BVTV tồn đọng có
nhiều chất nằm trong số 12 chất ô nhiễm hữu cơ khó
phân huỷ. Và cuối cùng là việc bảo quản thuốc BVTV
còn rất tuỳ tiện, không có nơi bảo quản riêng, nhiều
hộ để thuốc BVTV trong nhà, trong bếp và trong
chuồng nuôi gia súc.
Nguyên nhân thứ hai gây ra ô nhiễm môi trường ở nông
thôn là do chất thải rắn từ các làng nghề và sinh
hoạt của người dân. Hiện cả nước có khoảng 1.450
làng nghề, phân bố ở 58 tỉnh thành và đông đúc nhất
là khu vực đồng bằng sông Hồng, vốn là cái nôi của
làng nghề truyền thống, với tổng số 472 làng nghề
các loại, tập trung chủ yếu ở các tỉnh như Hà Tây,
Thái Bình và Bắc Ninh,... Trong đó các làng nghề có
quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, thiết bị cũ và
công nghệ lạc hậu chiếm phần lớn (trên 70%). Do đó,
đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề môi trường nông
thôn, tác động xấu tới chất lượng môi trường đất,
nước, không khí và sức khoẻ của dân làng nghề. Kết
quả phân tích chất lượng nước thải một số làng nghề
dệt nhuộm tại Thái Bình cho thấy, đa số các chỉ tiêu
phân tích đều vượt tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt
BOD5, COD đều vượt tiêu chuẩn từ 2 - 5 lần.
Ô nhiễm không khí: Hầu hết nhiên liệu sử dụng trong
các làng nghề là than. Do đó, lượng bụi và các khí
CO; CO2; SO2 và NOx thải ra trong quá trình sản xuất
trong nhiều làng nghề khá cao. Theo kết quả điều tra
tại các làng nghề sản xuất gạch đỏ (Khai Thái - Hà
Tây); vôi (Xuân Quan - Hưng Yên) hàng năm sử dụng
khoảng 6.000 tấn than, 100 tấn củi nhóm lò; 250 tấn
bùn; 10m3 đá sinh ra nhiều loại bụi, SO2; CO2, CO;
NOx, và nhiều loại chất thải nguy hại khác, gây ảnh
hưởng tới sức khoẻ người dân trong khu vực và làm
ảnh hưởng tới hoa màu, sản lượng cây trồng của nhiều
vùng lân cận. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân gây ra các vụ xung đột, khiếu kiện như ở Thái
Bình, Bắc Ninh và Hưng Yên…
Ô nhiễm môi trường đất chủ yếu tập trung ở các làng
nghề tái chế kim loại. Kết quả nghiên cứu của Đề tài
KC.08.06 cho thấy, một số mẫu đất ở làng nghề tái
chế chì thuộc xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, Hưng Yên
cho thấy, hàm lượng Cu2+ đạt từ 43,68 - 69,68 ppm;
hàm lượng Pb2+ từ 147,06 - 661,2 ppm . Hàm lượng các
kim loại nặng trong nước cũng rất cao, vượt nhiều
lần so với tiêu chuẩn cho phép.
Bên cạnh đó có khoảng 3.600 chợ nông thôn, trung
bình mỗi người mỗi ngày thải ra 0,4 - 0,5 kg chất
thải. Việc thu gom rác còn rất thô sơ bằng các xe
cải tiến nên mới thu gom được khoảng 30% chuyên chở
về những nơi tập trung rác. Bãi rác tại các huyện,
các chợ nông thôn chưa có cơ quan quản lý và biện
pháp xử lý. Chủ yếu là tập trung để phân huỷ tự
nhiên và gây nên những gánh nặng cho công tác bảo vệ
môi trường.
Bảng biểu tình hình phát sinh chất thải rắn:
Các loại chất thải rắn |
Toàn quốc |
Đô thị |
Nông thôn |
Tổng lượng phát sinh chất thải sinh hoạt (tấn/năm) |
12.800.000 |
6.400.000 |
6.400.00 |
Chất thải nguy hại từ công nghiệp (tấn/năm) |
128.400 |
125.000 |
2.400 |
Chất thải không nguy hại từ công nghiệp (tấn/năm) |
2.510.000 |
1.740.000 |
770.000 |
Chất thải Y tế lây nhiễm (tấn/năm) |
21.000 |
- |
- |
Tỷ lệ thu gom trung bình (%) |
- |
71 |
20 |
Tỷ lệ phát sinh chất thải đô thị trung bình theo đầu người
(kg/người/ngày) |
- |
0,8 |
0,3 |
Các loại chất thải rắn |
Toàn quốc |
Đô thị |
Nông thôn |
Tổng lượng phát sinh chất
thải sinh hoạt (tấn/năm) |
12.800.000 |
6.400.000 |
6.400 |
Chất thải nguy hại từ công
nghiệp (tấn/năm) |
128.400 |
125.000 |
2.400 |
Chất thải không nguy hại từ
công nghiệp (tấn/năm) |
2.510.000 |
1.740.000 |
770.000 |
Chất thải Y tế lây nhiễm
(tấn/năm) |
21.000 |
- |
- |
Tỷ lệ thu gom trung bình (%)
|
- |
71 |
20 |
Tỷ lệ phát sinh chất thải đô
thị trung bình theo đầu người
(kg/người/ngày) |
- |
0,8 |
0,3 |
(Theo báo cáo Diễn biến môi trường Việt Nam 2004 -
Chất thải rắn)
Thời gian gần đây, vùng nông thôn Việt Nam còn chịu
ảnh hưởng nặng nề từ ngồn rác, nước và khí thải xả
ra từ các khu công nghiệp trên cả nước. Chính nguồn
rác, nước và khí thải này cũng đang phá hủy nghiêm
trọng sự trong lành của môi trường nông thôn Việt
Nam.
2. Cứu môi trường nông thôn: Bất lực?
Chúng ta đang phải chứng kiến sức tàn phá ghê gớm
của ô nhiễm môi trường tới không chỉ cảnh quan nông
thôn Việt Nam mà còn đối với sức khỏe của chính
những người dân. Hãy nhìn những làng quê đang bóc đi
cái vẻ hồn hậu, chất phác vốn có để khoác lên mình
tấm áo kệch cỡm của một tên trọc phú. Và bên trong
cái vẻ béo tốt giả tạo ấy chính là sự kiệt quệ của
những vùng quê đang bị bóc lột, bòn rút đến những
giọt máu cuối cùng. Hậu quả của nó thì đã nhỡn tiền:
Ô nhiễm đổ lên những cánh đồng, những dòng sông quê
còn bệnh tật đang đổ lên đầu những người dân nông
thôn. Còn họ, những người nông dân thì chỉ biết đứng
nhìn.
Tài nguyên đất ở các vùng nông thôn vẫn đang tiếp
tục bị suy thoái trầm trọng, làm biến đổi các tính
chất đất và không còn tính năng sản xuất. Các loại
hình thoái hoá đất chủ đạo ở nước ta là: Xói mòn,
rửa trôi, sạt và trượt lở đất; suy thoái vật lý (mất
cấu trúc, đất bị chặt, bí, thấm nước kém); suy thoái
hoá học (mặn hoá, chua hoá, phèn hoá); mất chất dinh
dưỡng khoáng và chất hữu cơ; đất bị chua; xuất hiện
nhiều độc tố hại cây trồng như Fe3+, Al3+ và Mn2+;
hoang mạc hoá; ô nhiễm đất cục bộ do chất độc hóa
học, khu công nghiệp và làng nghề; suy thoái và ô
nhiễm đất ở khu khai thác mỏ.
Nguồn tài nguyên nước đang bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Hàng loạt những dòng sông quê kêu cứu vì mức độ ô
nhiễm đã gấp nhiều lần so với tiêu chuẩn cho phép.
Những nguồn nước ngầm cung cấp cho người dân nhiễm
sắt, nhiễm chì, nhiễm phèn, nhiễm thuốc bảo vệ thực
vật và vô vàn loại chất độc hóa học do các khu công
nghiệp, các làng nghề thải ra vào lòng đất. Ở những
dòng sông, những ao hồ ở các vùng quê, những loài
vật thủy sinh như tôm, cua, cá, ốc ếch và thậm chí
ngay một loài sống dai như đỉa thì đến bây giờ, chỉ
còn thấy lại trong kí ức của những già ở các vùng
thôn quê.
Trên khắp các vùng nông thôn mọc lên những làng ung
thư, làng bệnh tật. Những thứ bệnh “nan y” vốn dĩ
chỉ có những người lười vận động, phải chịu nhiều
chất độc hại mà thường chỉ ở các thành phố mới mắc
phải thì nay trút xuống vai những người nông dân
nhọc nhằn, nghèo khó. Không hiếm những người nông
dân phải bán cả gia sản để về thành phố chữa chạy và
cũng không ít những người khác phải ngậm ngùi chờ
chết vì không có tiền để chống lại những căn bệnh tử
thần.
Đã nhiều năm nay, báo chí nói nhiều đến việc ô nhiễm
môi trường ở nông thôn, những hiểm họa từ ô nhiễm
môi trường mà những người nông dân đang phải gánh
chịu nhưng thực tế, không ai làm gì để giải quyết
tình trạng đó. Chúng không giảm đi, mà càng ngày
càng tăng lên với mức độ nghiêm trọng hơn rất nhiều
lần.
Chúng ta hãy tự hỏi, chúng ta đang bất lực trước
những hiện trạng này hay chúng ta thờ ơ đứng nhìn
nó. Chúng ta phảỉ làm gì khi nghĩ về những người
nông dân, hơn 70% dân số của chúng ta đang phải đối
mặt?.
GS. TS. Lê Văn Khoa, PGS.TS. Hoàng Xuân Cơ (Trường
Đại học Khoa học Tự nhiên, Hà Nội)
vietnamnet
Cập nhật: 02/04/2008
http://thv.vn/news/Detail/?gID=6&tID=18&cID=1455 |