Thảm họa sóng thần tại Nam Á 2004

             

 

 

thoitiet.net

 

Trong những ngày vừa qua, thế giới vẫn chưa hết bàng hoàng về thảm họa động đất và sóng thần gây ra tại một số nước châu Á. Tại sao lại có những cơn sóng thần mạnh như thế và nguyên nhân hình thành cũng như bản chất và nguyên lý hoạt động của nó như thế nào? Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn (Đại học San Jose State, Hoa Kỳ) về vấn đề này để bạn đọc tham khảo.

 

 

15 phút sau khi ghi nhận có một trận địa chấn mạnh 8.9 độ Richter xảy ra vào lúc 00h59 (giờ quốc tế UTC) tại phía bắc đảo Sumatra (Indonesia), các khoa học gia của cơ quan NOAA/PTWC (USA) (National Oceanic and Atmospheric/Pacific Tsunami Warning Center), đã đưa ra báo cáo rằng động đất trên có thể khơi mào việc phát triển và thành lập "sóng thần" Tsunami, và nhận định rằng do tâm động đất xảy ra trong vùng Ấn Độ Dương, vì thế không quan ngại đến khả năng sóng thần xảy ra trong vùng bờ Tây của lục địa Mỹ:

 (http://www.noaanews.noaa.gov/stories2004/s2357.htm). Do không được cấp báo nên hậu quả là cơn sóng thần Tsunami đã gây ra một thảm họa rất lớn cho một số nước châu Á.
Sự thiếu phối hợp giữa các cơ quan quốc tế, mặc dù Thái Lan và Indonesia là các thành viên trong Ủy Ban Điều phối Cảnh báo Tsunami vùng Thái Bình Dương (ITSU - International Coordination for the Tsunami Warning System in the Pacific) của Liên Hiệp Quốc, đã thất bại trong việc giảm thiểu một thiên tai đã cướp đi trên 55.000 sinh mạng (tính cho đến thời điểm 23h30 ngày 28/12) trên các quốc gia vùng ven Ấn Độ Dương. Chỉ mươi phút sau cơn địa chấn, vùng Sumatra bị ngập nước. Một giờ sau tới Thái Lan, Myanmar, Banglades. Hai giờ sau Srilanka, Maldive, Ấn Độ... và tám giờ sau là bờ đông châu Phi.
Tsunami (Tsu: Sóng; Nami: Cảng), nên cần phân biệt với sóng do hiện tượng thủy triều (Tidal Wave) là thuật ngữ phát sinh từ nước Nhật và được chấp nhận năm 1963, dùng để chỉ một thiên tai xảy ra vùng ven biển, nơi những đợt sóng to cao hàng chục thước thình lình đổ ập vào bờ vùi lấp và cuốn trôi tài sản và sinh mạng con người (Tsunami 1707, Tokaido, Nhật giết chết 30.000 người; cũng tại quốc gia này, Tsunami 1896 giết chết 26.300 người).
Các trượt sụt trên nền biển, hoạt động hỏa sơn ngầm bên dưới mặt biển, và hiếm hoi hơn sự va chạm các thiên thể vào mặt biển cũng gây ra Tsunami. Nhưng loại Tsunami phổ biến và gây tàn phá lớn lao nhất được ghi nhận khi có hoạt động địa chấn trên nền biển.
Báo cáo của cơ quan USGS (United States Geological Survey), bộ phận Earthquake Hazards Program đã ghi nhận ngày 26/12/2004, một trận động đất lớn có cường độ 8.9 xảy ra vùng phía bắc Sumatra, Indonesia. Động đất xảy ra do sự di chuyển lên theo hướng đông bắc với vận tốc 6cm/năm của khối Indo-Austrlian Plate và chìm sụp bên dưới khối Eurasia Plate (Burma-Sunda Plate) dọc theo trũng Sunda (Java Trench) theo kiểu mẩu kiến tạo hút chìm (Subduction Tectonic).
Khác với kiểu mẫu kiến tạo Strike/Slip (toạc sông Hồng, sông Mã), động đất do hai khối di chuyển cạnh bên nhau và gây ra những thay đổi địa diện trên bình diện ngang, động đất tại Sumatra này làm khối bên trên (Burma-Sunda) bị dâng lên một cách bất chợt dọc theo các toạc đẩy (thrust fault), mà nguyên do bởi khối Indo-Australian Plate chúi xuống, bị chèn ép và đẩy các phần bên trên lên. Báo cáo (đăng tại địa chỉ: http://neic.usgs.gov.neis/bulletin/neic_slav_ts.html) cho thấy khoảng 1.200km đường toạc bị tách ra, và nền biển đã nâng lên khoảng vài thước. Sự nâng lên bất chợt này đồng nghĩa với sự đẩy mạnh lên và thình lình, hàng tỷ thước khối nước trong lòng biển và như thế Tsunami Sumatra thành lập lan truyền với vận tốc hàng 800 km/giờ, tàn phá các quốc gia trong vùng Ấn Độ Dương và đến cả châu Phi.
Việt Nam may mắn thoát được sự tàn phá của Tsunami lần này. Nếu có thể thấy trên hình, biển Đông hầu như ngăn cách với Ấn Độ Dương bởi các quốc gia láng giềng Thái Lan, Malaysia, Indonesia nên các Tsunami phát sinh ở phần phía nam các quốc gia này hoàn toàn không có cơ hội xâm nhập biển Đông để gây tàn phá.
Trên khối Indochina hay nói riêng Việt Nam, chỉ có hệ thống toạc Red River Fault System còn có cơ hội hoạt động, và chỉ hoạt động một cách tương đối từ 5 triệu năm trở lại, sau khi các hệ thống chuyển lực chính di chuyển lên phía bắc, sâu trong nội địa Trung Quốc (Altyn Tagh System, Tappoinnier 1983). Hơn nữa hệ thống toạc sông Hồng hoạt động theo chế độ strike/slip (không nguy hiểm như thrust system) chỉ hoạt động phần lớn trên đất liền và gần như kết thúc khi tiến vào vịnh Bắc Bộ. Không phủ nhận là Tsunami có thể xảy ra nơi biển Đông, nhưng tác nhân có thể chỉ là hoạt động không gây ra nhiều nguy hiểm: đất chùi trên nền biển, hỏa sơn ngầm...; hệ thống toạc sông Hồng khó có thể gây ra Tsunami có sức tàn phá lớn lao trên biển Đông. Trong vùng này, hoạt động Tsunami đáng ngại nhất có thể tìm thấy là vùng phía đông Philippines, nơi chế độ kiến tạo hút chìm hiện diện, vỏ biển Philippines phía đông cắm vào bên dưới cung đảo Luzon-Philippines-Mindanao, động đất theo cơ chế thrust fault và các loại Tsunami nguy hiểm có thể thành lập. Tuy nhiên một lần nữa, tuy không được che chở dày đặc như miền phía nam, nếu Tsunami được thành lập từ phía đông của Philippines, sự hiện diện của một hệ thống đảo chi chít của quốc gia này cũng sẽ giúp giảm thiểu sức tàn phá của Tsunami nếu chúng phát triển về phía tây để vào biển Đông.

http://www.thoitiet.net/index1.asp?file=Info1.htm&fld=NEWS

         

Tìm hiểu về sóng thần (Tsunami) Á Châu
Wednesday, January 05, 2005    L.T
 

Không như nhiều người tưởng, tsunami không phải là những ngọn sóng ầm ầm cuồn cuộn tiến vào đất liền mà người ta có thể mục kích và nghe được âm thanh của nó từ xa ở ngoài khơi.

Ngay khi ngồi trên thuyền, người ta cũng không thể biết tsunami bắt đầu xuất hiện. Và quan sát từ máy bay, người ta cũng không hề thấy dấu hiệu báo trước một đợt tsunami. Đó là lý do cơn sóng thần đã giết trong tích tắc hàng chục ngàn người trong thảm họa đau lòng vừa xảy đến ít nhất 10 quốc gia Á Châu vào ngày 26-12-2004.

Tsunami là gì?

Theo trang web Trung Tâm Dịa Chấn Quốc Gia (Hoa Kỳ), thảm họa thiên tai kinh hoàng hôm 26 tháng 12 là hậu quả tiếp theo của một vụ động đất, trên bề mặt mảng địa chất bên dưới Ấn Độ và Miến Điện, làm vỡ một mảnh vỏ Trái Đất (rộng khoảng 992km) sau khi mảng Miến Điện bất ngờ trồi lên, cao hơn mảng Ấn Độ ít nhất 15m. Trận động đất lần này xảy ra cực mạnh với 9 độ Richter, lớn nhất trong bốn thập niên kể từ trận động đất Good Friday 9,2 độ Richter tấn công Alaska (Hoa Kỳ) vào năm 1964 và là trận lớn thứ tư kể từ năm 1900. Sức mạnh động đất lớn đến mức nó lan tận Somalia, cách tâm chấn 4.100 km.

Tâm địa chấn nằm ở độ sâu 10km, cách Tây Sumatra khoảng 160km, trong khu vực “vòng đai lửa” liên tục sinh ra động đất. Để có thể hình dung mức độ khốc liệt của trận động đất lần này, có thể so sánh năng lượng của trận động đất đã vượt quá tổng số năng lượng tiêu thụ của toàn nước Mỹ trong một tháng hoặc tương đương năng lượng sinh ra bởi bão dữ (chẳng hạn trận bão Isabel) trong liên tục 70 ngày (Science Daily 27-12-2004).

Thảm họa hầu như nằm ngoài tầm dự báo bởi lâu nay Ấn Độ Dương hiếm khi xuất hiện tsunami. Lần cuối cùng mà khu vực này bị tsunami tấn công là năm 1883 (sinh ra từ trận động đất Krakatoa). Do đó, các nước thuộc Ấn Độ Dương không có hệ thống báo động tsunami như vùng Thái Bình Dương.

Ngoài động đất, tsunami còn có thể được sinh ra bởi lở đất, núi lửa hoạt động, vụ nổ hạch nhân hoặc thiên thạch. Khi tsunami dịch chuyển trên đại dương, chiều dài từ chóp sóng trước đến chóp sóng sau có thể cách xa hàng trăm cây số hoặc hơn và độ cao chóp sóng chỉ khoảng vài mét. Do đó, người ta không thể thấy dấu hiệu rõ rệt của tsunami. Nói cách khác, tsunami không phải là sự di chuyển của bề mặt sóng mà là toàn bộ khối nước!

Trong lòng đại dương, tsunami có thể lướt tới với vận tốc 970km/giờ (theo website Cục Khí Quyển - Đại Dương Quốc Gia (NOAA) của Hoa Kỳ. Tsunami chỉ thật sự hiện nguyên hình với sức mạnh hủy diệt kinh hoàng khi nó đến gần bờ. Tốc độ sóng biến mất và thay vào đó là độ cao sóng. Ở vùng nước nông, một tsunami có thể sinh ra ngọn sóng khổng lồ cao 30m hoặc hơn (ngọn sóng tsunami tấn công vịnh Lituya, Alaska, năm 1958 cao đến 525m!)...

Từ tsunami được dùng phổ biến vào năm 1963 trong một hội thảo khoa học quốc tế (từ tiếng Nhật - tsu có nghĩa “cảng” và nami có nghĩa “sóng”) và có khi được hiểu là “sóng thần”. Tuy nhiên, như các chuyên gia NOAA xác định, tsunami thật ra không liên quan tới sóng. Sóng là kết quả của sức gió và thủy triều là ảnh hưởng của lực hấp dẫn của Mặt Trăng, Mặt Trời cùng các hành tinh; trong khi tsunami không gây ra bởi sóng to gió lớn và cũng chẳng liên quan đến thủy triều. Đặc tính của tsunami là sóng nước nông (shallow - water waves) - khác với sóng bởi gió (wind - generated waves).

Sóng bởi gió thường có chu kỳ (thời gian giữa hai đợt sóng liên tiếp) khoảng 5-20 giây và độ dài (khoảng cách giữa hai đợt sóng liên tiếp) khoảng 100-200m (website NOAA). Trong khi đó, tsunami có chu kỳ 10-120 phút và bước sóng có thể lên đến 500km. Hơn nữa, sóng bởi gió thường mất năng lượng sau một quãng di chuyển; trong khi đó do dịch chuyển ngầm trong lòng đại dương, tsunami có thể đi cực nhanh và không mất nhiều năng lượng. Một cách cụ thể, bởi vận tốc tsunami liên quan tới độ sâu nên khi độ sâu nông dần, vận tốc tsunami cũng biến mất nhưng tổng năng lượng tsunami hầu như giữ nguyên. Trong đại dương sâu khoảng 6.100m, tsunami di chuyển chừng 890km/giờ (bằng vận tốc máy bay) và nó có thể lướt từ bên này đến bên kia Thái Bình Dương trong không đầy một ngày.

Khoa học giải quyết tsunami như thế nào?

Trong lịch sử Địa Cầu, người ta còn ghi nhận sự xuất hiện của mega-tsunami (tại Madagascar, cách nay khoảng 4.000 năm), với ngọn sóng có thể cao đến 100m hoặc hơn. Các cụm quần đảo núi lửa như Réunion hoặc Hawaii rất có thể là nguy cơ sinh ra mega-tsunami (tsunami cực mạnh) trong tương lai, do cấu trúc to của chúng không đủ ổn định và có thể sụp bởi một nguyên nhân nào đó. Một khi điều này xảy ra, sự xuất hiện mega-tsunami hầu như là chắc chắn (vài năm gần đây người ta đã tìm thấy dấu vết một số mảnh vỡ rơi ra từ “thân” của quần đảo Hawaii).

Nơi có thể gây ra mega-tsunami nữa là đảo La Palma thuộc quần đảo Canary. Trong vụ phun dung nham năm 1949, vài phần ở nửa phía Tây của rặng Cumbre Vieja (La Palma) đã rơi xuống Đại Tây Dương. Quá trình này hình thành có lẽ do áp lực từ sức nóng nham thạch và nước bốc hơi bị kẹt trong cấu trúc đảo, khiến toàn bộ cơ cấu đảo bị chao đảo. Nếu một đợt phun dung nham mạnh nữa xảy ra, nửa phía Tây của đảo (khoảng 500 tỷ tấn) có thể rơi ùm xuống biển và mega-tsunami tiếp theo là điều không thể tránh khỏi. Vài trăm năm trở lại đây, thế giới đã chứng kiến một số mega-tsunami cường độ nhỏ, chẳng hạn đợt tsunami sinh ra do trận động đất ở Kamchatka vào ngày 17-10-1737 (ngọn tsunami cao hơn 50m).

Nhiều quốc gia Thái Bình Dương, đặc biệt là Nhật Bản, đều trang bị hệ thống quan sát và báo động tsunami (ngoài ra còn có hệ thống hiện đại CREST - Consolidated Reporting of Earthquakes and Tsunamis - lắp tại duyên hải Miền Tây Hoa Kỳ). Tuy nhiên, hệ thống báo động tsunami chỉ là giải pháp dường như mang tính tâm lý nhiều hơn là đem lại độ tin cậy khoa học. Dù tâm chấn động đất trong lòng biển có thể dò ra cực nhanh, nhưng người ta vẫn không thể biết những thay đổi trong lòng biển diễn ra như thế nào với mức độ nhiều ít (để có thể biết chính xác tsunami xuất hiện hay không).

Cho đến nay (theo website Trung Tâm Nghiên Cứu tsunami thuộc Viện Đại Học Washington), chưa hệ thống nào có thể phát hiện tsunami trước khi nó đem đến thảm họa, và cũng chưa hệ thống nào có thể tính được thời gian giữa một trận động đất và một tsunami tiếp theo. Chẳng hạn đợt tsunami vào ngày 12-7-1993, gây ra bởi trận động đất ngoài khơi đảo Hokkaido (Nhật), tsunami đã xuất hiện chỉ sau 5 phút.

Trong đợt tsunami ngày 26-12-2004, sóng mạnh đến tận Miền Nam Thái Lan khoảng một tiếng đồng hồ sau động đất. Hai tiếng rưỡi sau, dòng tsunami dịch chuyển khoảng 1.600km bắt đầu ào vào Ấn Độ, Sri Lanka, tiếp đó là Malaysia, Maldives, Miến Điện, Bangladesh… rồi cuối cùng đến Somalia.

Một bài học đẫm nước mắt

Hầu hết dự báo địa chấn đều xác định bằng cách dựa vào phép tính chu kỳ. Trận động đất 7,6 độ Richter tại Đường Sơn (Hà Bắc, Trung Quốc) giết chết 250.000 người vào năm 1976 và trận động đất 6,9 độ Richter tại Kobe (Nhật) làm thiệt mạng 5.000 nạn nhân vào năm 1995 đều nằm ngoài con mắt quan sát của thiết bị dự báo.

Một phân tích kỹ lưỡng phay San Andreas gần Parkfield tại trung tâm California từng dự báo một trận động đất nhẹ có thể xảy ra vào đầu thập niên 1990, nhưng nó chỉ xuất hiện vào hơn một thập niên sau (ngày 28-9-2004). Và Tiến Sĩ Vladimir I. Keilis - Borok thuộc Viện Đại Học California-Los Angeles từng dự báo một trận động đất 6,4 độ Richter tại Miền Nam California trong khoảng ngày 5-1 đến 5-9-2004 nhưng chẳng điều gì xảy ra.

Tờ New York Times (28-12-2004) cho biết nhiều nhà địa chất học hiện thời cho rằng không bao giờ có thể dự báo chính xác động đất bởi vỏ Trái Đất cực kỳ không đồng nhất. Bất kỳ một trận động đất nhỏ nào cũng tiềm ẩn khả năng trở thành sự kiện thiên tai lớn hơn.

Tiến Sĩ John Rundle, nhà địa chất học thuộc Viện Đại Học California - Davis, cho rằng người ta chỉ có thể dự báo ngắn hạn và điều này tùy thuộc phương pháp thống kê nhận dạng các điểm nóng.

Dù thế nào khoa học cũng không hoàn toàn bất lực trước tsunami. Cần nhấn mạnh là trong hội thảo tại Tiểu Ban Đại Dương Liên Chính Phủ (thuộc Liên Hiệp Quốc) vào tháng 6-2004, các chuyên gia đã kết luận “Ấn Độ Dương tiềm ẩn nguy cơ đe dọa nghiêm trọng liên quan tsunami, xảy ra trong vùng hoặc từ vị trí xa hơn” và rằng khu vực này nên được lắp hệ thống báo động như Thái Bình Dương”

Tuy nhiên Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia và một số quốc gia trong khu vực lại xem rằng “đó là vấn đề của Thái Bình Dương”. Theo ý kiến của Tiến Sĩ Tad Murty - chuyên gia tsunami thuộc Viện Đại Học Manitoba (Canada): “Không có lý do gì để bất kỳ nạn nhân nào chết vì tsunami. Chúng ta có biểu đồ thời gian dịch chuyển bao phủ toàn bộ vùng Ấn Độ Dương. Từ tâm chấn động đất, thời gian dịch chuyển tsunami đến mỏm Ấn Độ là bốn tiếng. Quá đủ thời giờ để báo động”!

http://nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=16501&z=15

 

                                                                   

Một số kiến thức về sóng thần


 
 

 09/01/2005

Trong các sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 12 của ta không có phần kiến thức về động đất và sóng thần. Trong khi chờ đợi Bộ GD-ĐT bổ sung nội dung này trong các sách giáo khoa sắp tới, chúng tôi xin cung cấp một số kiến thức về sóng thần.

 

Định nghĩa

 

Sóng thần (tsunami, theo tiếng Nhật, có nghĩa "sóng mạnh ở cảng") là sóng biển mạnh do động đất, núi lửa phun hoặc đất chuồi dưới đáy biển tạo ra, làm cho nhiều người chết và thiệt hại vật chất nặng nề khi nó tràn lên đất liền. Không như nhiều người tưởng, sóng thần không phải là những ngọn sóng ầm ầm cuồn cuộn tiến vào đất liền mà người ta có thể mục kích và nghe được âm thanh của nó từ xa ngoài khơi. Ngay khi ngồi trên thuyền ngoài khơi xa, bạn cũng không thể biết sóng thần bắt đầu xuất hiện. Và quan sát từ máy bay, bạn cũng không hề thấy dấu hiệu báo trước một đợt sóng thần. Đó là lý do cơn sóng thần đã giết trong phút chốc hàng trăm nghìn người trong thảm họa đau lòng xảy đến ít nhất 10 quốc gia châu Á vào ngày 26-12-2004.

 

Hiện tượng

 

Khi sóng thần được tạo ra ở ngoài khơi xa, sóng còn rất nhỏ và yếu vì nước quá sâu, nhưng là một chuỗi sóng có tốc độ rất cao, lên đến 800km/giờ!... Khi sóng thần dịch chuyển trên đại dương, chiều dài từ chóp sóng trước đến chóp sóng sau có thể cách xa hàng trăm kilômet hoặc hơn và độ cao chóp sóng chỉ khoảng vài mét. Do vậy, người ta không thể thấy dấu hiệu "chường mặt" của sóng thần. Nói cách khác, sóng thần không phải là sự di chuyển của bề mặt sóng mà là toàn bộ khối nước! Sóng thần chỉ thật sự hiện nguyên hình với sức mạnh hủy diệt kinh hoàng khi nó đến gần bờ. Tốc độ sóng biến mất và thay vào đó là độ cao sóng. Ở vùng nước nông, một sóng thần khổng lồ có thể cao đến 30m hoặc hơn (ngọn sóng thần tấn công vịnh Lituya, Alaska năm 1958 cao đến 525m).

 

Nguyên nhân

 

Sóng thần là hậu quả dẫn theo của một vụ động đất. Thảm họa thiên tai chấn động ngày 26-12-2004 là hậu quả của một vụ động đất, trên bề mặt đĩa địa chất bên dưới Ấn Độ và Myanmar, làm vỡ một mảnh vỏ Trái đất (rộng khoảng 992km) sau khi đĩa Myanmar bất ngờ trồi lên, cao hơn đĩa Ấn Độ ít nhất 15m. Trận động đất lần này xảy ra cực mạnh với 9 độ Richter, lớn nhất trong bốn thập niên kể từ trận động đất Good Friday 9,2 độ Richter tấn công Alaska (Mỹ) vào năm 1964 và là trận lớn thứ tư kể từ năm 1900. Sức mạnh động đất lớn đến mức nó lan tận Somalia, cách tâm chấn 4.100km. Tâm chấn động đất nằm ở độ sâu 10km, cách tây Sumatra khoảng 160km, trong khu vực "vòng đai lửa" liên tục sinh ra động đất.

 

Ngoài động đất, sóng thần còn có thể được sinh ra bởi lở đất, phún xuất núi lửa, nổ hạt nhân hoặc thiên thạch.

 

Dấu hiệu sắp có sóng thần

 

Đối với những người trên bờ biển khó biết sóng thần sắp tiến về phía mình. Dấu hiệu đầu tiên là nước biển chậm chạp cuộn lên với những con sóng không đổ, chứ không như sóng mạnh của bão sắp tới. Bỗng nhiên mặt biển dao động nhiều hơn bình thường, sau đó nhiều bọt biển nổi lên và rồi nước rút xuống thật nhanh. Do vậy, khi bạn đứng trên bãi biển và nhìn thấy nước biển đột ngột rút nhanh xuống bạn hãy nói cho những người chung quanh biết là sóng thần sắp xảy ra và mọi người hãy chạy nhanh vào đất liền, kiếm nơi cao mà trú, trước khi sóng thần đến.

 

Các thảm họa sóng thần

 

Sóng thần đã được nhắc đến từ thời Thượng cổ. Năm 365, sóng thần tại Alexandria (Ai Cập) làm hàng nghìn người thiệt mạng. Sóng thần tai hại nhất trong lịch sử loài người xảy ra ngày 27-8-1883 sau khi núi lửa Krakatoa tại Indonesia phun: 36.000 người thiệt mạng trên bờ biển Java và Sumatra. Ngày 17-7-1998: sóng thần làm hơn 2.100 người chết tại Papua New Guinea. Ngày 16-8-1976: hơn 5.000 người chết tại vịnh Moro, Philippines. Ngày 22-5-1960: sóng thần cao 11m làm hơn 1.000 người thiệt mạng tại Chile. Ngày 15-6-1896: sóng thần cao 23m làm hơn 26.000 người thiệt mạng trong một lễ hội tôn giáo ở Nhật Bản.

 

Hệ thống cảnh báo sóng thần

 

Hiện tại các hệ thống báo động sóng thần và sóng cao được thiết lập tại vùng duyên hải Thái Bình Dương và Nam Mỹ. Ngoài ra, các trung tâm báo động động đất và sóng thần ở Hawaii và Alaska được đặt dưới sự quản lý của Viện Địa chất Mỹ (USGS).

 

Ngày 26-12-2004, các nhà khoa học Mỹ dù đã biết trước hiểm họa sóng thần nhưng không thể báo động đến các đồng sự ở các nước châu Á ven bờ Ấn Độ Dương do khu vực này không có hệ thống báo động thiên tai. Theo ông Waverly Person thuộc Trung tâm Dự báo động đất của Mỹ, nếu có một cơ quan báo động thiên tai khu vực thì có thể cứu hàng nghìn sinh mạng.

 

Nhiều quốc gia Thái Bình Dương, đặc biệt Nhật, đều trang bị hệ thống quan sát và cảnh báo sóng thần (ngoài ra còn có hệ thống hiện đại CREST - Consolidated Reporting of Earthquakes and Tsunamis - lắp tại duyên hải tây nước Mỹ). Tuy nhiên, hệ thống cảnh báo sóng thần chỉ là giải pháp dường như mang tính tâm lý nhiều hơn là đem lại độ tin cậy khoa học. Dù tâm chấn động đất trong lòng biển có thể dò ra cực nhanh, nhưng người ta vẫn không thể biết những thay đổi lòng biển diễn ra như thế nào với mức độ nhiều ít (để có thể biết chính xác sóng thần xuất hiện hay không).

 

Cho đến nay (theo website Trung tâm Nghiên cứu sóng thần thuộc Đại học Washington), chưa hệ thống nào có thể phát hiện sóng thần trước khi nó đem đến thảm họa, và cũng chưa hệ thống nào có thể tính được thời gian giữa một trận động đất và một sóng thần kéo theo. Chẳng hạn đợt sóng thần ngày 12-7-1993 gây ra bởi trận động đất ngoài khơi đảo Hokkaido (Nhật), sóng thần đã xuất hiện chỉ sau năm phút. Trong đợt sóng thần ngày 26-12-2004, sóng mạnh đến nam Thái-lan khoảng một giờ sau động đất. Hai tiếng rưỡi sau, dòng sóng thần dịch chuyển khoảng 1.600km bắt đầu ào vào Ấn Độ, Sri Lanka, tiếp đó là Malaysia, Maldives, Myanmar, Bangladesh... rồi cuối cùng đến Somalia.

 

Giải nghĩa thêm về sóng thần

 

Sóng thần thật ra không liên quan đến sóng. Sóng là kết quả của ảnh hưởng sức gió và thủy triều là ảnh hưởng của lực hút Mặt trăng, Mặt trời cùng hành tinh; trong khi sóng thần không gây ra bởi sóng to gió lớn và cũng chẳng liên quan đến thủy triều. Đặc tính của sóng thần là sóng nước nông khác với sóng bởi gió.

 

Sóng bởi gió thường có chu kỳ (thời gian giữa hai đợt sóng liên tiếp) khoảng 5-20 giây và độ dài (khoảng cách giữa hai đợt sóng liên tiếp) khoảng 100-200m (website NOAA). Trong khi đó, sóng thần có chu kỳ 10-120 phút và bước sóng có thể lên đến 500km. Hơn nữa, sóng bởi gió thường mất năng lượng sau một quãng di chuyển; trong khi dó đó dịch chuyển ngầm trong lòng đại dương, sóng thần có thể đi cực nhanh và không mất nhiều năng lượng. Cụ thể, bởi vận tốc sóng thần liên quan độ sâu nên khi độ sâu nông dần, vận tốc sóng thần cũng biến mất nhưng tổng năng lượng sóng thần hầu như giữ nguyên. Trong đại dương sâu khoảng 6.100m, sóng thần di chuyển khoảng 890km/giờ (bằng vận tốc máy bay) và nó có thể lướt từ bên này đến bên kia Thái Bình Dương trong không đầy một ngày.


Tuổi trẻ

 

 

© http://vietsciences.free.fr