Những bài
cùng tác giả
PHẦN III. Việt Nam phải làm gì để giảm thiểu “khí
thải nhà kiếng” gây hâm nóng hoàn cầu
Theo Hội Nghị Rio de Janeiro (9/5/1992), Geneva
(7/1996), Kyoto (12/1997), và khoảng 11 hội nghị
liên quốc kế tiếp nhau từ 1998 đến nay, các quốc gia
trên thế giới đều có nhiệm vụ phải giảm thiểu các
khí thải – khí nhà kiếng - gây hiện tượng hâm nóng
hoàn cầu. Nếu trước đây, các Hội nghị chú trọng đến
các nước có nền công nghiệp tiên tiến như Tây Âu,
Nhật Bản và Hoa Kỳ (nhưng Hoa Kỳ từ chối) phải tự
nguyện thi hành việc giảm khí thải công nghiệp, chưa
đòi hỏi Ấn Độ và Trung Quốc và các nước đang phát
triển thi hành, thì nay (2007) Hoa Kỳ cũng phải có
biện pháp áp dụng, và đồng thời tạo áp lực lên Ấn Độ
và Trung Quốc phải thi hành biện pháp này. Các nước
đang phát triển, trong đó có VN, mặc dầu nền công
nghiệp còn phôi thai, trước sau gì cũng bị áp lực để
giảm thiểu khí thải nhà kiếng. Ngay bây giờ, Việt
Nam phải tự động hoạch định và áp dụng các biện pháp
giảm thiểu khí thải nhà kiếng cho các chương trình
Công Nghiệp Hoá và Phát Triển Kinh Tế bền vửng của
VN, nếu không sẽ bị chế tài kinh tế và chính trị
trong tương lai.
NGUỒN GỐC CỦA HIỆN TƯỢNG HÂM NÓNG TOÀN CẦU
Nghiên cứu mới nhất đăng tải trên Hiệp Hội Khoa Học
Hoàng Gia Anh tháng 7/2007 (Lockwood & Fröhlich,
2007) cho biết nhiệt độ gia tăng hoàn cầu hiện nay
không do năng lượng phát xạ từ mặt trời biến đổi, mà
là do chính con người. Theo báo cáo này, tính từ
1900, nhiệt độ hoàn cầu gia tăng 0.8°C, nước biển đã
dâng cao thêm 10-20 cm tuỳ nơi, và lượng CO2
trong không khí gia tăng cao nhất trong 650,000 năm
qua, và 11 trong số 12 năm vừa qua có nhiệt độ cao
kỹ lục nhất trong quá khứ.
Bốn khí chính trong khí quyển có hiệu ứng gia tăng
nhiệt độ hoàn cầu là hơi nước (water vapour), CO2,
methane (CH3 ) và ozone (O3).
Hơi nước đóng góp khoảng 36-70% hiệu ứng hâm nóng
hoàn cầu, khí CO2
khoảng 9-26%, methane khoảng 4-9%, và ozone khoảng
3-7% (1). Ngoài ra, còn có một số khí khác cũng đóng
góp vào hiệu ứng hâm nóng hoàn cầu là nitrous oxide,
sulfur hexafluoride, hydrofluorocarbons,
perfluorocarbons và chlorofluorocarbons (CFC).
Hiện nay (2005), trên phạm vi toàn cầu, nhà máy điện
sa thải khí nhà kiếng vào khí quyển 21.3%, lảnh vực
công nghiệp 16.8%, giao thông vận tải 14.0%, nông
nghiêp 12.5%, công nghiệp khai thác và biến chế
nhiên liệu cổ sinh 11.3%, sử dụng đất đai và đốt
than củi 10.0%, phế thải 3.4%, và các lảnh vực linh
tinh khác 10.3%.
Hơi nước
Hơi nước
là một thành phần vật lý của địa cầu, quan trọng cho
sự sống, một thành phần trong “chu trình nước”, chi
phối bởi các yếu tố vật lý như nhiệt độ, gió, địa
lý, v.v., con người không kiểm soát nổi, ngoại trừ
ảnh hưởng của hệ thống dẩn thuỷ lên tiểu khí hậu làm
gia tăng hơi nước. Hơi nước cần thiết để có mưa, cho
sự sống sinh vật.
Khí CO2
Trái lại, các loại khí kia gia tăng là do con người
gây ra. Chẳng hạn, khí CO2 gia tăng nhiều kể từ khi
nền công nghiệp phát triển mạnh sau năm 1750, từ 278
ppm (phần triệu) ở năm 1750, lên 328 ppm năm 1973,
365 ppm năm 1998, vọt lên 380 ppm năm 2007.
Hiện tại, khí CO2
chiếm 72% khí nhà kiếng. Việc gia tăng khí CO2
là do con người đốt nhiên liệu cổ sinh (than đá, dầu
hoả, khí đốt) trong công nghiệp và đốt phá rừng. 85%
năng lượng sử dụng trong công nghiệp và phương tiện
giao thông là do năng lượng sinh ra từ việc đốt than
đá, xăng và khí đốt. Các nước có nền công nghiệp
phát triển mạnh như Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản thải
hồi nhiều khí nhà kiếng nhất. Các nước đang có nền
công nghiệp trên đà phát triển mạnh như Trung Quốc
và Ấn Độ cũng gia tăng thải hồi khí nhà kiếng với
mức đáng kể. Các tường trình ước lượng rằng chỉ
trong vòng 10 năm nữa Trung Quốc sẽ vượt Hoa Kỳ
trong việc thải khí CO2
vào khí quyển.
Hoa Kỳ, chiếm khoảng 4% dân số thế giới, nhưng thải
hồi hơn 20% tổng số CO2
của toàn cầu, khoảng 5,912 triệu metric tons khí CO2
vào năm 2004 (2, 3)
Bảng 1. Lượng khí CO2
thải hồi
(triệu metric tons) năm 2004 (3)
Quốc gia
|
Thải CO2
(1)(triệu
metric tons)
|
CO2 /đầu người
(2)
(metric tons) |
Hoa Kỳ |
5,912.21 |
19.8 |
Trung quốc |
4,707.28 |
3.20 |
Nhật Bản |
1,262.10 |
9.70 |
Ấn Độ |
1,112.84
|
1.19 |
Germany |
862.23 |
9.80 |
Canada |
587.98 |
17.9 |
Anh quốc |
579.68 |
9.40 |
Pháp |
405.66 |
6.20 |
Việt Nam |
57.48 |
0.93 |
Toàn thế giới |
27,043.57 |
|
Tại Trung quốc, riêng nền công nghiệp thải hồi 1,131
triệu metric tons CO2
trong năm 2003, trong số này 71.2% do đốt than đá,
16.5% do nhiên liệu lỏng, 10.5% do kỹ nghệ xi măng
(4). Trung bình, với dân số trên 1.3 tỉ, mỗi đầu
người Trung Hoa thải vào khí quyển 3.2 metric tons
CO2.
Việt Nam chưa có nhiều kỹ nghệ để sa thải khí CO2
ngoại trừ các nhà máy-nhiệt-điện-đốt-than. Nguồn gốc
chính CO2
của VN, không do kỹ nghệ, mà do phá đốt rừng để canh
tác hoa màu, và đốt than củi, uớc tính khoảng 60
triệu tons CO2/năm
kể từ thập niên 1980s.
Khí methane (CH4)
Là một khí thiên nhiên, có nồng đô 1,745 ppb (phần
tỉ, billion) vào năm 1998 (5), gia tăng khoảng 150%
kể từ năm1750. Mặc dầu khí quyển chứa ít methane hơn
CO2,
nhưng một phân tử methane chứa 30 lần nhiệt lượng
hơn một phân tử khí CO2.
Lượng khí methane thay đổi tuỳ địa phương, Bắc bán
cầu nhiều hơn Nam bán cầu, nơi đầm lầy nhiều hơn nơi
khô ráo, trại chăn nuôi, nơi đổ rác chứa nhiều hơn
nơi khác, và cũng biến đổi theo mùa. Cách đây 3.5 tỉ
năm, không khí chứa 1000 lần khí methane nhiều hơn
ngày nay, do núi lửa phóng thích. Methane được sinh
ra bởi hô hấp yếm khí (anaerobic) do nhóm vi khuẩn
methanogens. Nhóm vi khuẩn này không sống được trong
môi trường có oxygen tự do, chỉ sống trong môi
trường yếm khí, như huỷ hoại chất hữu cơ trong môi
trường ngập nước (đầm lầy, ao hồ, ruộng lúa nước),
trong bộ máy tiêu hoá động vật, đặc biệt gia súc
chăn nuôi, hầm chứa rác rến chôn sâu trong lòng đất,
hay hầm ủ phân hữu cơ. Methane cũng thấy nhiều ở
miệng núi lửa ở đáy biển, và các bồn chứa dầu trong
công nghiệp. Hàng năm, toàn thế giới thải hồi khoảng
500 triệu tấn khí methane, trong số đó, ruộng lúa
nước toàn cầu thải từ 20 đến 100 triệu tấn/năm
(Neue, 1993). Ngược với nhóm vi khuẩn methanogens,
nhóm vi khuẩn methanothrops trong ruộng lúa, sống
nhờ oxygen trong bọt khí ở rể lúa, oxit hoá khí
methane thành CO2
và nước, và như vậy làm giảm sự thải hồi methane
(nhưng thải hồi CO2).
Ở ruộng lúa nước, trung bình thải hồi khoảng 0.5 g
methane/m2/ ngày, hay khoảng 25 đến 200 kg
methane/ha/năm, tuỳ theo nơi, loại đất, khí hậu và
giàu nghèo chất hữu cơ, chôn rơm rạ hay không. Ở
ruộng lúa rẫy (upland rice), thải hồi khí methane
rất ít, không đáng kể. Ruộng lúa cũng thải hồi CO2
và N2O.
Trên phạm vi toàn cầu, nông nghiệp thải hồi vào khí
quyển khoảng 66% tổng số khí methane.
Ozone (O3)
Ozone ở
trên thượng tầng khí quyển (stratosphere), bao che
bảo vệ địa cầu ngăn chặn bức xạ cực-tím-B
(ultra-violet UV-B) làm nguy hại sinh vật địa cầu.
Lớp Ozone hiện đang bị huỷ hoại bởi sự phóng thích
vào khí quyển một số hoá-chất-tạo-lạnh trong công
nghiệp làm lạnh (refrigerants, như
chlorofluorocarbons hay CFCs), halons (hợp chất chứa
C và F hay Cl), và methyl bromide (để phun thuốc sát
trùng).
Khí
Nitrous oxide (N2O)
Nitrous
oxide phát sinh do vi khuẩn trong đất và đại dương.
Nông nghiệp là nguồn gốc chính thải hồi nitrous
oxide vào khí quyển: đất canh tác, bón phân đạm và
phế thải chăn nuôi, tổng cộng chiếm 80%, riêng gia
súc (trâu bò, gà và heo) đóng góp khoảng 65% tổng số
nitrous oxide trên toàn cầu; khoảng 20% là do kỹ
nghệ sản xuất nylon, nitric acid và đốt nhiên liệu
cổ sinh trong máy nổ.
CÁC BIỆN
PHÁP HẠN CHẾ THẢI HỒI KHÍ NHÀ KIẾNG Ở VIỆT NAM
Bảo vệ lớp Ozone
Con người chưa có khả năng tạo khí Ozone để bảo vệ
địa cầu. Ngược lại, công nghiệp thuốc sát trùng và
tạo lạnh trên thế giới đã phóng thích vào khí quyển
khí CFCs, halons và Methyl bromide làm huỷ diệt lớp
Ozone trên thượng tầng khí quyển. Khí CFCs đã bị cấm
sử dụng trong máy tủ lạnh và điều hoà không khí ở
các nước công nghiệp từ 1996, tuy nhiên các nước
đang phát triển vẫn tiếp tục sử dụng. Trên đà phát
triển kỹ nghệ làm máy tạo lạnh (tủ lạnh, máy điều
hoà không khí cho gia cư hay cho xe hơi, v.v.), VN
phải sử dụng các khí khác để thay thế các khí tạo
lạnh nguy hại Ozone đang bị cấm chỉ này. Trước đây,
chất tạo lạnh thông dụng nhất là Halomethanes R-12
và R-22, chất sau thường dùng cho máy lạnh xe hơi và
tủ lạnh nhỏ. R-12 đã bị cấm sản xuất từ 1995 ở Hoa
Kỳ, và R-22 sẽ bị hạn chế sử dụng vào năm 2010, và
cấm sản xuất vào năm 2020. Để thay thế R-22, hợp
chất R-32 và R-125, theo tỉ lượng 50/50, mang tên
R-410A, dưới các tên thương mãi như Puron®, GENETRON
AZ-20®, và SUVA 410A®. Chất tạo lạnh R-410A không
phá huỷ lớp Ozone, nhưng góp phần làm gia tăng nhiệt
độ hoàn cầu. Ngoài ra, chất tạo lạnh R-134A và
R-407C cũng đã được Âu Châu thay thế chất R-22, mặc
dầu chưa có ở Hoa Kỳ. Việc sử dụng khí thuần propane
hoá lỏng (liquified propane gas), chẳng hạn R-290
với tên thương mại Duracool®, cũng đang được yêu
chuộng, đặc biết với các máy lạnh đã thiết kế cho
R-12, R-22 hay R-134a trước đây.
Để tránh sa thải khí tạo lạnh của xe hơi làm huỷ
hoại lớp Ozone, kể từ 2011 Âu Châu cấm sử dụng những
chất tạo lạnh nào có tiềm năng hâm nóng toàn cầu
(Global warming potential – GWP) trên 150 (1 GWP=
tiềm năng hâm nóng 100 năm của 1 kg khí tương đương
với 1 kg CO2).
Chất HFC-134A có GWP= 1300. Một trong các chất hứa
hẹn nhất là sử dụng khí CO2
làm chất tạo lạnh, đặt tên R-744 vì chất khí này
không bắt cháy, không hại đến lớp Ozone, có GWP= 1,
tuy nhiên độc hại chết người nếu nồng độ trên 5%.
R-744 (tức CO2)
có ứng dụng nhiều cho máy lạnh xe hơi, gia cư, máy
đông lạnh lớn cho thương mại, nhà kho lớn.
Để tránh trang bị với các loại khí sẽ bị cấm, VN cần
phải biết lịch trình ngăn cấm sử dụng:
Kể từ 1/1/2004, nghị quyết Montreal bắt buộc các
quốc gia phải giảm 35% sản xuất các khí HCFCs. Vì
vậy Hoa Kỳ đã đình chỉ sản xuất HCFC-141b từ ngày
1/1/2003.
Kể từ 1/1/2010, các nhà máy vẫn còn phép tiếp tục
sản xuất R-22 cho các máy hiện hữu, nhưng không được
sản xuất máy đông lạnh mới với hoá chất này.
Kể từ 1/1/2020, cấm sản xuất R-22, tuy nhiên R-22
tồn dư còn có thể dùng để sửa chửa, bảo trì máy lạnh
với thiết kế củ chạy R-22 sau năm 2020.
Giảm
thiểu thải hồi Methane và Nitrous oxide
Khí methane thải hồi từ đầm lầy, sông rạch, ruộng
lúa nước, chăn nuôi gia súc là chính. Đồng bằng Cửu
Long (ĐBCL) là vùng đất nê địa, đầm lầy (U Minh,
Rừng ngập mặn), chằng chịt sông rạch, phần còn lại
là ruộng lúa nước, 4/5 lảnh thổ bị ngập lụt, không
nhiều thì ít, trong 6 tháng mùa mưa, vì vậy ĐBCL
thải hồi khí methane vào không khí với một lượng rất
lớn. Trong nông nghiệp thâm canh, để tăng gia năng
xuất, việc sử dụng nhiều phân hoá học, phân hữu cơ,
phát triển mạnh ngành chăn nuôi gia súc và gia cầm,
nuôi cá trong ao hồ, đều là những tác nhân gia tăng
việc thải hồi khí methane và nitrous oxide vào khí
quyển. Vì quan niệm làm dân giàu nước mạnh là ưu
tiên qua các biện pháp phát triển nông học thâm canh
và chăn nuôi tân tiến, nên phải chấp nhận việc gia
tăng các khí này. Tuy nhiên, VN có thể giảm thiểu
việc thải hồi khí methane vào khí quyển qua các biện
pháp sau đây mà vẫn làm người dân trở nên giàu có
hơn.
Giảm diện tích trồng lúa nước. Còn trồng lúa là còn
nghèo nàn. Việt Nam nên từ bỏ chủ trương cạnh tranh
với Thái Lan để xuất khẩu lúa gạo (số lượng nhiều,
mà phẩm chất kém). Việt Nam cần phải tái kiến trúc
cơ cấu nông nghiệp để tự túc lúa gạo cho cả nước, và
chỉ xuất khẩu với giống gạo phẩm chất cao mà thôi,
mà biến ruộng lúa thành ao cá nước ngọt (sản xuất ít
methane hơn), thành vườn cây trái xuất khẩu trên
liếp đất cao ráo (như tổ tiên ta tạo vườn ở Miền
Đông, vùng Miệt Vườn Miền Tây), biến vùng đất nê địa
thành đất khô ráo qua việc đấp đê bao ngạn, hệ thống
cống rảnh dẩn nước, thoát nước hợp lý, để canh tác
hoa màu có giá trị hơn lúa, như tổ tiên ta đã làm ở
vùng Biên Hoà, Bình Dương 2-3 thế kỹ trước đây
(Thiện Phương, 2006). Ngay trong ruộng lúa nước, nếu
quản lý nước hợp lý viẹc thải hồi khí methane cũng
giảm thiểu: xen kẻ tưới nước với rút khô ruộng lúa
giúp các vi khuẩn methanothrops biến methane trong
đất thành CO2.
Rút nước khô sau khi hạt lúa chín khối lượng (mass
maturity trước kia gọi physiological maturity) vừa
làm năng xuất lúa gia tăng, vừa ngăn chận thải hồi
khí methane.
Gia tăng ao hồ nuôi tôm cá nước mặn. Muối (ClNa) làm
giảm thiểu hay triệt tiêu sự sinh sản khí methane từ
chất hữu cơ trong môi trường ngập nước, nên việc
biến ruộng lúa nước ở vùng ngập mặn thành nơi nuôi
hải sản, vừa gia tăng lợi tức của nông dân (lợi 3-10
lần hơn trồng lúa), tăng ngoại tệ đất nước qua xuất
khẩu hải sản vừa giảm khí methane thải hồi.
Muốn được vậy, VN cần phải phát triển chương trình
thuỷ nông mạnh, tránh ngập lụt trong mùa mưa, tránh
nước mặn xâm nhập trong mùa hạn vào sâu trong nội
địa, có đủ nước ngọt để sinh hoạt, chăn nuôi và canh
tác. Trong tương lai, nước ngọt trong mùa khô hạn ở
ĐBCL sẽ hiếm, nhưng sẽ gây lụt lội khủng khiếp hơn
trong mùa mưa (xem phần I), và là vấn đề cần phải
hoạch định giải quyết ngay từ bây giờ.
Sản xuất khí-sinh-học từ rác rến thành phố và trại
chăn nuôi. Thay vì chôn vùi phế thải rác rến sinh
hoạt ở thành phố hay phế thải trại chăn nuôi gia
súc, gia cầm, các phế thải này nên dùng để sản xuất
khí-sinh-học (bio-gas) để chứa trong các bình cao
áp, và phần hữu cơ đã huỷ hoại còn lại dùng làm phân
bón (compost). Khí-sinh-học thông thường chứa 60-70%
methane, 30-40% khí CO2,
và một ít khí khác.
Sau thế chiến thứ 2, nhiều máy nhỏ sản xuất
khí-sinh-học cho gia cư được phổ biến ở Âu Châu và
Ấn Độ. Tại VN trước đây (thập niên 1980s), trường
Đại Học Nông Lâm Thủ Đức đã có thí nghiệm thành công
và ứng dụng nhiều kiểu mẩu sản xuất khí-sinh-học, đủ
quy mô lớn nhỏ. Chẳng hạn, tại Miền Nam vào đầu năm
1980 có 15 nhà máy điện nhỏ (75 kW) chạy bằng
khí-sinh-học sản xuất từ trấu lúa của địa phương.
Khí-sinh-học sản xuất từ mạc cưa đã được dùng để
chạy xe bus. Rất tiếc là các nhà máy này đã ngừng
hoạt động từ 1995, vì giá xăng dầu và điện hiện nay
rẻ hơn, và không nằm trong diện được chính phủ ưu
đải.
Trung bình, cứ mỗi 500 kg phân bò tươi mỗi ngày có
thể sản xuất 1.2 m3 khí-sinh-học, 500 kg phân gà
tươi cho khoảng 1.6 m3
khí-sinh-học. Cứ 1 tấn rác hữu cơ thành phố ủ ở bể
phân hủy kỵ khí sẽ tạo được 5 m3
khí-sinh-học, đủ để sản xuất 6 kWh điện. Năm 2002,
ước tính toàn quốc có 1.59 triệu tấn mạc cưa (dư
thừa của nhà máy cưa), 6.8 triệu tấn trấu lúa, 64.7
triệu tấn rơm rạ, 5.5 triệu tấn bã
xác mía (từ nhà máy ép đường), 634 triệu m3
phân heo, 900 triệu m3
phân trâu bò (Truong & Cu, 2004). Thành phố Sài Gòn
năm 2005 thải rác sinh hoat gia cư khoảng 1.4 triệu
tấn, trong số này có 700,000 tấn hữu cơ, có thể sản
xuất 35 triệu m3
khí-sinh-học. Khí-sinh-học chứa khoảng 5,000
Kcal/kg, dùng trong nhà bếp ở vùng thôn quê thay
than củi (giảm đốn phá rừng), đốt đèn hay tạo điện.
Quản lý khoa học rác thải gia cư và kỹ nghệ. Hàng
ngày gia cư Sài Gòn thải hồi 7 tấn rác, Hà Nội
khoảng 2.5 tấn. Hiện tại Sài Gòn có hệ thống xử lý
rác khá tốt ở Phước Hiệp, Gò Cát, Đông Thạnh và Đa
Phước, nhưng ở các thành phố khác thì vẫn bải rác lộ
thiên gây hôi thối, mất vệ sinh và ô nhiểm môi
trường. Tại Sài Gòn, năm 2005, đã thu gom và xử lý
khá hợp lý gần 1.4 triệu tấn rác sinh hoạt, trong đó
có khoảng 700,000 tấn rác hữu cơ.
Giảm
thiểu khí thải CO2
Chu trình Carbon. Theo định luật bảo toàn khối lượng
của Lavoisier (1743-1794) “không có gì mất đi, không
có gì sinh ra, tất cả chỉ là biến đổi” (rien ne se
perd, rien ne se crée, tout se transforme). Khối
lượng địa cầu và các nguyên tố cơ bản (elements) cấu
tạo địa cầu bất biến, chỉ thay đổi dưới nhiều dạng
khác nhau, tạo nên các chu trình kín, như “chu trình
hơi nước” (nước lỏng, nước đá, hơi nước), “chu trình
carbon” (dạng rắn như than đá, lỏng như dầu hoả, khí
như CO2,
methane, v.v.), “chu trình chất đạm”, v.v.
Thảo mộc là nguồn tích trử C. Cây xanh hấp thụ CO2
của không khí tạo thành chất hữu cơ và thải Oxy vào
lại không khí qua hiện tượng lục hoá
(photosynthesis) khi có ánh nắng. Ngược lại, ngày
hay đêm cây đều thải CO2 qua hiện tượng
hô hấp. Hiệu số chất C giữa lục hoá và hô hấp làm
cây tăng trưởng lớn lên. Cây đang thời tăng trưởng
mạnh hấp thụ một số lớn CO2
nên tồn trữ
nhiều C, cây trưởng thành hấp thụ ít hơn. Trung bình
20% trọng lượng cây là C. Khi cây chết và mục thì
một phần C được trả lại không khí (qua hiện tượng
phân huỷ hữu cơ, hô hấp vi sinh), một phần được tồn
trử dước dạng hữu cơ như thân rể gỗ (chưa mục), hay
huỷ hoại như chất mùn, than bùn (peat). Than đá là
một dạng tồn trử C từ thực vật tạo thành từ thời cổ
đại.
Phá rừng để canh tác, chất mùn sẽ bị tiêu huỷ, thải
hồi CO2
vào lại không khí. Đốt thực vật (đốt rừng, than
củi), đốt than đá là nguồn thải hồi chánh ở VN. Ngập
nước (như làm đập chưa nước) thảo mộc và chất hữu cơ
sẽ thải hồi CO2
và methane vào lại không khí. Thảo mộc là thức ăn
của sinh vật (vi sinh vật, động vật nhỏ, thú vật,
con người), nên sinh vật chứa C trong thân xác, nhả
lại CO2
qua hô hấp và qua huỷ hoại thân xác khi chết đi.
Đại dương là môi trường đệm và cũng là nguồn tồn trử
C thiên nhiên. Khi luợng CO2
trong khí quyển tăng thì lượng CO2
trong đại dương cũng gia tăng có thể là một nguy cơ
tiềm ẩn vì làm acít hoá nước biển. Kể từ năm 1751,
pH của nước biển đã giảm từ 8.179 xuống 8.104 hiện
nay (6). Khí CO2
hoà tan trong nước biển với số lượng tuỳ thuộc vào
nhiệt độ và áp suất không khí. Tảo, phiêu sinh thực
vật (phytoplankton) và nhiều nhóm sinh vật khác lục
hoá CO2
hoà tan trong nước biển, tạo đầu nguồn
chuổi-thực-phẩm (food chain), nuôi dưởng phiêu sinh
động vật (zooplankton) và động vật có xương hay có
vỏ chứa vôi khoáng (CaCO3).
Khi chết, xác các động vật biển và vi sinh vật chìm
xuống đáy biển, tạo thành đá vôi hay nhiên liệu cổ
sinh (fossil fuel). Dầu hoả, dầu khí, đá vôi được
thành lập dưới đáy biển trong thời cổ đại.
Để làm giảm số lượng CO2
trong không khí, chúng ta phải thực hiện các biện
pháp sau đây:
- Giảm thiểu phóng thích CO2
do đốt nhiên liệu cổ sinh (xăng, khí đốt, than đá)
trong công nghiệp và giao thông, đốt chất hữu cơ
(phá, đốt rừng, than củi, v.v.).
- Chuyển hoá (sequestration) C từ dạng khí (CO2
và CH4)
sang dạng rắn bền vửng như chất hữu cơ trong thân
gỗ.
Giảm
thiểu phóng thích CO2
trong công nghiệp
VN muốn
giàu mạnh cần phải công nghiệp hoá (kỹ nghệ hoá) đất
nước. Vì VN hiện chưa có nền công nghiệp mạnh, VN
đang bắt đầu đầu tư vào kế hoạch này, nên phải đầu
tư vào những “công nghiệp sạch”, ít sa thải khí CO2,
mặc dầu có tốn kém hơn, nhưng tương lai sẽ không bị
trừng phạt bởi quốc tế. Tại VN, công nghiệp sa thải
CO2
vào không khí chưa nhiều, nhưng 54% là do dầu hoả
(chạy xe cộ, động cơ, v.v.), 36.4% do đốt than đá,
và khoảng 9.6% từ khí đốt.
Giảm
thải CO2
ở nhà máy điện
Việt Nam
cần nhiều điện năng để công nghiệp hoá đất nước, nhu
cầu hàng năm gia tăng khoảng 13-15%. Năm 2003, VN
sản xuất điện tổng cộng khoảng 39 tỉ kWh, trong số
đó 47.7% do đốt than đá, 52.3% từ thuỷ điện, trung
bình tiêu thụ mỗi đầu người VN hàng năm là 383 kWh
(7). Tại Việt Nam hiện nay nhu cầu điện trong công
nghiệp gia tăng hàng năm khoảng 19.5%, gia cư tăng
14.2%, và nông nghiệp tăng 7.4%. Theo dự án, VN cần
phải đạt tổng công suất 42,000 MW vào năm 2015;
62,000 MW vào 2020; và 89,000 MW năm 2025 mới đủ để
công nghiệp hoá đất nước. Muốn vậy, trong giai đoạn
2006-2025, Việt Nam dự trù xây dựng thêm 74 nhà máy
và trung tâm điện lực với tổng công suất lên đến
81,000 MW, gồm 46 nhà máy thuỷ điện, 2 trung tâm
thuỷ điện tích năng, 5 trung tâm nhiệt-điện-khí, 17
nhà máy và trung tâm nhiệt-điện-đốt-than, 2 trung
tâm điện hạt nhân và 2 trung tâm năng lượng mới và
tái tạo.
Máy nhiệt-điện. Hiện tại Việt nam có 5 nhà máy
nhiệt-điện-đốt-than-đá lớn (Phả Lại, Uông Bí, Ninh
Bình, Thủ Đức, Trà Nóc) và một số nhà máy nhỏ. Nhà
máy nhiệt điện Phả Lại lớn nhất VN, có công suất 440
MW, hàng năm sản xuất 2,1 tỉ kWh, tiêu thụ khoảng
1,5- 1,6 triệu tấn than anthracite. Theo kế hoạch,
nhà máy điện Phả Lại sẽ được tăng công suất thêm 600
MW với công nghệ lò than phun. Nhà máy nhiệt điện
Cần Thơ tại Trà Nóc có công suất 200MW. Nhà máy
nhiệt điện Quảng Ninh, chạy than đá, do Trung quốc
thiết kế, có công suất trong thời gian đầu là 600
MW, thời gian sau là 1200 MW. Ngoại trừ nhà máy điện
nhỏ thuộc Công ty Giấy Bãi Bằng sử dụng công nghệ
đốt tầng sôi, các nhà máy khác đều sử dụng công nghệ
lò than phun.
Trung bình, một nhà máy nhiệt-điện-đốt-than cứ mỗi
1,000 MW thải hồi khoảng 6 triệu tấn khí CO2
mỗi năm. Hàng năm, các nhà máy nhiệt-điện-đốt-than ở
VN cũng thải ra khoảng 750-800 ngàn tấn than xỉ,
trong số đó nhà máy nhiệt điện Phả Lại chiếm phần
lớn, khoảng 500-550 ngàn tấn than xỉ, gồm 120-130
ngàn tấn xỉ (24%), và 380-420 ngàn tấn tro (76%). Số
lượng tro, xỉ than tích tụ từ ngày hoạt động 1983
tới nay là 7-10 triệu tấn. Một khi được tăng cường
công suất thêm 600 MW, nhà máy Phả Lại sẽ thải ra
trên 1 triệu tấn than xỉ một năm. Trong xỉ, phần
than chưa cháy hết còn nhiều. Do đó, hầu hết các
loại xỉ than này đều được người dân quanh nhà máy sử
dụng lại làm nhiên liệu cho lò gạch, lò đốt vôi và
nhà bếp.
Các kết quả thí nghiệm cho thấy trong than xỉ của
nhà máy Phả Lại đều chứa các nguyên tố gây ô nhiễm
môi trường như As, Zn, Cr và Pb, Cd, Hg, Co và Ni.
Thuỷ ngân (Hg) rất độc hại cho sức khoẻ và thế giới
đã cấm làm nhiệt kế thuỷ ngân.
Hiện tại, trên thế giới chưa có một kỹ thuật “làm
sạch” đại trà nào để giảm thiểu khí CO2
và bụi ô nhiểm của nhà máy-nhiệt-điện-đốt-than-đá.
Việc hoạch định xây dựng thêm 17 nhà
máy-nhiệt-điện-đốt-than-đá ở VN trước 2025 cần phải
xét lại.
VN đã bắt đầu sử dụng khí thải mỏ dầu Côn Sơn để
chạy nhà máy nhiệt-điện-khí Phú Mỹ (trên đường ra
Vủng Tàu), hiện cung cấp 35% điện năng cho cả nước.
Nhà máy nhiệt-điện-khí Ô Môn sẽ hoàn tất năm 2008
với kinh phí 550 triệu USD, tiêu thụ khoảng 4 triệu
m3
khí đốt/năm, có công suất giai đoạn đầu là 600 MW,
sau đó sẽ được nâng cấp lên 1,200 MW.
VN sẽ thiết lập thêm 3 nhà máy nhiệt-điện-khí nữa.
Nhà máy điện Cà Mau thuộc công trình Cụm Khí - Điện
- Đạm Cà Mau ở xã Khánh An, huyện U Minh, Cà Mau,
hiện đang xây dựng áp dụng công nghệ tua-bin khí chu
trình hỗn hợp với công suất 750MW.
Tương đối, nhà máy nhiệt-điện-khí ít tạo ô nhiểm
hơn, và sử dụng tiềm năng dồi dào của các mỏ dầu ở
VN, là điều nên hướng tới. Chẳng hạn, riêng bồn mỏ
dầu trũng Nam Côn Sơn, cách Vũng Tàu 370 km, có trữ
lượng 58 tỉ m3 khí đốt. Hai mỏ Lan Tây -
Lan Ðỏ có khả năng cung cấp một sản lượng khí trung
bình 3 tỉ m3
/năm cho các nhà máy điện trong khoảng 20 năm để tạo
ra 12 tỉ kWh điện mỗi năm, tương đương với 40% nhu
cầu sử dụng điện năng hiện thời của Việt Nam.
Thuỷ điện. Là nguồn điện rẻ, sạch và dồi dào ở Miền
Bắc, Miền Trung, Cao nguyên và Miền Đông. Hiện tại
VN chỉ mới sử dụng 15% tiềm năng thuỷ điện của VN.
Tiềm năng thuỷ điện của VN khoảng 17,400 MW.
Kể từ 1960, VN đã có các nhà máy thuỷ điện, như Đa
Nhim ở Đơn Dương (công suất 160 MW, sản xuất 1 tỉ
kWh/năm), Trị An ở Đồng Nai (sản xuất 1.7 tỉ
kWh/năm), Thác Bà ở Yên Bái (công suất 108 MW, sản
xuất 400 triệu kWh/năm), Đại Ninh ở Bình Thuận (300
MW), Vĩnh Sơn – Sông Hinh Bình Định (300 triệu
kWh/năm), v.v. Riêng trên sông Đồng Nai đã có 4 nhà
máy thuỷ điện.
VN dự trù thiết lập 22 nhà máy thuỷ điện từ nay đến
2010, với tổng công suất khoảng 4,000 MW. Hiện tại
(2007), 8 nhà máy thuỷ điện [Srok Phu Miêng (Bình
Phước), Sê San 3A (Kontum), Ea Krông Rou (Khánh
Hoà), Thác Trắng (Điện Biên), Nà Loà (Cao Bằng),
Krông Hin (Đắc Lắc), H’Chan (Gia Rai), và Dăk Nông
(Bình Phước) vừa hoàn thành, đóng góp tổng cộng 163
MW. Nhà máy thủy điện A Lưới (Thừa Thiên) bắt đầu
được xây dựng (2007) và sẽ hoàn thành năm 2010, trên
sông A Sáp, công suất 170 MW, sẽ sản xuất khoảng 686
triệu kWh/năm. Trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện có 15
nhà máy thuỷ điện đang được xây dựng, với tổng công
suất là 250MW.
Dự án thuỷ điện Sơn La, trên Sông Đà, bắt đầu xây
dựng năm 2006, sản xuất điện năm 2010, và hoàn thành
toàn diện vào 2015, với công suất 2,400MW, cung cấp
10,2 tỉ kWh mỗi năm, sẽ là nhà máy thuỷ điện lớn
nhất ở khu vực Đông Nam Á.
Lập thêm các hồ chứa nước ở Miền Bắc, Cao nguyên và
Miền Trung, vừa giảm được lụt lội trong mùa mưa, vừa
cung cấp nước trong mùa khô. Dỉ nhiên, khi thành lập
hồ chứa nước, sẽ có phản đối từ dân chúng địa
phương, nhưng nếu có kế hoạch đền bù và định cư thoả
đáng, sẽ giải quyết tốt đẹp. Các nhà môi sinh cũng
sẽ phản đối, nhưng phải đặt quyền lợi, phồn vinh của
đất nuớc lâu dài hơn cái nhìn thiển cận trong ngắn
hạn. Môi trường mới cũng sẽ được thiên nhiên tái tạo
trong lâu dài.
Điện nguyên tử là nguồn điện rẻ và sạch. Chính phủ
Hoa Kỳ đã hứa giúp VN tạo điện nguyên tử, và lò
nguyên tử tạo điện năng này sẽ hoàn tất vào 2020.
Liên Hiệp Quốc qua cơ quan IAEA cũng cho phép VN xây
dựng 6 nhà máy điện nguyên tử với điều kiện là VN
phải có bộ luật điện nguyên tử trước. Tháng 7/2007,
Chính phủ Pháp hứa giúp huấn luyện và cố vấn pháp lý
bộ luật điện nguyên tử cho Việt Nam.
Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam có tổng
vốn đầu tư khoảng 3,400 triệu USD sẽ được xây dựng
tại xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh
Thuận. Nhà máy gồm 2 tổ máy với tổng công suất dự
kiến 2,000 MW, khi đi vào hoạt động sẽ cho sản lượng
điện từ 14-15 tỉ kWh/năm. Một nhà máy thứ 2 dự trù ở
Phú Yên.
Tuy nhiên, các lò nguyên tử này có được an toàn hay
không, khi thiết kế ở vùng đông dân cư? Ngay như
Nhật Bản và Hoa Kỳ, nơi có nền khoa học tiên tiến
nhất, có đội ngủ khoa học tài giỏi nhất còn e ngại
về sự an toàn, sự mất cắp nguyên liệu và tồn trử phế
thải phóng xạ của các nhà máy điện nguyên tử (Tôn
Thất Trình 13, 14). Ngoài ra yếu tố chính trị phải
thật minh bạch, nếu không sẽ gặp vấn đề như Bắc Hàn
và Iran hiện nay.
Phong điện hay máy-điện-xa-quạt-gió. Chiều hướng
phát triển điện năng của thế giới hiện nay là phong
điện (windfarm), vừa rẻ tiền, vừa không phóng thích
khí ô nhiểm, kỹ thuật cũng đơn giản, an toàn mà bất
cứ quốc gia nào cũng có thể tự chế tạo được. Hiện
nay, Đức có một hệ thống phong điện lớn nhất thế
giới, đặt dọc bờ biển, tổng công suất 20,000 MW. Anh
quốc dự trù cung cấp 10% điện gia cư vào năm 2010
bằng phong điện. Tính đến tháng 5/2006, Anh quốc đã
thiết lập xong 5 trung tâm phong điện, với tổng cộng
122 turbines, công suất tổng cộng 340 MW; 10 trung
tâm sẽ hoàn tất trong 2007 với 631 turbines, công
suất tổng cộng 2,112 MW.
Phong điện kiểu Anh quốc có thể sản xuất đạt 27% khả
năng của gió tối đa, so với 20% ở Đan Mạch và 15% ở
Đức. Vấn đề khó khăn của phong điện là không sản
xuất điện khi không có gió. Đa số địa phương chỉ có
gió một phần trong ngày. Để giải quyết vấn đề này,
các nước Tây Âu thiết lập một mạng lưới phong điện
chung (supergrid of interconnected windfarms), nơi
nào không có gió thì điện được chuyển tới từ nơi có
gió.
Hiện tại, VN đã có Nhà máy Bạch Long Vĩ khánh thành
năm 2004, công xuất là 800 KW (Tôn Thất Trình, 14).
VN dự trù thiết lập một trạm phong điện ở đảo Chim
thuộc Côn Đảo với công xuất 6-7.5 MW do Thuỵ Sỉ tài
trợ, ở Bình Định với 50.4 MW do Đan Mạch tài trợ.
Tiềm năng phong điện của VN rất lớn, vì VN có bờ
biển rất dài (3,200km), và khoảng 2,773 hải đảo lớn
nhỏ, có gió quanh năm, gồm gió nồm (mùa hè) và gió
bấc (mùa đông), và hầu hết cả ngày lẩn đêm đều có
gió. Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế giới
trong Chương trình đánh giá về năng lượng cho Á
Châu, Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng về năng
lượng gió cao nhất Đông Nam Á, với 513,360 MW, tức
là hơn 200 lần công suất của thủy điện Sơn La khi
hoàn tất, và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của
ngành điện Việt Nam năm 2020 (Mai Thanh Truyết 18).
Việt Nam nên phát triển điện năng bằng phong điện,
vì rẻ tiền (một phong điện 4.8 MW khoảng 3.5 triệu
USD), dể điều hành sửa chửa, có thể đặt dọc bờ biển,
trên cao ốc trong thành phố, trên đỉnh đồi, trong
đồng bằng, nơi đèo heo gió hút, các hải đảo nhỏ, hay
nơi không có mạng lưới điện cung cấp, v.v. Các vùng
có nhiều gió như duyên hải Trung Việt, vùng gió Lào
ở Bình Trị Thiên và Tây nguyên, cũng là vùng nghèo
nhất đất nước, cần thiết lập phong điện để cung cấp
điện rẻ tiền cho lảnh vực nông nghiệp, đặc biệt bơm
nước đến vùng đất khô cằn, đồi trọc để tái canh tác.
Điện mặt
trời (Solar energy).
Với
khoảng 250 giờ nắng/năm ở đồng bằng Cửu Long và 300
giờ nắng vùng duyên hải Trung Việt, tiềm năng điện
mặt trời rất lớn ở VN. Ngay trong mùa mưa ở ĐBCL
(tháng 5 tới tháng 10), thông thường sáng nắng chiều
mưa, cũng đủ sản xuất điện cho nguyên ngày, nếu có
phương pháp tích trử điện. Tại VN, mỗi 1 m2, có khả
năng sản xuất từ 200 đến 1,200 Watts, tuỳ theo vùng
và tuỳ loại máy. Nhiều nhà ở vùng ĐBCL đã trang bị
máy phát điện mặt trời để thắp đèn, chạy tủ lạnh,
TV. Tại các thành phố, nhiều gia cư đã trang bị máy
đun nước nóng, 1 m2
tấm-quang-điện (panel) có thể dùng đun nước nóng 6-7
giờ mỗi ngày, cho bồn tắm, nhà bếp hay chưng nước
cất, v.v. Hiện tại trên thị trường VN có bán rất
nhiều kiểu máy nhỏ sử dụng cho gia cư. Các đại học
kỹ thuật VN cần phải nghiên cứu để hoàn thiện kỹ
thuật, tạo các tấm-quang-điện lớn đặt trên các đồi
trọc ở Miền Trung để tạo điện rẻ tiền dùng trong
nông nghiệp (bơm nước, chế biến nông sản, v.v.).
Việc bơm nước được lên các đồi trọc sẽ giải quyết
được vấn đề tái canh và gây rừng, trong kế hoạch kết
hợp giữa Nông Lâm và quang điện trên vùng đất cằn
cổi và đồi trọc ở Miền Trung và Tây nguyên. Kinh
nghiệm ở Mali (Phi châu sa mạc) có thể áp dụng được
cho Miền Trung; những tấm-quang-điện 5m x 5m được
nối tiếp nhau để tạo điện dùng bơm nước từ giếng sâu
ở vùng sa mạc. Điện cũng được tốn trử trong các bình
chứa điện để dùng khi không có ánh nắng (GS Thái
Công Tụng, liên lạc cá nhân). Đồi trọc thì đầy dẩy ở
khắp vùng duyên hải Miền Trung, đặc biệt nhiều từ
Thanh Hoá đến Quảng Ngải. Để tái canh đồi trọc, áp
dụng băng cỏ Vetiver chạy theo đồng độ cao để chống
soi mòn, giữa các băng thảo mộc này đặt
tấm-quang-điện để bơm nước từ suối hay giếng ở chân
đồi.
Nhiệt điện địa chất (geothermal electricity). Tiềm
năng điện từ nước nóng địa chất ở VN khoảng 400 MW,
chỉ thua Nhật (458 MW), nhưng hơn Indonesia (379 MW)
và New Zealand (300 MW). Những vùng có nhiều nguồn
suối nóng địa chất nằm rải rác ở Miền Bắc, đặc biệt
ở Miền Trung như Lệ Thuỷ (Quảng Bình), Mộ Đức, Nghĩa
Thăng (Quảng Ngãi),
Hội Văn (Bình Định), Tư Bông, Danh Thạnh (Khánh
hoà). Mỗi suối có khả năng sản xuất từ 20 đến 50 MW.
Việt Nam chưa chú trọng vào nguồn điện này.
Điện
sóng biển.
Đây có
thể là một tiềm năng dồi dào của VN trong tương lai
(Tôn Thất Trình 15).
Giảm sử dụng nhiên liệu đốt cháy trong tiểu công
nghệ và gia cư. Xăng, dầu lửa, than đá, than củi,
củi, tro trấu, mạc cưa v.v. thường được dùng để đốt
lò thủ công (lò bánh, lò gạch, lò vôi, v.v.) hay nấu
bếp. Có thể thay thế bằng khí-sinh-học, khí thắp từ
mỏ dầu, và điện một khi các công nghệ sản xuất điện
sạch với giá rẻ. Việt Nam đang phát triển nên xây
cất nhiều nhà cửa. Việc sử dụng than xỉ của các nhà
máy-điện-chạy-than, hiện nay có khoảng 10 triệu tấn
than xỉ phế thải lộ thiên ở nhà máy Phả Lại, để sản
xuất gạch môi sinh (Tôn Thất Trình 15) cũng là một
cách giải quyết tốt đẹp. Trong nhà, tiết kiệm điện
bằng xử dụng đèn hùynh quang (compact fluorescent)
(một watt cho 75 lumens) thay thế đèn bóng có giây
cháy sáng (Incandescent light) (một watt chỉ cho 15
lumens).
Giảm khí thải từ xe động cơ (xe chuyển vận hàng hoá,
xe hơi nhà, xe gắn máy, v.v.). Xăng-sinh-học
(bio-fuel)- hợp chất rượu cồn (ethanol) với xăng -
đã được sử dụng từ hàng thập niên nay ở Âu Châu để
chạy động cơ lớn và xe bus. Khí-hoá-lỏng
(Liquidified petroleum gas, LPG), là một hợp chất
khí propane và butane được ép dưới áp suất cao thành
lỏng, là khí phế thải ở các giếng dầu và nhà máy lọc
dầu trước đây. Công ty dầu BP sản xuất 6.4 triệu LPG
năm 2001. LPG được dùng cho gia cư, nông nghiệp
(sưởi ấm nhà kiếng trong mùa đông) và chạy xe hơi.
Thế giới hiện tại có khoảng 9 triệu xe hơi chạy LPG,
riêng Úc đã có nửa triệu xe hơi chạy bằng LPG
(khoảng 5% tổng số xe hơi của Úc). Để khuyến khích
giảm khí thải từ xe hơi nhà, chánh phủ Anh đánh thuế
nhẹ trên LPG (nên giá LPG chỉ bằng nửa giá xăng
thông thường), cung cấp ngân khoản với lải nhẹ để
đổi động cơ từ xăng thường sang LPG, và đánh thuế
lưu thông (road tax) rất nặng cho xe hơi nhà có động
cơ lớn chạy xăng thông thường.
Việt Nam với phong phú dầu mỏ cũng nên theo đà phát
triển này để sản xuất LPG một khi nhà máy lọc dầu
Dung Quất hoàn thành. VN hiện nay có trên 30 triệu
xe gắn động cơ (Honda), tạo ô nhiểm, gây nhiều tai
nạn (7,000 người chết trong 6 tháng đầu năm 2007).
Cần phải chuyển hướng từ từ sang lưu thông công cộng
(dùng xe bus), giảm lần số lượng honda lưu thông.
Biện pháp hữu hiệu nhất để giảm số lượng xe honda
lưu thông là đánh thuế thật nặng một lần khi mua xe
mới, đồng thời cải thiện phương tiện lưu thông công
cộng rẻ và tiện lợi cho người dân. Sử dụng điện mặt
trời để chạy xe hơi là trong tầm tay của thập niên
tới.
Trồng cây công nghiệp đa niên và cây rừng. Một cây
trung bình (vài ba mét) mỗi năm lấy thật sự từ khí
quyển khoảng 30 kg khí CO2
(sau khi trừ phần hô hấp thải vào khí quyển), còn
một cây lớn có thể lấy từ 300 đến 400 kg/năm. Một ha
trồng lúa 3 vụ/năm mỗi năm lấy khoảng 4.8 tấn CO2
từ khí quyển để tạo thành chất khô (lúa và rơm rạ),
nhưng rơm và gạo chạy vào dây-chuyền-thực-phẩm, nên
số lượng khí này được thải lại vào không khí sau đó.
Chỉ có những thực vật đa niên, sống từ chục năm trở
lên, mới tồn trử được C dưới dạng rắn và bền vửng
trong thân và rể.
Việt Nam hiện có khoảng 583.6 triệu m3
(tài liệu năm 1995) gỗ trên cây sống trong rừng, và
hàng năm cây rừng sinh trưởng thêm khoảng 1.5% qua
lục hoá, tức khoảng 8.8 triệu m3
gỗ/năm. Cứ trung bình 1 m3
gỗ nặng 0.5 t (chẳng hạn thông 0.53 t/ m3), thì hàng
năm rừng VN rút từ khí quyển khoảng 3.4 triệu tấn CO2
để biến thành gỗ
(dạng C bền vững). Hiện tại, 5 nhà máy
nhiệt-điện-đốt-than lớn của VN, có tổng cộng công
suất 1,500 MW, thải hồi ít nhất 9 triệu tấn CO2/năm
vào khí quyển. Như vậy rừng (khoảng 5 triệu ha rừng
khá tốt), cây công nghiệp (khoảng 250,000 ha cao su)
và nhiều loại cây khác chỉ mới hấp thụ khoảng
40-50%% số lượng khí CO2
sa thải bởi 5 nhà máy nhiệt điện này mà thôi. Cũng
nên nhớ rằng, hàng năm VN phá rừng khoảng từ 100,000
tới 200,000 ha trong thập niên 70s và 80s để canh
tác nông nghiệp, xuất khẩu gỗ và sản xuất than, củi.
Riêng phần than củi, hàng năm VN lấy từ rừng 12.4
triệu tấn củi dùng để đốt bếp và lò than, lò gạch
(Truong & Cu, 2004). VN vì vậy cần phải có chương
trình trồng nhiều cây đa niên công nghiệp sống lâu
như cao su, dừa, dừa dầu, v.v. và cây rừng hơn nữa,
ngoài việc bảo dưởng rừng hiện tại. Ít nhất, trồng
lại rừng lên 20 triệu ha của thời 1940s, tăng diện
tích cao su lên 1 triệu ha (Tôn Thất Trình 16), gia
tăng diện tích trồng dừa, dừa dầu, chà là, và cây đa
niên trường thọ khác mới đủ khả năng hấp thụ CO2
từ các nhà máy nhiệt-điện-chạy-than.
Bảo vệ
môi trường biển.
Biển hấp
thụ nhiều CO2
cho phiêu sinh thực vật và tảo lục hoá. Mặc dầu tổng
số lượng sinh thể (biomass) trong đại dương chỉ bằng
0.05% trên đất liền, nhưng đại dương hấp thụ C cũng
gần bằng thực vật trên đất liền, trung bình mỗi năm
đại dương hấp thụ thật sự được 48.5 x 103 triệu tấn
Carbon (sau khi trừ phần hô hấp), và thực vật trên
đất liền toàn cầu hấp thụ 56.4 x 103 triệu tấn
Carbon (sau khi trừ phần hô hấp) (Falkowski et al.,
1998). Hiện tại đang có nhiều nghiên cứu để gia tăng
số lượng C hấp thụ bởi vi sinh vật trong nước biển,
như việc bón sắt (Fe) làm gia tăng số lượng phiêu
sinh thực vật và cố định C, nhưng chưa biết rỏ ràng
hậu quả của việc bón chất sắt vào nước biển vào các
địa hạt môi trường khác. Trong khi chờ đợi, Việt Nam
ráng bảo vệ môi trường biển không bị ô nhiểm để các
sinh vật trong biển nẩy nở và sinh hoạt bình thường,
cũng là một phần đóng góp vào giảm hiệu ứng hâm nóng
toàn cầu. Rong biển cũng là một nguồn xăng-sinh-học
và khí-sinh-học quan trọng ở nước ta.
Biện pháp giáo dục. Và hơn hết, giáo dục là quan
trọng nhất. Ngay bây giờ, trẻ em phải được giáo dục
ngay từ tiểu học để có “chất xám” về khoa học kỹ
thuật, và ý thức “xanh” (green) về bảo vệ môi
trường.
Tóm lại, Việt Nam cần phải có những kế hoạch phát
triển kinh tế, giáo dục, với tầm nhìn xa, thấy rộng,
để đi đúng với khuynh hướng khoa học và kinh tế của
thời đại.
Cảm tạ: Giáo sư Tôn Thất Trình và Giáo Sư Thái Công
Tụng xem bản thảo và góp ý cải thiện bài này.
Tài liệu
tham khảo
1.
http://en.wikipedia.org/wiki/Greenhouse_gas
2.
http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_carbon_dioxide_emissions_per_capita).
3. Energy Information Administration (2006)
http://www.eia.doe.gov/pub/international/iealf/tableh1co2.xls)
4. http://cdiac.ornl.gov/trends/emis/tre_prc.htm
5.
http://en.wikipedia.org/wiki/Methane#Methane_in_Earth.27s_atmosphere
6. http://en.wikipedia.org/wiki/Ocean_acidification
7.
http://www.iaea.org/inisnkm/nkm/aws/eedrb/data/VN-elcc.html
8. Falkowski, P.G., R.T. Barber, and V. Smetacek.
(1998). Biogeochemical controls and feedbacks on
ocean primary production. Science, 281: 200-206.
9. Lockwood, M. and Fröhlich, C. (2007). Recent
oppositely directed trends in solar climate forcings
and the global mean surface air temperature.
Proceedings of the Royal Society A.
http://www.journals.royalsoc.ac.uk/content/h844264320314105/fulltext.html
10. Neue, H. (1993). Methane emission from rice
fields: Wetland rice fields may make a major
contribution to global warming. BioScience 43 (7):
466-73.
11. Thiện Phương Đặng Như Tây (2006). Một kỹ thuật
nông nghiệp Miền Đông Nam Phần: Hệ thống bờ, bộng,
mương cái, mương con. Nghiên cứu Văn Hoá Đồng Nai
Cửu Long, số 3, 179-192.
12. Tôn Thất Trình. Bài học an tòan về điện (năng
lượng) hạt nhân (nguyên tử) của Nhật ngày nay.
http://quangngai.net/forum/showthread.php?t=10467
13. Tôn Thất Trình. Đã đến lúc thay thiết kế các nhà
máy điện chạy than đá dơ bẩn bằng các nhà máy điện
lò hạt nhân và tua bin chạy gió chưa?
14. Tôn Thất Trình. Năng Lượng Thay Thế Tái Sinh
được tiến tới đâu rồi?
http://nongnghiepphothong.page.tl/N%26%23259%3Bng-L%26%23432%3B%26%23417%3Bng-Thay-Th%26%237871%3B-T%E1i-Sinh-%26%23272%3B%26%23432%3B%26%237907%3Bc.htm
15. Tôn Thất Trình. Watt điện từ biển.
http://nongnghiepphothong.page.tl/Watts-%26%23272%3Bi%26%237879%3Bn-T%26%237915%3B-Bi%26%237875%3Bn.htm
16. Tôn Thất Trình. Tiến mau hơn, tốt hơn, chương
trình trồng1 triệu ha cao su tiểu điền.
http://nongnghiepphothong.page.tl/Tr%26%237891%3Bng-Cao-Su.htm
17. Truong and Cu (2004). Potential and distributed
power generation from biomass residues in Vietnam
–status and prospects. Electricitry supply industry
in trasition: Issue and prospect for Asia.
18. Mai Thanh Truyết (2007). Năng lượng gió. Việt
Báo, ngày 17/1/2007.
Reading, 1 tháng 8 năm 2007
Trần-Đăng Hồng, Ph.D
|