Những nghiên
cứu của nhà Bác học Marie
Curie lúc đầu chỉ để làm luận
án về sự
Phát Xạ Tự Nhiên mà Becquerel
đã khám phá năm 1896.
Từ năm 1898 bà thử tìm những đặc
tính của sự phát xạ này một cách
chính xác bằng cách đo cường độ tối
đa (cường độ này rất yếu) của dòng
ion hóa có thể phát ra trong không
khí dưới tác dụng của nó.
Bà dùng
tĩnh điện kế
(électromètre = máy đo électron.
Dòng điện phát sinh do sự di chuyển
của điện tử) mà Pierre đã hiệu
chính, rất thích hợp với
những nghiên cứu của bà. Bà thử xác
định bằng nhiều thí nghiệm phân tích
xem có phải chỉ một mình quặng
Uranium mới có sự phát xạ không. Bà
khám phá ra rằng những hợp chất của
Thorium phát
ra cùng một loại tia.
Khoáng Uranium (Pechblende) còn hoạt
động gấp bốn lần dự tính. Marie kết
luận rằng nếu quặng Uranium hoạt
động mạnh như thế là do sự hiện diện
của những yếu tố gọi là Radioactif
(chất phóng xạ) là những chất có đặc
tính là tự biến ra chất khác rồi
phát ra năng lượng trong quặng,
nhưng với một lượng rất nhỏ nên khó
thấy được bằng phương pháp phân tích
hóa học cổ điển .
Lúc bấy giờ Pierre cộng tác với
Marie. Họ lao vô công
việc phân chia chất hóa học một cách nặng
nhọc và tỉ mỉ . Thời kỳ đó cuộc
nghiên cứu không được tài trợ như
ngày nay, nhưng căp vợ chồng trẻ đã
xin được một kho trống mà cách nhiệt
rất
kém, ẩm thấp trong khi mưa gió tuyết bất
thường. Ông bà Curie làm việc với
một người giúp việc tên André
Debierne. Nhờ máy đo tĩnh điện, họ
lấy được số đo phóng xạ trong
những phần tạo ra do sự phân rã
chất hóa học.
Tháng 7 năm 1898 họ khám phá ra chất
phóng xạ đầu tiên, đặt tên là Polonium,
để kỷ niệm quê hương của Marie.
Sự phân tích chất Baryum
thu được trong lúc xử dụng khoáng
uranium đã cho phép họ chứng tỏ rắng
có một nguyên tố phóng xạ thứ hai
hiện diện với một lượng rất nhỏ mà
họ gọi là Radium
và công bố sự khám phá của họ năm
1898 vừa nhấn mạnh rằng sự phóng xạ
của chất này rất Cao.
Marie cũng lập ra một bảng ghi tất cả
những nguyên tố phóng xạ được biết
vào năm 1910. Những đặc điểm chung để trên cùng một hàng.
Những
nguyên tố phóng xạ được biết năm
1910
|
Thorium. |
Uranium |
Actinium |
MésoThorium 1 |
RadioUranium |
|
MésoThorium 2 |
Uranium X |
RadioActinium |
RadioThorium |
Ionium |
Actinium X |
Thorium X |
Radium |
|
|
Radium A |
Actinium A |
Thorium A |
Radium B |
Actinium B1 |
Thorium B |
Radium C |
Actinium B2 |
Thorium B |
Radium C |
|
|
Radium D |
Actinium C |
Thorium D |
Radium E |
|
|
Radium F (Polonium) |
Ảnh hưởng của chất phóng xạ trong
xã hội
Ngày nay ta thường nghe tin về
những chất phóng xạ giết người hay
các nạn nhân bị mắc bệnh ung thư vì
chất phóng xạ xuất phát từ những vụ
thử vũ khí hạt nhân... Tuy nhiên
cũng những chất phóng xạ đó, lúc đầu chỉ
dùng để chữa trị ung thư. Sự
khám phá ra những chất phóng xa đã
mang lại nhiều phương tiện để nghiên
cứu vể sự cấu tạo nguyên tử và
nhân nguyên tử. Marie Curie đã tìm
ra những áp dụng của chất phóng xạ
trong ngành hóa học, trong ngành
chữa trị và nhất là trong môn sinh
học. Cách chữa trị Curie, được
Pierre hiệu chính trước ngày đám
cưới của họ, được kết hợp với ngành
giải phẫu và ngành quang tuyến X để
chống bịnh ung thư.
Marie quả quyết rằng nếu chất Radium
nằm trong tay của kẻ giết người sẽ
rất nguy hiểm. Bà thiết lập hơn 200
phòng quang tuyến trong Thế giới
Chiến tranh
lần thứ Nhất,
bà đã cứu giúp cho hơn một triệu
người bị thương.
Ngày nay, chất phóng xạ và quang
tuyến X được dùng trong ngành Y
khoa, trong ngành khảo cổ, ngành địa
chất, trong sự trùng tu những tác
phẩm nghệ thuật và bảo quản thức ăn.
Trong tương lai gần ta hy vọng sẽ có
những áp dụng mới có ích ra đời, với
điều kiện những nhà khoa học phải
hoà khớp khoa học và lương tâm.Thí
dụ
việc khám phá ra tia X của
Wilhelm
Conrad Röntgen
tháng 11 năm 1895 tượng trưng cho
cuộc cách mạng trong thế giới y khoa
vì từ đó về sau, ta có thể "nhìn bên
trong" cơ thể con người và sự khám
phá ra chất phóng xạ nhân tạo do
Irène và Frédéric Joliot-Curie vừa
cho được khả năng chế tạo những đồng
phân phóng xạ của tất cả những ngyên
tố thiên nhiên vừa cho phép ngành Y
khoa Hạch Nhân ló dạng. Những đồng
phân cho ra những ứng dụng khác
nhau, từ những nghiên cứu Y học cho
đến những áp dụng chẩn đoán và trị
liệu.
Những thành
công của chất phóng xạ trong Y học
1895 : Wilhelm
Conrad Röentgen (Ðức) khám phá tia
X và khả năng chụp hình bằng tia
X,
1896 tháng 7,
Bs Victor Despeignes (Lyon) báo tin
sự trị liệu ung thư đầu tiên bằng
tia X
1897 Bs Antoine Béclère đặt máy tia
X đầu tiên trong một bệnh viện tại
Paris.
1898 tháng 12, Pierre và Marie Curie
khám phá chất phóng xạ Radium.
1900 Hai người Ðức Otto Walkhof và
Friedrich Giesel báo cáo sự quan sát
của họ kết quả về sinh học của chất
Radium trên da như tia X.
1901 Pierre Curie và Henri Becquerel
công bố về "Tác dụng vật lý của
Radium" Một bác sĩ chuyên về da ở
bệnh viện Saint Louis Paris, Henri
Danlos, công bố kết quả của sự điều
trị bệnh Lupus bằng Radium.
Các bác sĩ thử nghiệm càng lúc càng
nhiều trên các bệnh khác.
Perthes, người Ðức, bắt đầu kỹ thuật
chữa bằng phóng xạ
1904-1906 Jean Bergonié và Louis
Tribondeau chứng minh rằng những tế
bào ung thư nhạy cảm hơn những tế
bào lành mạnh. Rồi họ đặt nền tảng
về sinh học đầu tiên cho sự trị liệu
bằng tia X.
1905 Sự hiểu biết về tác dụng tốt
đẹp của tia Radium để trị các bứu
của da và cổ tử cung, đó là sự ra
đời của Curiethéraphie (khoa trị
liệu Curie)
1906 Armet de Lisle xí nghiệp Radium
ứng tiền cho sự thành lập phòng thí
nghiệm để nghiên cứu về những tác
dụng sinh học và y học của Radium.
Tạo ra khoa trị liệu Radium.
(Radiumthérapie)
1909 tháng 12, Ðại học Paris và Viện
Pasteur quyết định xây Viện Radium.
1914-1918 Marie Curie phụ tá Antoine
Béclère với chức vụ trưởng khu tia X
cho quân đội.
1918 Thành lập hội Pháp-Anh-Mỹ chống
ung thư.
1920 Thành lập tổ
chức Curie
1921-1928 Thành lập 21 trung tâm
chống ung thư cho nhà thương
Paul-Brousse ở Villejuif
1923 Georg de Hevesy (Suède, Thụy
Ðiển) dùng những chất đồng phân như
là những vết hóa sinh (đặc biệt cho
thực vật), một phương cách mà ông đã
tưởng tượng năm 1913
1924 Hai y sĩ Mỹ, Blumgart và Weiss,
lần đầu tiên dùng vết Radium C để
tính tốc độ tuần hoàn máu từ cánh
tay này sang cách tay kia của một
người.
1934 Irène và Frédéric Joliot-Curie
khám phá ra chất phóng xạ nhân tạo
|