|
Einstein (1879-1955) Nhà Vật lý học, cha đẻ thuyết
Tương Ðối và bom nguyên tử.
Dù đã mất từ năm 1955, ngày nay Albert Einstein
vẫn còn cái để dạy cho chúng ta. Lần này
là một bài học về khoa học thần kinh, và
có lẽ là cả bài học về nuôi dạy
trẻ. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng chất
xám trong bộ não đã sản sinh ra một loạt
đột phá khoa học, bao gồm cả Thuyết Tương
Đối, các nhà nghiên cứu Canada đã đi đến
kết luận: Bộ não của Einstein thật sự
khác lạ. Đặc biệt là họ đã phát
hiện thấy phần não liên quan đến việc
lập luận toán học rộng hơn 15% so với
bình thường, và không bị phân chia bằng
một nếp gấp như vẫn thường
thấy trong não của tất cả chúng ta.
Bộ não của Einstein là một mẫu vật có giá
trị vì những lý do vượt ra ngoài việc
Einstein có năng lực suy nghĩ siêu phàm. Trước
hết là, não của ông có hình dạng cực
tốt khi ông không còn dùng đến nó. Định
mệnh đã can thiệp vào chuyện này bằng cách
đã cho ông cái chết đột ngột, ông bị
phình tắc động mạch chủ bụng. Einstein
đã biết trước và đã sắp xếp
để lại bộ não của mình cho các nhà khoa
học nghiên cứu. Chính vì vậy, trong vòng 7 giờ
sau khi Einstein mất, não của ông đã được
lấy ra khỏi hộp sọ. Để tránh bị
hư hỏng, nó đã được tiêm, và rồi
được treo lơ lửng trong Formalin. Sau đó,
bộ não của ông được đo đạc,
chụp ảnh và cắt nhỏ thành 240 khối
nhỏ, mỗi khối có kích thước như
một thỏi đường. Các khối này
được ngâm trong celloidin và một số đã
được cắt thành những phần nhỏ hơn
để xét nghiệm bằng kính hiển vi.
Những gì mà Einstein cho phép những người khác
làm với chính bộ não của mình trong khi ông
vẫn còn dùng đến nó đã khiến cho mẫu
vật não mà ông để lại hữu ích hơn
nhiều. Tự đánh giá có cái gì đó đặc
biệt trong cách mà não của chính mình làm việc,
Einstein đã cố gắng hết sức để giúp
cho các nhà khoa học đồng nghiệp làm sáng
tỏ bí ẩn này, bằng cách đồng ý xét
nghiệm điện não để ghi lại hoạt
động sóng não của mình. Ông cũng chấp
nhận các cuộc phỏng vấn, trong đó ông
giải thích là ông đã giải quyết các vấn
đề như thế nào. Cách giải thích của
ông nghe hết sức lạ thường. Có lần
Einstein nói: "Chữ dường như chẳng có
vai trò gì, mà là có ít hay nhiều các hình ảnh rõ ràng".
Quan sát này đã cung cấp manh mối lâm sàng cho
Sandra F.Witelson, trưởng nhóm nghiên cứu đại
học McMaster, nhóm này xem ra đã khám phá ra bí ẩn
bộ não của thiên tài Einstein.
BỘ BẢN ĐỒ NÃO
Các thầy thuốc Hy Lạp cổ đại thường
hồ nghi: Các chức năng khác nhau có mối liên
hệ với các phần khác nhau của não? Đặc
biệt, họ chú ý thấy những cú đấm vào
đằng sau sọ có thể gây mù lòa. Điều
này càng được khẳng định một cách
khoa học hơn trong suốt Chiến tranh Thế
giới lần thứ I bởi các bác sĩ phẫu
thuật trong quân đội Đức, những người
đã phẫu thuật binh lính bị thương
ở đầu. Ngày nay, đã có một "bộ
bản đồ" chi tiết định vị các
phần của não điều khiển các hoạt
động khác nhau của cơ thể.
Vì chức năng khác nhau cư trú ở các vị trí
khác nhau, nên các nhận xét của Einstein về sự
hình dung - mường tượng có ý nghĩa quan
trọng đối với Witelson. Ở mức độ
mà ở đó Einstein khám phá thiên nhiên, thì các
vấn đề vật lý mà ông giải quyết là
các bài toán. Nhìn vào phần não của Einstein liên quan
đến việc lập luận toán học và so sánh
nó với cùng khu vực đó ở các bộ não bình
thường hơn, có thể sẽ cung cấp cho chúng
ta chìa khóa giải đáp được bí ẩn thiên
tài của Einstein.
Bà Witelson hiểu biết nhiều về các bộ não
thông thường: Bà đã sưu tập chúng. Witelson
đã nghiên cứu bộ sưu tập của mình và
khôi phục lại não của những người
đóng góp vào đây. Bộ sưu tập này gồm
não của những người khỏe mạnh về
mặt cơ thể lẫn tinh thần, có chỉ
số thông minh từ 107 đến 125. Không có não
của những người đần độn, nhưng
cũng không có não của các nhà khoa học tên
lửa.
Lần so sánh đầu tiên làm mọi người
thấy ngượng vì bộ não của vị thiên tài
tột đỉnh này rõ ràng là không có gì khác thường.
Bà Witelson nói: "Giải phẫu thể đại não
của Einstein nằm trong các giới hạn bình thường,
trừ các thùy đỉnh. Sự nhận thức
về thị giác và không gian, sự hình thành lập
luận toán học và sự tưởng tượng
về chuyển động đều được
thực hiện chủ yếu thông qua trung gian là vùng
đỉnh sau bên phải và bên trái". Nếu như
bạn đã có lần tát vào bên đầu mình sau
khi nói cái gì đó ngu ngốc, thì bạn đã đánh
đúng chỗ đó rồi đấy. Trong não
Einstein, các vùng này rộng hơn 15% so với bình thường
và đang có khuynh hướng mất dần đi
một cấu trúc gấp được tìm thấy
trong não của tất cả những người bình
thường như chúng ta.
Phát hiện này hoàn toàn không gây ngạc nhiên. Các nhà
nghiên cứu trước đây cũng đã nhìn
thấy những vùng não lớn ra tương tự như
vậy. Bà Witelson cho biết: "Trong não của nhà toán
học Gauss và nhà vật lý học Siljestrom, cũng
thấy có sự phát triển rộng ra của các vùng
đỉnh dưới".
DÙNG ĐẾN HAY ĐỂ MẦT?
Xét nghiệm của nhóm nghiên cứu Witelson không
trả lời câu hỏi sâu hơn về việc
liệu sự phát triển của các phần đặc
biệt trong não có thể có liên quan đến sự
thông minh hay không. Xét nghiệm này cũng không giải
thích vùng não này đã lớn ra như thế nào. Bước
kế tiếp các nhà nghiên cứu sẽ tiến hành
là xét nghiệm các nhà toán học tình nguyện,
những người này sẽ làm toán trong khi
được chụp PET(positron emission tomography:
chụp tia X cắt lớp phát positron). Được
dùng chủ yếu trong các phòng thí nghiệm nghiên
cứu, các máy chụp cắt lớp PET tạo ra các
hình ảnh cho thấy phần nào của não làm
việc khi đối tượng thí nghiệm đang
làm các công việc khác nhau. Kỹ thuật này đã
từng được dùng đến để xác
định các phần nào của não có liên quan khi chúng
ta nhìn, nói hay suy nghĩ. Nếu như vùng đỉnh
sau phát triển cực mạnh hơn bình thường
ở những người có tài năng toán học,
thì hình hiển thị của máy chụp PET sẽ sáng
rực lên như cây thông Nô-en.
Nếu điều này xảy ra, các nhà khoa học
sẽ đối mặt với một vấn đề
thậm chí lớn hơn: Có phải một số người
mới sinh ra đã có bộ não được điều
chỉnh tự nhiên cho việc lập luận toán
học? Hay là, sự khác biệt về mặt vật
chất này là sản phẩm của sự trải
nghiệm? Ý kiến cho rằng những gì mà một
đứa bé nhìn, nghe và cảm nhận ảnh hưởng
tới sự phát triển của não bộ từ lâu
đã không còn là xa lạ. Ngày càng có nhiều
chứng cứ cho thấy: Các trải nghiệm
thời thơ ấu có ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của não bộ.
Chẳng hạn như những đứa bé bị
bệnh đục nhân mắt bẩm sinh sẽ bị
mù lòa nếu như bệnh không được
chữa ngay. Các tế bào liên quan đến việc
phân giải hình ảnh nhìn thấy, ở một
mức độ nào đó, đơn giản là
bị chết dần đi. Não của trẻ em xem ra
cũng được "cài đặt" để
học cách hiểu nhiều ngôn ngữ, miễn là chúng
được dạy khi chúng còn rất nhỏ. Khi chúng
đến tuổi trung học, các mối liên hệ
thần kinh cho phép học nhanh các ngôn ngữ đã
mất đi lâu rồi. Vì trường hợp trên là
đã được xác nhận, nên có lẽ người
ta sẽ tìm thấy được chìa khóa để
trở thành thiên tài trong thời thơ ấu, và các
trải nghiệm và kích thích mà trẻ trải qua.
Nếu như dòng lý luận khoa học ngày nay đi
khám phá hoạt động của não trở nên
mệt lử (như nhiều người hoài nghi là nó
sẽ như vậy), thì bài học cuối cùng mà
Einstein phải dạy có lẽ là: Sự phát triển
của não bộ tuân thủ theo cùng quy luật tự
nhiên như mọi phần khác của cơ thể. Nói
cách khác, các bậc cha mẹ, nếu không khiến cho
trẻ nhỏ dùng não bộ của mình, chúng sẽ
mất nó. Và một trong những hậu quả có
thể là: trẻ sẽ chẳng còn cảm giác khó
chịu khi bị người lớn cấm xem ti vi!
@ Chú thích: Bộ não của Einstein đã được
cắt ra thành những khối nhỏ và được
nghiên cứu bởi các đồng nghiệp của ông,
những người mà giờ đây khẳng định
rằng bộ não của Einstein thực sự khác
lạ
(Theo Popular mechanics)
|