Phần I - Tương Đối Hẹp
Ai trong chúng ta đi máy bay cửa sổ đóng
kín, sau khi máy đã vút lên cao để bay đều đều, mà không cảm thấy như vẫn
ngồi yên, đâu có nhận ra mình di chuyển với vận tốc khoảng ngàn cây số trong
một giờ? Hơn bốn trăm năm trước đây Galileo Galilei cũng đưa ra một thí dụ
tương tự, mở đầu cho nguyên lý
tương đối mang tên ông: trong hầm
kín của một chiếc tàu thủy di chuyển thẳng và đều đặn
(vectơ
vận tốc cố định, không thay đổi với thời gian), ta hãy quan sát những
con bướm lượn và những giọt nước tí tách rơi. Nay tàu đứng yên, nhịp độ bướm
bay và nước rơi vẫn như khi tàu di chuyển, chẳng có gì thay đổi. Rồi tàu lại
di chuyển nhưng với vận tốc và
chiều hướng cố định khác, bướm vẫn lượn và nước vẫn rơi hệt như trước. Những
định luật vật lý miêu tả sự vận hành của các hiện tượng tự nhiên (bướm lượn,
nước rơi trong mấy thí dụ trên) không phụ thuộc vào vận tốc di chuyển thẳng
và đều của hệ quy chiếu trong đó xảy ra các hiện tượng vật lý. Người ở trong
tàu kín mít nếu chỉ quan sát đo lường những hiện tượng trong tàu mà không
tiếp xúc với bên ngoài để so sánh thì chẳng sao biết là tàu đứng hay đi, và
đi với vận tốc nào, chiều hướng nào. Nói cách khác, di động đều đặn chỉ là
chuyện tương đối, chẳng sao phân biệt bến hay tàu cái nào đứng yên, cái nào
chuyển vận.
Nguyên lý tương
đối được Galilei tóm tắt trong một câu ngắn gọn ‘’di chuyển đều
đặn cũng như không’’, hàm ý
là những định luật cơ học không thay đổi trong các hệ
quy chiếu quán tính[1].
Thí dụ của hai hệ quy chiếu quán tính: hệ K bất động
còn hệ K’ di chuyển đều đặn với
vận tốc v. Vì chuyển động của một vật (kể cả ánh sáng) là sự thay đổi
vị trí không gian của vật đó theo thời gian, nên ta gọi tọa độ của đa tạp
không- thời gian bốn chiều trong hệ quy chiếu K là x, y, z, t (toạ
độ của không gian ba chiều là x, y, z và của thời gian là t) còn toạ độ
trong hệ quy chiếu K’ là x’, y’, z’, t’. Hai đa tạp đó có tung
độ là trục thời gian Ot (O‘t’) và hoành độ là ba trục không gian Ox, Oy, Oz
(O‘x’, O‘y‘, O‘z’).
Phương trình
f(x,y,z,t) diễn tả một sự kiện vật lý trong hai hệ quy chiếu
quán tính K và K’ phải bất biến, tức là không
thay đổi dạng: f(x, y, z, t) = f (x’, y’, z’, t’). Khi nguyên lý tương đối
áp dụng cho lực điện-từ để diễn tả tính bất biến của vận tốc ánh sáng c (khoảng
300 ngàn km/s) trong mọi hệ quy chiếu quán tính thì hàm f(x, y, z, t) mang
dạng x² + y² + z² – (ct)². Lúc nào và ở đâu cũng tồn tại một đại
lượng bất biến s² º
x² + y² + z² – (ct)², giá trị bằng số của nó là 0 vì c = r/t
với r = (x² + y² + z²)½.
Đồ thị của
phương trình s² º
x² + y² + z² -
(ct)² trong đa tạp bốn chiều không-thời gian là một cái nón ánh
sáng[2]
(light cone) và biểu thức x² + y² + z² – (ct)² đóng vai trò cực
kỳ quan trọng trong sự khám phá thuyết tương đối (hẹp và rộng) như ta sẽ
thấy.
A- Không cần ether
để truyền đi sóng điện-từ
Dùng kết quả thực nghiệm này, Einstein bèn chấp
nhận nguyên lý tương đối áp dụng cho hiện tượng điện-từ như một tiên
đề, theo đó vận tốc ánh sáng c bao giờ cũng bằng nhau trong tất cả
các hệ quy chiếu quán tính, giả thuyết chất liệu ether tràn ngập vũ trụ do
đó không còn cần thiết nữa. Dùng tiên đề này, ông suy diễn những hệ quả và
tiên đoán những hiện tượng kiểm soát đo lường được. Tiếp cận cách tân như
vậy khởi đầu từ Galilei - trong đó suy luận, phê phán bằng lý tính và kiểm
chứng bằng thực nghiệm đóng vai trò chủ đạo - là bài học sâu xa cho hậu thế
và tiếp tục làm kim chỉ nam cho tiến trình nghiên cứu sáng tạo của khoa học
ngày nay. Phương pháp của Einstein khác hẳn phương pháp của Hendrik Lorentz
và Henri Poincaré vì hai vị (và nhiều nhà vật lý khác) đều phải đề xuất một
vài giả thuyết về vật chất và lực tác động lên chúng để tìm cách chứng minh
ngược lại là hiện tượng điện-từ phải tuân thủ nguyên lý tương đối.
Một bên chấp nhận kết quả thực nghiệm của Michelson và Morley như một tiên
đề không cần bàn cãi, còn một bên thì lại tìm cách chứng minh tiên đề này
bằng một vài giả thuyết nào đó trong cơ học.
Hai cách tiếp cận tuy trái ngược nhưng đều cùng
triển khai một phương trình diễn tả tính bất biến của vận tốc ánh sáng trong
các hệ quy chiếu quán tính: c = r/t = r’/t’ với r² = x² + y² + z², r’² = x’²
+ y’² + z’²
B- Hoán chuyển Lorentz của không-thời
gian và Cơ học tương đối
tính
Nếu w là vận tốc đo trên tàu của bất kỳ một vật
nào, còn v là vận tốc của tàu chạy so với bến đứng yên, thì vận tốc của vật
đó đo trên bến mà cơ học cổ điển đương nhiên chấp nhận phải là w ± v.
Einstein nhận thấy luật này chỉ gần đúng và ông tìm ra công thức (w
± v)/(1 ± wv/c2) thay thế nó[4].
Khi vật đó là ánh sáng (w = c), kỳ thú thay công thức (c ±
v)/(1 ± cv/c2) không tùy thuộc vào v nữa mà
lúc nào cũng bằng c, giải thích thoả đáng thực nghiệm của Michelson
và Morley. Dù ta bay nhanh đến đâu chăng nữa, thậm chí v = 99,99% c,
ta vẫn không sao đuổi kịp ánh sáng vì nó vẫn chạy xa ta với vận tốc c
như khi ta đứng yên!
Thông điệp cách
mạng của Einstein so với cơ học cổ điển Newton, là chẳng có một thời gian
tuyệt đối và phổ quát trong một không gian biệt lập với thời gian, chúng mật
thiết liên đới, mỗi thời-điểm phải gắn quyện với mỗi không-điểm trong một
thực tại bốn chiều sau này gọi là thế giới Minkowski để diễn tả sự vận hành
của các sự kiện
vật lý, cái lúc
nào phải
kèm theo cái ở
đâu.
Sân khấu của các sự kiện không phải là thời gian,
cũng không phải là không gian mà là đa tạp tích hợp: không-thời gian.
Sự gắn bó chặt chẽ thời gian với không gian (qua thế giới bốn chiều
Minkowski) để diễn tả các sự kiện vật lý phản ánh tính chất phong phú và độc
đáo của cơ học tương đối tính. Hermann Minkowski là người đầu tiên năm 1908
đề xuất thế giới bốn chiều vì ông thấu hiểu bản chất gắn quyện thời gian với
không gian của thuyết tương đối mà ngay cả Einstein năm 1905 cũng chưa nhận
thấy khi ông gắn ký hiệu i (i2 =
-
1) vào thời gian t trong đẳng thức s2 = x2 + y2
+ z 2 + (ict)2.
Thời gian thậm
chí còn đóng vai trò thước đo độ dài của không gian, định nghĩa chính thức
hiện đại của một mét là 1/(299792458) của một giây-ánh sáng. Đơn vị của độ
dài không gian như giây-ánh sáng (hay năm-ánh sáng) chỉ định khoảng cách mà
ánh sáng di chuyển trong một giây (hay một năm). Vận tốc c như vậy
đóng vai trò hằng số cơ bản của tự nhiên.
Có muôn ức thời gian, t và t’ đều chỉ định thời
gian trong hai hệ quy chiếu chuyển động với vận tốc khác nhau. Đồng hồ trong
mỗi hệ quy chiếu quán tính đều có nhịp độ tích tắc nhanh chậm khác nhau,
khoảng cách thời gian của mỗi hệ quy chiếu tùy
thuộc vào vận tốc chuyển động của hệ ấy. Nhịp đập thời gian của bạn khác của
tôi, ở mỗi điểm không gian lại gắn một đồng hồ đo thời gian với nhịp độ tích
tắc khác nhau. Sở dĩ bạn và tôi
tưởng rằng chúng ta chia sẻ một thời gian phổ quát, chỉ vì cộng nghiệp con
người trong cái không gian quá nhỏ bé của trái đất so với vũ trụ, bạn và tôi
đâu có xa nhau gì, vận tốc tương đối giữa chúng ta thấm gì so với vận tốc
ánh sáng (v²⁄c² « 1, γ ≈ 1). Không có mũi tên thời gian lạnh lùng
trôi của trực giác mà cơ học cổ điển Newton thừa nhận, không có cái đồng
thời phổ quát và cái hiện tại chẳng thể xác định và giữ vai trò
ưu tiên đặc thù nào hết vì liên tục có muôn vàn đỉnh nón ánh sáng
(phụ chú 2) trong thế giới Minkowski của các sự kiện, mỗi đỉnh nón là một
cái bây giờ. Đã không có hiện tại thì nói chi đến quá khứ và tương
lai, đó là nội dung kinh ngạc của thuyết tương đối trong nhận thức về thời
gian, cái ‘bây giờ’ chỉ là một ảo tưởng. Diễn tả hàm súc về nhận thức này có
lẽ nằm trong bức thư Einstein gửi cho con trai của Besso[6]
khi nghe tin bạn mất. Bức thư viết: ‘’Vậy bạn đã trước tôi một chút giã từ
cái thế gian lạ lùng này. Nhưng cái đó chẳng nghĩa lý gì. Đối với chúng ta,
những nhà vật lý có xác tín, sự chia cách quá khứ, hiện tại, tương lai chỉ
là một ảo giác, dẫu nó dai dẳng đến thế nào’’.
C-Vài
hệ quả kỳ diệu được kiểm chứng bằng thực nghiệm.
C1- Hệ
quả đầu tiên của thuyết Tương đối hẹp là khi chuyển động với vận tốc v thì
một mét chiều dài không gian và một giây đồng hồ của thời gian sẽ thay đổi,
khoảng cách độ dài không gian co ngắn lại và thời gian dãn nở ra. Sở dĩ
Einstein khám phá ra hai điều quan trọng này vì ông thấu hiểu ý nghĩa vật
lý của phương trình hoán chuyển x, t, trong khi Lorentz tuy cũng đã thấy
không gian co cụm là một đáp số của phương trình trên, nhưng cho đó chỉ là
một hiếu kỳ toán học của phép hoán chuyển không có ý nghĩa vật lý nào khả dĩ
kiểm chứng được bằng thực nghiệm. Còn sự dãn nở của thời gian thì duy nhất
chỉ có Einstein khám phá ra.
1- Câu hỏi
là một mét mà hai đầu đặt ở hai điểm O‘ và X‘ (toạ độ x’ của J’) thì
người quan sát nằm trong J đo lường thấy là bao nhiêu ở bất kỳ một
thời điểm t nào, đặc biệt t = 0 ? Nói cách khác, khoảng cách OX (tọa độ x
của J) khác biệt ra sao so với khoảng cách x’ = O‘X’ di động với vận
tốc v ?
Phương trình x’
= γ
(x
-
vt) với t = 0 cho ta x = x’/γ = x’√1 − (v² ⁄c²). Một mét (x’ = 1m)
chuyển động với vận tốc v, độ dài 1m ấy đo trong J (x = x’/γ) bị co
đi bởi √1− (v² ⁄c²)
<
1. Nếu coi OX chuyển động (vận tốc
-
v) so với O’X’ đứng yên (J
chuyển động so với J ' đứng yên) thì phương trình x =
γ
(x’ + vt) cũng cho kết quả tương tự x’ = x/γ = x√1− (v² ⁄c²), độ dài
không gian của một vật di động với vận tốc
±
v bao giờ cũng bị co bởi √1− (v² ⁄c²). Độ dài không gian di
chuyển theo hướng song song với vận tốc vectơ v bị co
ngắn lại, một mét trên tàu bằng √1− (v² ⁄c²) mét trên bến,
cũng thế một mét trên bến bằng √1−
(v² ⁄c²) mét trên tàu. Nhưng độ dài không gian khi di chuyển theo
hướng thẳng góc với v thì không thay đổi trong mọi trường hợp.
2- Câu hỏi
là một giây của đồng hồ đặt ở điểm O‘ của J’ di động với vận tốc v
thì người quan sát nằm trong J đo lường thấy là bao nhiêu ? Nói cách
khác, khoảng cách thời gian t của đồng hồ trong J khác biệt ra sao
so với khoảng cách thời gian t’ của đồng hồ trong J’ ?
Phép hoán
chuyển Lorentz cho ta: t = γ t’ = t’/√1− (v² ⁄c²). Thực thế, thời
gian t’ chỉ định bởi đồng hồ di động đặt ở trung tâm toạ độ O‘ (x’ = 0) cho
ta (ct’)2 – 0 = (ct)2 [1 – (x²/c²t²)],
vậy (ct’)
= (ct)√1 – (v2/c²)
vì v = x/t, do đó t = γ
t’. Cách chứng minh khác cho cùng một kết quả: với x’ = 0, phương trình x’ =
γ
(x-
vt) cho ta x = vt. Thay thế x bằng vt trong phương trình thứ hai t’ =
γ
(t
-
xv/c2) cũng đưa đến t =
γ
t’.
Kết quả t = γ
t’ bảo cho ta là một giây đồng hồ ở trên tàu thì người trên bến thấy bằng γ
giây, thời gian trên tàu như dãn nở ra γ lần.
Nếu đồng hồ trên bến có nhịp đập mỗi tíc tắc là một giây thì nhịp đập mỗi
tíc tắc của đồng hồ trên tàu phải mất
γ giây, đồng hồ trên tàu đập chậm đi γ lần. Vật di chuyển càng nhanh thì
thời gian t’ của nó càng trôi chậm, thời gian của ánh sáng ngưng đọng như đóng
băng hay dài vô tận.
Từ nay ta
gọi chung tất cả các τ
º
t/γ
là thời
gian riêng của hệ quy chiếu chuyển động với vận tốc
v,
còn t chỉ định thời gian của hệ quy
chiếu bất động.
Sự dãn nở của
thời gian (nhịp độ đồng hồ đập chậm đi) của các vật chuyển động với vận tốc
lớn đã được thực nghiệm kiểm chứng nhiều lần từ những năm 1970 dùng đồng hồ
nguyên tử đặt trên máy bay, hoả tiễn, tiếp nối bởi biết bao ứng dụng thực
tiễn trong đời sống con người mà Hệ thống Định vị Toàn cầu (Global
Positioning System, GPS) là một thí dụ. Trên các vệ tinh của GPS, sự chính
xác cực kỳ của nhịp độ đồng hồ là điều kiện tối quan trọng cho GPS đo đạc
khoảng cách không gian thành công. Các vệ tinh vì chuyển động nhanh so với
mặt đất đứng yên nên thời gian trên đó dãn nở theo thuyết Tương đối hẹp.
Trái lại theo thuyết Tương đối rộng (coi Phần II)
thì thời
gian lại co cụm vì cường độ trọng lực ở trên
vệ tinh giảm đi so với mặt đất, như vậy ta phải kết nối hai hệ quả trái
ngược (của thuyết tương đối hẹp và rộng) về sự thay đổi nhịp độ tích tắc
đồng hồ trên vệ tinh GPS.
Câu chuyện ẩn
dụ Từ thức thăm Thiên thai rồi trở về cố hương thấy cảnh vật đổi thay nhiều,
thời gian dưới trần trôi quá nhanh, một kịch bản Đông phương của nghịch
lý hai anh em sinh đôi, người anh bay với vận tốc cao trong vài năm rồi
trở về thấy em ở lại nhà nay đã thành lão, hay với nhân vật M. Tompkins
(trong truyện huyền thoại của nhà vật lý G. Gamow) sống trong một thế giới
tưởng tượng ở đó vận tốc ánh sáng chỉ bằng 30 km/h, có bà mẹ đặt một con sơ
sinh trên vòng ngựa gỗ quay với vận tốc xấp xỉ bằng vận tốc ánh sáng, còn
con sinh đôi đặt ở dưới đất bên cạnh. Quên đi năm sau trở lại thấy bé trên
vòng ngựa gỗ vẫn gần như xưa còn hai mẹ con trên đất già thêm là một ẩn dụ
khác[7].

C2- Hệ quả tuyệt vời thứ hai là
phương trình E =
γmc² của thế kỷ, liên
kết năng lượng E khổng
lồ với khối lượng m nhỏ
bé của vật chất, trong một gam khối lượng tiềm ẩn một năng lượng hơn hai
mươi ngàn tỷ calorie, tương đương với nhu cầu dinh dưỡng của mấy chục ngàn
người trong vài năm!
1-Mấy điều sơ đẳng trong
cơ học cổ điển
Khối lượng của vật chất là một
khái niệm quan trọng trong khoa học mà nhân loại đã ý thức ít nhiều về nó
ngay từ thuở các nền văn hiến ngàn xưa. Một cách định tính, ta hãy khởi đầu
với cơ học cổ điển của Galilei và Newton theo đó khối lượng m của một
vật được hiểu như bản tính nội tại của nó, m gói ghém “số lượng của
vật chất” kết tụ trong đó.
Còn năng lượng? Dưới dạng sức
nóng - mà ta gọi là nhiệt năng - có lẽ con người đã cảm nhận ra khái niệm
năng lượng ngay từ thuở họ phát minh ra lửa, không phải ngẫu nhiên mà ngôn
từ calorie đã được dùng để chỉ định đơn vị năng lượng. Nó là căn nguyên tác
động lên vạn vật để làm chúng biến đổi dưới mọi hình thái hoặc làm chúng di
chuyển. Như vậy năng lượng chẳng thể tách rời khỏi lực và để diễn tả chính
xác thì năng lượng được định nghĩa như tích số của vectơ lực F
nhân với vectơ chiều dài x mà vật di chuyển do tác động của
F áp đặt lên nó. Thực vậy, tích số F. x trước
hết gọi là công (work) làm ra bởi lực F tác động lên
một vật. Đó là một định nghĩa hợp lý vì nó chỉ định cái công sức mà lực phải
bỏ ra để làm cho vật di chuyển một đoạn chiều dài x với vận
tốc v = dx/dt. Khi ta mang cho vật cái công
của F thì vật đó phải biến đổi bởi vì nó thu nhận một năng
lượng E, và ta định nghĩa năng lượng mà vật thu được chính là công
của lực F mang cho nó. Vậy E = F.x,
và dưới dạng vi phân dE = F.dx, ta suy ra
là sự biến đổi theo thời gian t của năng lượng chính là tích số F.v:
dE/ dt = F.v mà ta sẽ dùng để tìm ra phương
trình E = γmc2
của thế kỷ.
Trong cơ học có hai loại năng
lượng thường được nhắc đến: thế năng và động năng. Thí dụ thứ nhất là trọng
lực Fg = mg (với g =
|g| ≈ 9.81m/s2 chỉ định gia tốc tạo
nên bởi trọng trường của trái đất). Sức hút Fg kéo
khối lượng m rơi từ trên một độ cao ℓ = |x|
xuống mặt đất. Vì Fg và x song song
và cùng hướng về trung tâm trái đất nên Fg.x
= mgℓ. Đại lượng mgℓ gọi là thế năng của vật đặt ở độ
cao ℓ so với mặt đất. Ở bất kỳ một điểm cao ℓ nào đó, vật mang sẵn một năng
lượng mgℓ tiềm tàng, một thế năng.
Thí dụ thứ hai là với bất cứ
một lực F nào ta cũng có dE = F.dx,
khi thay dx = vdt và dùng phương trình cơ bản
F = ma = mdv/dt của cơ học Newton,
ta có dE = mv.dv, làm tích phân ta được E
= (½)mv2, với v = |v|. Ta gọi năng
lượng (½)mv2 là động năng. Một vật khối lượng m
chuyển động với vận tốc v mang động năng (½) mv2.
Một vật đứng yên (v = 0) rơi từ một độ cao ℓ, khi chạm đất nó có vận tốc v =
(2gℓ)½ vì thế năng mgℓ của nó biến thành động năng
(½) mv2, minh họa định luật bảo toàn năng lượng.
Sau hết, ta định nghĩa vectơ
xung lượng p = mv và phương trình cơ bản F
= mdv/dt nay viết dưới dạng F = dp/dt.
2- Hai con đường đến E = γmc2
Tại sao hai con đường? Nhà vật
lý kỳ tài Richard Feynman từng khuyến khích là nếu có thể thì nên suy diễn,
trình bày hay chứng minh một kết quả khoa học nào đó theo nhiều phương pháp
khác nhau để rọi sáng vấn đề. Tập sách tuyệt vời The Feynman Lectures on
Physics có nhiều thí dụ diễn giảng, tiếp cận khác nhau mà lại bổ túc cho
nhau.
Trong cơ học tương đối tính (hay thuyết tương
đối hẹp), theo Einstein[8]
để tránh sự mơ hồ, thậm chí nhầm lẫn về khái niệm khối lượng, ta không nên
đưa ra hai ký hiệu: m(v) ≡ γm và m0 ≡ m(v = 0) theo đó m0
là khối lượng bất động của một vật và m(v) = m0/√1− (v²⁄c²)
là ‘khối lượng tương đối tính’ khi vật chuyển động với vận tốc v. Tích số
của γ với m không
nên hiểu theo nghĩa “khối lượng thay đổi với vận tốc’’ và viết γm dưới
dạng m0/√1 –
(v2 /c2).
Tiếc thay hai ký hiệu m0 và m(v) và cách diễn tả chúng
hãy còn thấy dùng trong nhiều sách giáo khoa ở Âu, Á, Mỹ hiện đại (kể cả
cuốn the Feynman Lectures on Physics, tome 1), mặc dầu Einstein đã cảnh báo
từ năm 1948.
a- Henri Poincaré, nhà toán học uyên bác và đa tài Pháp, năm 1900 (trước
năm thần kỳ 1905) đã viết ra[9]
E = mc2 (thiếu hệ số γ cốt lõi), nhưng phương pháp
thiếu nhất quán của ông để tìm ra nó khiến tác giả đã quên hẳn đi đến nỗi
năm 1908, ba năm sau khi Einstein khám phá ra E0 = mc2,
Poincaré - khi so sánh một vật phát xạ ánh sáng với một khẩu đại bác bắn ra
một viên đạn - còn viết trong La dynamique de l’électron, Science et Méthode
(1908) mấy câu sau: ‘’ Khẩu đại bác giật lùi vì viên đạn bị bắn ra đã tác
động trở lại. Trường hợp vật phóng quang lại là chuyện khác, ánh sáng phát
ra không phải là vật chất, đó là năng lượng, mà năng lượng thì không có
khối lượng’’. Qua câu trên, Poincaré tuy có viết ra E = mc2
tám năm trước nhưng ông đã quên nó rồi.
Poincaré tìm ra E = mc2 bằng cách nào? Trước hết, ông xem
xét một chùm sóng ánh sáng có năng lượng E và vectơ xung lượng p.
Theo định lý Poynting trong điện-từ thì p ≡ |p| = E/c, điều
chính xác đối với photon không có khối lượng. Cái khuyết điểm của Poincaré
là dùng phương trình của cơ học cổ điển p = mv (với
v = c) để áp dụng cho ánh sáng vì năm 1900 ông chưa suy diễn ra
hệ số quan trọng γ. Đó là một sai lầm vì cơ học cổ điển chỉ áp dụng cho
những hệ di động chậm, v « c. Khi kết hợp hai cái xung khắc là p =
E/c với p = mc, ông thấy E = mc2. Thiếu
hệ số γ, công thức này mang nghịch lý là photon có khối lượng m = E/c2
≠ 0. Tiếc thay ngày nay hãy còn vài tác giả bảo hoàng hơn vua cho rằng
Poincaré là tác giả của phương trình của thế kỷ[10].
b- Cần nhắc điều quan trọng là trong thuyết tương đối hẹp, mỗi
không-điểm x (3 thành phần x, y, z) phải gắn một thời-điểm
t trong một thực tại không-thời gian bốn chiều Minkowski. Một tứ-vectơ
không-thời gian là tập hợp có 4 thành phần mang ký hiệu xμ (x0
= ct, x1, x2, x3), với x1
= x, x2 = y, x3 = z, viết gọn là xμ (x0
= ct, x). Từ tứ-vectơ xμ, ta lập một tứ-vectơ
xung lượng pμ = m dxμ/dτ, và tính toán ra bốn
thành phần của pμ (p0 = γmc, p = γmv).
Dùng định nghĩa quen thuộc của vectơ vận tốc v = dx/dt, vectơ
gia tốc a = dv/dt, ta tính ra đẳng thức
dγ/dt = γ3(v.a)/c2
Phương trình F = dp/dt = md(γv)/dt cho ta F =
[mγ3(v.a)/c2] v +
mγa của thuyết tương đối hẹp thay thế phương trình cơ bản
F = ma của Newton, cũng như p = mγv
thay thế p = mv; tóm lại cơ học cổ điển là
trường hợp giới hạn của cơ học tương đối tính khi c → ∞.
c- Hai cách chứng minh E =
γmc2.
Cách thứ nhất dựa vào dE/dt = F.v
đề cập ở đoạn 1. Dùng F =[mγ3(v.a)/c2]
v + mγa
vừa thiết lập, ta có F.v
= mγ3(v.a),
khi kết hợp nó với dγ/dt =
γ3(v.a)/c2,
ta được F.v = mc2 dγ/dt
= dE/dt và như vậy E = γmc2.
Cách thứ hai là liên kết thành phần p0 =
γmc
(của tứ-vectơ xung lượng pμ)
với năng lượng E, và xin chú tâm đến thứ nguyên ML2/T2
của năng lượng (qua ba đại lượng cơ bản là khối lượng M,
chiều dài không gian L, thời gian T). Vậy phép phân tích thứ nguyên bảo ta p0
= E chia cho một vận tốc nào đó. Ta chỉ có hai lựa chọn, đó là v hay
c, nhưng v không thích hợp vì nó có thể bằng 0 và đưa p0
đến một giới hạn vô tận, vậy p0 = E/c. Với p0
= γmc,
ta có E = γmc2.
Lựa chọn p0 = E/c còn phù hợp với trường hợp v «
c, vì khi ta khai triển hệ số γm
thành chuỗi (v/c)n thì ta có γmc2
~ mc2 + (½)mv2 + (3/8)m(v4/c2
)..., ta nhận ra γmc2
chứa đựng động năng (½)mv2
quen thuộc. Đó là phương pháp Einstein đã dùng để tìm ra phương trình của
thế kỷ[11].
Tuy hai đại lượng E =
γmc2
và p = γmv
đều thay đổi theo vận tốc v, nhưng hiệu số E2 – |p|2c2
lại không phụ thuộc vào v nữa, nó bất biến trong tất cả các hệ quy
chiếu:
E2
– |p|2c2 = m2c4
Phương trình trên áp dụng
cho mọi trường hợp của khối lượng m bằng hay khác 0. Với photon
(m = 0), phương trình trên cho ta E = pc, trùng hợp
với định lý Poynting trong điện từ. Hơn nữa photon vì không có khối lượng,
nó chẳng bao giờ bất động, vận tốc lúc nào cũng bằng c, do đó tích số
γm
của photon mang dạng 0/0 và năng lượng E =
γmc2
của nó có thể là bất cứ con số nào khác 0,
và ta đi vào lãnh vực của lượng tử với Max Planck: E = hν.
Năng lượng của photon không xác định được trong thuyết tương đối mà lại đến
bằng con đường lượng tử. Tuy khối lượng bằng 0, nhưng photon có năng lượng
bằng bội số của hν
(tần số dao động ν của nó
nhân với hằng số Planck h = 6.63 x 10–34 Js).
Mời bạn chú tâm đến câu
‘’di chuyển đều đặn cũng như không’’của Galilei liên đới đến trường
hợp đặc biệt của vận tốc cố định không thay đổi với thời gian (gia tốc
= 0) trong các hệ quy chiếu quán tính, đặc trưng của thuyết Tương
đối hẹp. Tính từ hẹp dùng ở đây để chỉ định sự chuyển động đều đặn, không
gia tốc. Các kết quả của thuyết Tương đối sáng tạo năm 1905 sẽ thay đổi ra
sao trong trường hợp di chuyển không đều đặn với gia tốc ≠ 0 ? Câu hỏi này
chính là điểm khởi đầu cho thuyết Tương đối rộng.
Phần II-
Tương Đối Rộng
A-
Ý tuởng sung sướng nhất trong đời tôi
Một chiều chủ nhật cuối
tháng 5 năm 1905 đẹp trời nắng ấm, Albert Einstein và anh bạn thân cùng sở
làm Michele Angelo Besso dạo chơi trên đồi Gurten, xa xa dưới chân là thành
phố Bern cổ kính hiền hoà, họ bàn luận trao đổi về bí hiểm ether (coi phần
I), rồi ngay tối hôm đó ông suy nghĩ tính toán và dần dần hình thành thuyết
tương đối hẹp để vài tuần sau gửi đăng trên Annalen der Physik, tạp chí uy
tín thời đó. Trong vòng hai năm sau, công trình này gây được nhiều tiếng
vang tán đồng trong giới hàn lâm và nghiên cứu (đặc biệt bởi Max Planck,
người khai sáng ra khái niệm “lượng tử“mà dấu ấn ngày càng in đậm trong khoa
học và công nghệ hiện đại), mặc dầu còn một số người nghi ngại vì tính chất
cách mạng về thời gian không phổ quát mà co dãn của thuyết này. Nhà vật lý
thực nghiệm tiếng tăm Johannes Stark[12] mời Einstein viết một bài tổng hợp về lý thuyết
mới mẻ đó và bình luận về những hệ quả cùng triển vọng. Công việc đòi hỏi
thời gian vì ông vẫn phải tiếp tục tám giờ mỗi ngày, sáu ngày mỗi tuần làm
việc ở Phòng Đăng ký Bằng Sáng chế của thành phố Bern, nhưng hoàn tất bài
tổng hợp đó cũng là cách để Einstein hy vọng tìm được một chức vụ giảng dạy
và nghiên cứu đại học mà ông hằng ước mơ sau khi tốt nghiệp trường Bách khoa
Kỹ thuật ở Zürich (ETH). Chỉ lúc rảnh rang trong giờ cạo giấy ông mới có đôi
phút suy tư về vật lý. Rồi một ngày trong tháng 11 năm 1907 đang ngồi trong
Phòng Đăng ký, Einstein chợt nẩy ra một ý tưởng mà ông coi như mãn nguyện
nhất trong đời: một người rớt từ trên cao xuống không cảm thấy sức nặng
của mình. Theo ông kể, ý tưởng giản dị có vậy thôi, nhưng nó gây một ấn
tượng mạnh khiến tôi vô cùng sửng sốt và dần dà đưa đẩy tôi khám phá ra một
lý thuyết mới để thay thế luật cổ điển của Newton về hiện tượng hấp dẫn. Để
hiểu cái mới lạ ra sao, có lẽ không gì hơn là trở về thời điểm khi Galileo
Galilei (1564-1642) phát hiện ra tính chất phổ quát của vật chất rơi
tự do trong không trung bởi sức hút của trái đất, theo đó nếu vắng một sức
cản nào của môi trường, như không khí chẳng hạn, thì mọi vật bất kể khối
lượng lớn nhỏ ra sao, ở chung một chỗ trên cao sẽ rơi xuống hệt như nhau với
cùng một gia tốc[13].
Chúng ta chưa quên hình ảnh mấy phi hành gia đầu tiên lên cung Hằng khoảng
năm 1970 thả một cái búa cùng mấy sợi lông tơ để thấy chúng quả thực rơi
xuống mặt trăng với cùng một gia tốc vì ở đấy vắng không khí cản trở. Thí
nghiệm trên mặt trăng này chỉ tượng trưng thôi chứ chẳng gây chút ngạc nhiên
nào vì chính Isaac Newton (1642-1727), vài chục năm sau Galilei, đã chứng
nghiệm tính phổ quát nói trên của Galilei khi quan sát các chu kỳ dao động
giống hệt nhau của mấy chiếc quả lắc đồng hồ nặng nhẹ khác nhau. Thực là kỳ
lạ mà luật hấp dẫn (tác động của trọng trường của trái đất như một thí dụ)
mang đặc tính độc đáo là nó áp đặt một gia tốc duy nhất lên mọi vật thể đặt
ở cùng một chỗ, bất kỳ khối lượng m lớn nhỏ của vật đó ra sao, kể cả
photon (hạt ánh sáng) không khối lượng. Còn ba lực cơ bản khác (lực của
điện-từ trường, lực mạnh và lực yếu của các hạt nhân nguyên tử), chẳng có
lực nào khi tác động lên mọi vật khối lượng rất khác nhau lại làm chúng di
chuyển với cùng chung một gia tốc, chắc phải có cái gì sâu sắc ẩn sau mối
tương đồng giữa trọng lực và sự vận chuyển có gia tốc.
Ngoài ra còn thêm một khía
cạnh nữa là phương trình căn bản của cơ học F = ma
bảo cho ta khối lượng m mang một đặc trưng là nó diễn tả tính
trây ỳ hay quán tính của vật thể. Thực thế bất kỳ một lực F
nào (trọng lực, lực điện-từ, lực mạnh và lực yếu của hạt nhân nguyên tử, lực
cơ bắp hay máy móc) khi áp đặt lên một vật A mang khối lượng m, vật
đó sẽ chuyển động với gia tốc a. Cũng một lực F ấy khi
tác động lên một vật B khác mang khối lượng ba lần lớn hơn khối lượng
của A thì dĩ nhiên gia tốc của B so với A giảm đi ba lần, nó
chuyển động chậm chạp hơn A hay có quán tính lớn gấp ba lần A. Vậy khối
lượng biểu lộ khả năng quán tính của vật thể chống lại sự di động. Kết hợp
hai điều trên, trọng lượng[14]
của một vật (lực mà vật ấy bị lôi hút bởi trọng trường tạo nên bởi trái đất
chẳng hạn) tỉ lệ thuận với tính trây ỳ của vật đó và gia tốc phổ biến của
mọi vật được chứng minh khi ta dùng phương trình cơ bản[15]
của động lực học[16].
Mối liên hệ sâu sắc giữa
trọng lực, gia tốc và quán tính đã được
Newton miêu tả trong định luật hấp dẫn phổ quát. Chủ yếu Newton, tuy không
tìm được nguyên nhân tại sao có sự liên hệ như vậy, nhưng đã nhận ra là khối
lượng của một vật A mang ba đặc trưng: (i) quán tính của A, (ii) A phải phản
ứng ra sao khi trọng lực (tạo ra bởi một vật B khác) tác động lên nó, và
(iii) chính vật A cũng tự nó sinh ra một trọng trường để lôi hút mọi vật
khác ở xung quanh[17]
trong đó dĩ nhiên có vật B. Trong vòng hơn hai thế kỷ sau
Newton, nhiều nhà khoa học, mặc dầu làm việc trong hệ hình của cơ học cổ
điển, hầu như đã quên mất chuyện quan trọng này, chẳng còn mấy ai đào sâu
tìm hiểu thêm ba vai trò tiên nghiệm rất biệt lập của khối lượng.
B-
Và Einstein xắn tay mở khoá
Mối liên hệ giữa quán tính,
gia tốc và trọng lực mà trực giác Einstein linh cảm trong một buổi trưa
tháng 11 năm 1907 phải gói ghém một tín hiệu nào đó và ông bắt đầu suy tư.
Lao tâm khổ tứ, gian nan lặn lội trong tám năm trường[18]
khi vui lúc nản để cuối cùng bừng sáng ngày 25 tháng 11 năm 1915, ông rẽ mây
chỉ lối cho nhân loại khai thác một kho tàng vô ngần sâu sắc, không những
của vật lý nói riêng mà cũng của vũ trụ quan và triết học nói chung. Ông
mường tượng trước hết ta sẽ quan sát được gì trong một cái thang máy đứt dây
và rơi tự do trong không trung bởi tác động của trọng trường của quả đất.
Theo tính chất gia tốc phổ quát của Galilei, tất cả mọi vật ở trong
thang, kể cả chính cái thang, đều rơi như nhau với cùng một gia tốc g,
nên so với sàn thang thì mọi vật trong thang hoặc đứng yên hoặc lướt đi đều
đặn với vận tốc cố định. Bất kỳ mỗi điểm trong thang máy rơi tự do đều có
thể coi như một hệ qui chiếu quán tính trong đó trọng lực như bị xóa
đi, diễn tả ý tuởng sung suớng nhất trong đời Einstein theo đó trong thang
máy rơi tự do không còn trọng lượng nữa. Ngày nay các phi hành gia lơ lửng
trong những hỏa tiễn thám hiểm vũ trụ là hình ảnh quen thuộc của hiện tượng
vô trọng lực. Thêm bước nữa, ông mường tượng một nơi xa lánh
tất cả mọi thiên hà tinh tú, một không gian ở đó vắng mặt trọng trường.
Trong cái không gian vô trọng lực ấy, ta đẩy mạnh một cái bình lên cao
với một gia tốc nào đó, ta thấy mọi vật ở trong bình bị đẩy rơi ngược
chiều xuống thấp với cùng một gia tốc, giống như nó bị hút
xuống bởi một trọng lực, điều khá quen thuộc trên xe hơi khi ta bất chợt
nhấn phanh để kéo xe về phía sau, mọi người trong xe như bị đẩy về phía
trước. Vậy thì vận chuyển có gia tốc nào khác gì tác động của trọng trường,
có một mối liên hệ mật thiết giữa gia tốc và trọng lực. Những tác dụng của
một trọng trường thực có thể như bị xóa bỏ trong một hệ
qui chiếu rơi tự do (gia tốc ≠ 0), hoặc khi ta khảo sát sự vận chuyển
có gia tốc của một vật thể thì một trọng trường ảo như được tạo
ra.
Để hiểu lý do tại sao
Einstein lại chú tâm đến gia tốc khi đang viết bài tổng hợp về thuyết tương
đối hẹp (trong đó chỉ có sự di chuyển đều đặn với gia tốc = 0), mời
bạn đọc trở về với nguyên lý tương đối hẹp mà Galilei
tóm tắt trong một câu ngắn gọn ‘’di chuyển đều đặn cũng như không’’.
Có lẽ trong tiềm thức, Einstein tự đặt câu hỏi các định luật của thuyết
tương đối hẹp sẽ thay đổi ra sao trong trường hợp các hệ quy chiếu di chuyển
không đều đặn, và khi phân tích những điều vừa kể trên về
thang máy rơi, ông nhận ra vai trò quyết định của trọng trường trong sự nới
rộng phạm vi không gia tốc của thuyết tương đối hẹp
sang phạm vi có gia tốc của thuyết tương đối rộng. Câu ‘’di
chuyển đều đặn cũng như không’’ của Galilei, qua ý tưởng sung sướng nhất
trong đời của Einstein, nay biến thành ’’di chuyển không đều đặn
chẳng khác gì tác động của trọng lực’’ đã mở đầu một kỷ nguyên mới cho vật
lý, nới rộng thuyết tương đối hẹp (hay đặc biệt) sang thuyết tương đối rộng
(hay tổng quát) để thay thế thuyết hấp dẫn của Newton, định luật cổ điển này
chỉ là truờng hợp xấp xỉ gần đúng của thuyết tương đối rộng chính xác hơn.
Ngoài ra còn thêm một nguyên nhân thúc đẩy Einstein mở rộng thuyết tương đối
đặc biệt vì ông nhận ra có một mâu thuẫn giữa thuyết này (theo đó vận tốc
của mọi tín hiệu đều có hạn, kể cả ánh sáng) và luật hấp dẫn của
Newton (theo đó trọng lực truyền đi với vận tốc vô hạn để vạn vật hút
nhau tức thì). Vậy bằng cách nào đó sửa đổi luật hấp dẫn cổ điển sao
cho hòa đồng với thuyết tương đối hẹp sẽ tự động giải đáp được mâu thuẫn nói
trên.
C-
Không-thời gian bốn chiều biến dạng từ phẳng sang cong
Trong thuyết tương đối hẹp
và rộng cần nhấn mạnh là không gian và thời gian chẳng còn biệt lập nhưng
mật thiết liên đới trong một thực thể bốn chiều không-thời gian mà Einstein
sẽ khai thác với sự thay đổi hệ quy chiếu từ quán tính (gia tốc = 0) sang
phi quán tính (gia tốc ≠ 0).
1- Chúng ta khởi đầu đi từ
không gian ba chiều của Newton để sang thế giới không-thời gian bốn chiều
của Minkowski (coi phần I), cả hai đều phẳng theo nghĩa của hình học Euclid.
Trong không gia ba chiều, nếu ta viết bình phương khoảng cách vi phân giữa
tâm tọa độ O và điểm X(x,y,z) là dX² = dx² + dy² + dz² (quỹ
tích của những điểm x, y, z là mặt cầu hai chiều Ѕ2
trơn tru với O là tâm) thì bình phương khoảng cách vi phân bình phương ds²
trong không-thời gian bốn chiều Minkowski của thuyết tương đối hẹp là ds² =
(dx² + dy² + dz²) ̶ (cdt)² (quỹ tích của những điểm x, y, z, ct
là hình hyperboloïd ba chiều Ѕ3
trơn tru).
Đó cũng là định lý Pythagoras mở rộng trong bốn chiều với bốn hệ số ±1 của
ds², thay vì chỉ có ba hệ số +1 của dX². Khi mở rộng quy mô vận chuyển
không gia tốc của thuyết tương đối hẹp (với hình học phẳng
của không-thời gian bốn chiều Minkowski) sang quy mô vận chuyển có
gia tốc của thuyết tương đối rộng, năm 1912 trực giác của Einstein
cảm nhận thấy cấu trúc hình học phẳng sẽ phải biến dạng sang hình học cong[19]
vì mặt phẳng hay hình cầu trơn tru giản dị không diễn tả được hết cái phức
tạp của quỹ đạo quay xoắn, uốn lượn của các vật thể chuyển động với gia tốc.
Để thống nhất các ký hiệu
toán học dùng trong hình học bốn chiều phẳng hay cong, đáng lẽ dùng t, x, y,
z, ta hãy thay chúng bằng bốn tọa độ ct ≡ x0, x ≡ x1,
y ≡ x2, z ≡ x3 và định nghĩa một tứ-vectơ xμ
là vectơ có bốn thành phần x0, x1, x2, x3
(thay vì vectơ quen thuộc x với ba thành phần x, y, z trong không
gian ba chiều). Trong hình học phẳng Minkowski, bình phương khoảng cách vi
phân ds² = (dx² + dy² + dz²) - (cdt)² giữa hai không-thời điểm vi
phân dxμ và dxν sẽ được viết
dưới dạng ds² = ημν dxμ
dxν, các chỉ
số μ và ν có giá trị là
0, 1, 2, 3 và hệ số ημν là những con
số thực như +1 hay −1 (thí dụ ηoo
= −1, ηii =
+1, ηoi =
ηio =
ηij = 0 với i ≠ j, i
hay j là 1,2,3). Ngoài ra trong ký hiệu ngắn gọn ημν
dxμ dxν,
ta theo quy ước[20]
Riemann-Einstein làm tổng hợp tất cả các đóng góp của cả hai chỉ số μ,
ν từ 0 đến 3.
Làm sao mở rộng sang hình
học cong những hệ số ημν đơn sơ của
hình học phẳng Minkowski? Einstein nhớ lại những bài giảng khi ông là sinh
viên ở ETH về mặt cong hai chiều Ѕ2
của quả bầu dục lồi lõm, so với quả cầu trơn tru mà nhà vật lý và toán học
trứ danh Karl F. Gauss[21]
đã từng phân tích cấu trúc của chúng. Ngoài ra còn công trình của Bernhard
Riemann, môn đệ của Gauss, đã tổng quát hóa kết quả của thầy từ bề mặt hai
chiều Ѕ2
sang trường hợp nhiều chiều Ѕn
với n > 2. Để mở đầu ta hãy xét trường hợp
giản dị nhất, đó là những bề mặt hai chiều và nhận thấy khoảng cách giữa hai
điểm kế cận vi phân trên bề mặt quả cầu tròn trơn tru chẳng khác chút nào
khoảng cách giữa hai điểm kế cận vi phân trên mặt phẳng, nếu ta hình dung
bao quanh mỗi điểm trên mặt cầu bằng một trang giấy phẳng tiếp tuyến với
hình cầu ở điểm ấy, và hai trục tọa độ thẳng góc trên hình cầu sẽ là hai
đường kinh tuyến và vĩ tuyến quen thuộc của trái đất lý tưởng phẳng phiu.
Mặt cầu cũng như mặt phẳng tiếp tuyến nó sẽ bị bao trùm bởi một mạng lưới
gồm những hình vuông vi phân. Cũng như trên mặt phẳng, ta chỉ cần hai toạ độ
x, y để xác định khoảng cách vi phân bình phương dl2 giữa
hai điểm vi phân dx và dy trên bề mặt cầu, dl² = dx² + dy². Nếu bề
mặt của hình cầu (hay của bóng bầu dục) không phẳng phiu mà lồi lõm, ta
chẳng cần một tọa độ thứ ba để đo chiều cao hay chiều sâu, nhưng mạng lưới
hình vuông sẽ thành mạng lưới của những hình bình hành khác nhau bao bọc mặt
cầu lồi lõm. Với những hình bình hành này, ta thấy khoảng cách bình phương dl2
giữa hai điểm vi phân dx và dy của mặt cầu Ѕ2
lồi lõm là dl² = g11
dx² + 2g12
dxdy + g22
dy². Không như trường hợp mặt cầu trơn tru chỉ có một hình vuông duy nhất để
bao bọc mọi điểm của mặt cầu, mỗi điểm lồi lõm khác nhau bị bao quanh
bởi một hình bình hành khác nhau nên ba hệ số g11,
g12
và g22
không còn là những con số mà là hàm của x, y trong trường hợp chung
tổng quát, vậy ta có g11(x,
y), g12(x,
y), g22(x,y).
Suy từ hai chiều sang bốn, với không-thời gian cong bốn chiều của hình học
Riemann, bình phương khoảng cách giữa hai điểm kế cận vi phân dxμ
và dxν phải là
ds² = gμν
(xλ) dxμ
dxν
và ta gọi gμν(xλ),
hàm của tứ-vectơ xλ, là
metric (như mét) để đo lường khoảng cách giữa hai không-thời điểm vi
phân dxμ và dxν
trong cấu trúc hình học cong bốn chiều. Sự đối xứng toàn diện trong hoán
chuyển μ ↔ ν
của ds² bảo cho ta có tất cả mười[22]
thành phần gμν
(xλ), cũng như những
tứ-vectơ xλ, xμ,
xν đều có bốn thành phần x0,
x1, x2, x3.
Để tóm tắt, trong giai đoạn đầu thai nghén của
thuyết tương đối rộng, Einstein đặt nền tảng hình học của một không-thời
gian cong trong đó khoảng cách bình phương giữa những sự kiện vật lý
tạo thành những hình hyperboloïd[23].
Hình này là tập hợp các điểm cách trung tâm hệ quy chiếu O một độ dài ds
trong thế giới cong bốn chiều, cũng như bề mặt hình cầu là quỹ tích
các điểm cách trung tâm O một độ dài dX trong thế giới phẳng ba chiều. Cấu
trúc cốt lõi của hình học cong chính là metric gμν
(xλ), một hàm
tổng quát của tứ-vectơ xλ. Không có hệ
qui chiếu nào ưu tiên hơn hệ khác để diễn tả các hiện tượng vật lý, các định
luật vật lý đều giữ nguyên dạng trong bất kỳ hệ qui chiếu phi quán tính nào
mà ta chọn. Einstein gọi nó là nguyên lý tương đối tổng quát, mở rộng nguyên
lý tương đối hẹp của Galilei như đã trình bầy ở phần I.
2- Giai đoạn thứ hai vô
cùng quan trọng trong tiến trình xây dựng thuyết tương đối rộng là sự đồng
nhất giữa metric gμν (xλ)
của hình học với trọng trường của vật chất. Đó quả thật là một cách mạng
trong tư duy khoa học của loài người khi Einstein gắn bó hai đại lượng cơ
học và hình học mà trước ông ai cũng nghĩ rằng hoàn toàn khác biệt. Nó thể
hiện ý tưởng sung sướng nhất đời của Einstein mà ông gọi là nguyên lý
tương đương giữa gia tốc và trọng trường nói ở trên.
Thực thế chúng ta hãy xem
xét một quan sát viên trong hệ quy chiếu quán tính của không-thời gian phẳng
bốn chiều Minkowski, người ấy không nhận ra một trọng trường nào cả, mọi vật
không chuyển động nhanh mà di chuyển đều đặn hay đứng yên, và thước đo lường
khoảng cách không-thời gian là metric đơn sơ ημν
với các hệ số cố định
±
1. Nay người ấy ở trong thang máy rơi với gia tốc ≠ 0, anh ta thấy hai điều:
(i) tọa độ không-thời gian sẽ biến đổi một cách phi tuyến tính với metric gμν
(xλ) thay đổi
từ điểm này sang điểm kia rất phức tạp, và (ii) mọi vật trong thang rơi khác
nhau chính vì gμν (xλ)
thay đổi từ điểm xλ này sang điểm kế
cận vi phân xλ + dxλ
kia, sự chuyển động có gia tốc này giống như tác động của trọng lực, vậy
metric gμν (xλ)
diễn tả trọng trường theo nguyên lý tương đương. Cái gắn bó đồng nhất giữa
hình học và cơ học, giữa metric và trọng trường đưa ta đến kết luận là hai
vật hút nhau chỉ vì hai vật đó tìm nhau theo con đuờng trắc địa của
không gian hình học cong diễn tả bởi gμν
(xλ).
Đường trắc địa[24]
là con đường tối ưu ngắn nhất hay dài nhất tùy trường hợp, (với hệ số
-
và + trong metric ημν thì trắc địa lại
là đường dài nhất) nối kết hai điểm A và B với nhau. Đó chính là quỹ đạo của
hai vật đặt ở A, B chuyển động tự nhiên (chẳng do một lực hút nhau nào tác
động lên chúng cả) trong cái thế giới cong bốn chiều của không-thời gian.
Dưới ánh đèn huyền ảo của thuyết tương đối rộng, hiện tượng vạn vật hấp dẫn
cổ điển ‘cơ bắp’ của Newton nay tỏa hiện như cảnh tượng cong uốn của không
gian để làm vật chất rơi tìm nhau!
3- Giai đoạn cuối cùng trong
quá trình xây dựng thuyết này là Einstein truy tầm nguồn gốc của cấu trúc
không-thời gian cong, nghĩa là khám phá ra phương trình mà metric gμν
(xλ) - nay
chính là trọng trường - phải tuân theo.
Newton đã chứng minh chính
khối lượng của một vật, vừa là nguyên nhân tạo ra trọng trường tác động lên
vạn vật, cũng vừa là quán tính của vật ấy chịu sự chi phối của trọng lực tạo
ra bởi các vật khác nó. Vì năng lượng cũng là khối lượng theo mc²
= E0 của thuyết tương đối hẹp, vậy mật độ năng lượng
góp phần tạo ra cái cấu trúc cong của không-thời gian bốn chiều để vạn vật
rơi tìm nhau theo những đường trắc địa. Hơn nữa, năng lượng
E cũng gắn bó với vectơ xung lượng p thành một tứ-vectơ năng
xung-lượng tuân theo E2 -
c2|p|2 = m2c4,
vậy mật độ năng lượng phân phối trong không-thời gian chỉ là một trong
mười thành phần của tenxơ mật độ năng-xung lượng[25]
Tμν,
tenxơ Tμν này chính là
nhân tố tạo ra metric gμν (xλ)
để diễn tả cấu trúc cong của không-thời gian. Chẳng phải ngẫu nhiên mà cả
hai tenxơ gμν (xλ)
và Tμν đều có mười thành
phần.
D-
Lâu đài Himeji-jo và ống khói nhà máy
Lý thuyết tương đối rộng, hay định luật vạn vật hấp dẫn của Einstein[26]
có thể tóm tắt trong một câu: Không-Thời gian chẳng cứng nhắc mà đàn hồi,
hình học Minkowski bốn chiều phẳng lặng bị biến dạng thành cong uốn bởi
năng-khối lượng của vật chất. Chính sự phân phối năng lượng đã tạo ra tính
đàn hồi và cấu trúc cong của không-thời gian nhờ đó vạn vật rơi vào nhau như
một biểu hiện của trọng trường chứ không có sức hút nào giữa chúng cả. Ý
tưởng vật lý đã thành hình, vấn đề còn lại của Eintein là tìm ra phương
trình diễn tả sự biến dạng đàn hồi của không-thời gian phẳng Minkowski.
Tính đàn hồi của một vật là khả năng vật đó trở lại trạng thái cứng nhắc ban
đầu khi mất đi lực áp đặt lên nó để làm nó biến dạng, và Robert Hooke[27]
(1635-1703) người đồng thời với Newton và là viện trưởng Hàn lâm viện Hoàng
gia Anh, đã đặt nền móng khảo sát tính chất này với phương trình B
= κT,
ký hiệu B chỉ định sự biến dạng đàn hồi của vật và T
là lực căng làm biến dạng vật đó. Trong trường hợp không-thời gian bị
biến dạng bởi năng-khối lượng, lực căng này chính là tenxơ năng-xung
lượng Tμν
như đã phân tích ở trên, hệ số tỷ lệ κ
nhỏ thì biến dạng ít, hay 1/κ
lớn thì không-thời gian càng cứng nhắc. Sự tìm kiếm toán tử B
làm biến dạng cấu trúc hình học phẳng kéo dài trong ba năm gian lao, khởi
đầu vào tháng tám năm 1912 khi Einstein từ chức nhiệm vụ giáo sư đại học ở
Praha (thủ đô Tiệp Khắc) để trở về đảm nhận chức vụ giáo sư thực thụ ở
trường cũ là viện Bách khoa công nghệ Zürich (ETH). Tại đây ông đề nghị cộng
tác với bạn xưa cùng trường Marcel Grossmann, một nhà hình học nay là chủ
nhiệm khoa toán-lý của ETH trong việc tìm kiếm toán tử B. Nhà
toán Grossmann, không quen thuộc với hình học không gian phức tạp chứa đựng
vật chất và năng-xung lượng của nó mà nhà vật lý Einstein cần đến, bèn tham
khảo tài liệu, thư mục và mách bảo cho bạn những điều cần thiết chứa đựng
trong công trình của Riemann và những nhà toán học kế tiếp như Christoffel,
Ricci và Levi-Civita để Einstein đi từ gμν(xλ)
mà xây dựng nên đối tượng toán học B(gμν(xλ))
≡ Bμν.
Toán tử Bμν
làm biến dạng cấu trúc hình học phẳng thành cong không đơn sơ chỉ là hiệu số
giữa gμν (xλ)
và ημν như ta có
thể mơ hồ đoán vậy. Thực thế, theo nguyên lý tương đương giữa trọng trường
và gia tốc ‘sung sướng nhất đời ông’, trong cái không-thời gian với cấu trúc
tổng quát gμν
(xλ), ta để
thang máy rơi tự do và câu hỏi là trọng trường có thực sự bị xoá bỏ đi ở
tất cả mọi điểm trong cái thang đó không? Câu trả lời là sự xóa
bỏ ấy không trọn vẹn, hãy còn chút đỉnh thặng dư vì thực ra hai điểm cách
nhau vi phân không rơi đồng nhất như hệt nhau với cùng một gia tốc.
Điều này thể hiện qua việc metric gμν
(xλ)
thay đổi từ điểm xλ
này sang điểm kế cận vi phân xλ
+ dxλ kia. Cái
thặng dư gia tốc đó có thể mường tượng qua thí dụ thủy triều của nước biển
sớm tối trào lên và rút đi. Thực vậy nước biển ở phần bán cầu trái đất
gần mặt trăng (mặt trời) bị ‘rơi kéo’ vào mặt trăng (mặt trời) với gia
tốc khác gia tốc của nước biển ở bán cầu đối nghịch xa mặt
trăng (mặt trời), và sự khác biệt kép của gia tốc nước biển chính là nguyên
nhân của hiện tượng thủy triều. Vậy làm sao tính cái thặng dư gia tốc ở mỗi
không-thời điểm? Mà sự khác biệt giữa gμν
(xλ)
và gμν (xλ
+ dxλ)
của hai điểm kế cận vi phân xλ
và xλ + dxλ
chính là đạo hàm của nó, vậy ta không ngạc nhiên
khi thấy đạo hàm của gμν
(xλ)
(như ký hiệu Christoffel và tenxơ Ricci Rμν
diễn tả độ cong của hình học Riemann) xuất hiện trong Bμν,
và ông tìm ra Bμν
= Rμν
– (½) Rgμν,
đó là chặng đường vất vả nhất kéo dài ba năm[28].
Giai đoạn chót là xác định hệ số κ
trong phương trình Bμν
= κTμν.
Để tìm nó, định luật hấp dẫn cổ điển của Newton được Einstein khai thác như
một dạng xấp xỉ gần đúng[29]
của phương trình R00
– (½) Rg00
= κT00.
Thực thế, thành phần T00
(phụ chú 25) vì tỷ lệ thuận với mật độ năng lượng
E0 = mc2 nên nó cũng tỷ lệ với mật độ
khối lượng m của một vật nào đó (như trái đất chẳng hạn) và chính
m tạo ra gia tốc Gm/R2
áp đặt lên các vật
khác (ở cách nó một đoạn không gian R)
để làm chúng vận
hành, và ông xác định được hệ số κ
= 8πG/c4,
G là hằng số Newton của lực hấp dẫn
[30]. Ngày 25 tháng 11 năm
1915, Einstein sau ba năm lăn lộn với hình học đã trao tặng cho nhân loại
thuyết tương đối rộng mà càng ngày càng đầy tính thời sự khoa học nóng hổi,
từ nghiên cứu cơ bản (Vũ trụ và sự hình thành, Big bang, Big crunch, Lỗ đen,
Siêu dây, Năng lượng và Vật chất tối, Chân không lượng tử, Lý thuyết Thống
nhất Toàn thể) đến công nghệ ứng dụng (Hệ thống Định vị Toàn cầu GPS[31]
dùng trong các phương tiện di chuyển là một thí dụ). Mời bạn đọc chiêm
ngưỡng phương trình Einstein mà vế trái mô tả hình học không-thời gian bốn
chiều trong đó vận hành vạn vật, còn vế phải là vật chất tạo dựng nên cái
cấu trúc cong uốn của không-thời gian:
Rμν
– (½) Rgμν = (8πG/c4)
Tμν
(II)
Trong mười thành phần của
phương trình Einstein, chỉ có thành phần
mn
= 00
là tương hợp với định luật cổ điển vạn vật hấp dẫn của
Newton (sau khi ta áp dụng phép tính xấp xỉ gần đúng), còn chín cái khác là
mới.
Thông điệp vật lý gói ghém
trong phương trình trên có thể tóm lược như sau: khối lượng của vật chất áp
đặt không-thời gian phải cong đi, còn không-thời gian cong này chi phối bắt
vật chất phải chuyển động ra sao. Sự vận hành của vật chất (ánh sáng cũng là
vật chất) bởi trọng trường không do một lực cơ bắp nào hết mà thực ra sự di
chuyển đó lại trây lười nhất vì quỹ đạo của vật chất chính là những đường
“trắc địa” trong một không-thời gian bị cong bởi sự hiện hữu và phân phối
của vật chất. Đáp lại, vật chất và năng lượng luôn luôn biến chuyển của
chúng cũng tác động tới độ cong của không-thời gian, và cứ thế tiếp diễn
liên hồi vũ điệu giữa cơ học và hình học.
Mật độ năng-xung lượng càng lớn ở đâu thì
không-thời gian cong uốn càng nhiều ở đấy, khi căng quá thành đứt gẫy và đó
là gốc nguồn của lỗ đen, một không-thời gian tận thế ở đó bất kỳ vật chất
nào, kể cả ánh sáng và tín hiệu thông tin, khi đi gần đều bị hút chặt vào
chẳng sao thoát khỏi. Mời bạn đọc coi bức thư Einstein gửi ngày 09 tháng 01
năm 1916 cho Karl Schwarzschild (nhà vật lý thiên văn Đức đang hành quân ở
mặt trận Nga-Đức trong thế giới đại chiến 1914-1918, vào những giờ phút
ngừng bắn đã đầu tiên giải được phương trình của thuyết tương đối rộng mà
Einstein vừa công bố tháng trước): “cái đặc điểm của lý thuyết mới này
(tương đối rộng) là không gian và thời gian tự chúng chẳng có tính chất vật
lý gì cả. Nói đùa thôi, giả thử mọi vật trên đời biến mất thì theo Newton ta
hãy còn một không gian rỗng tuếch phẳng lặng mênh mang và mũi tên thời gian
vẫn lặng lẽ trôi, nhưng theo tôi thì tuyệt nhiên chẳng còn chi hết, cả không
gian lẫn thời gian và vật chất[32]!”
Thực là một cuộc cách mạng về tư duy
mà Einstein
mang đến cho nhân loại: chính vật chất trong đó có da thịt tâm tư con người
xây dựng ra vũ trụ. Vật chất và không-thời gian là hai khía cạnh của một bản
thể duy nhất, cái này sinh cái kia, không có cái này thì cũng chẳng có cái
kia. Nhà vật lý Nhật bản Yoichiro Nambu[33]
qua bức tranh nửa trào lộng nửa trầm tư (Hình 1), minh họa vế trái phương
trình Einstein bằng lâu đài Himeji-jo xa xưa của một thoáng không gian trang
nghiêm thanh thoát bên bờ suối, còn vế phải bên kia cầu vương vấn trong cảnh
trần ai bởi khói than nhà máy phản ánh vật chất nặng nề!

Hình 1
E -
Newton nhường ngôi, Einstein đăng quang!
Để đánh giá phần nào gia tài
tri thức mà Einstein trao cho nhân loại, mời bạn đọc nhớ lại vào cuối thế kỷ
19, khoa học thời ‘tiền tương đối’ được hiểu như sau : Không gian ba chiều
như một sự thực tiên nghiệm ‘trời cho’, một sân khấu lạnh lùng hoàn toàn
biệt lập với vật chất thao diễn trong đó. Cấu trúc hình học của không gian
phẳng (tổng cộng ba góc hình tam giác bằng 180 độ) đã được khai thông bởi
các nhà hiền triết Hy lạp Euclid, Pythagoras từ hơn hai thiên niên kỷ trước.
Thời gian như một mạch đập ‘hiện sinh’ của vũ trụ, một mũi tên lặng lẽ trôi
vô thủy vô chung. Vật chất là một thực thể thường trực không sinh không hủy,
và sau hết lực tác động một cách tức thì lên vật chất để làm chúng
vận hành.
Einstein đã cho ta một nhận
thức khoa học và triết học khác: bước chuyển thời gian là một ảo tưởng, chỉ
có một thực tại duy nhất không-thời gian bốn chiều gắn bó với nhau, chẳng có
cái ‘bây giờ’. Vạn vật phù du, vô thường, không ngừng đổi biến. Bất kỳ lực
nào cũng vậy, chúng không thể tác động tức thì lên vật chất mà cần thời gian
dù rất nhỏ để truyền thông tin và ảnh hưởng. Hơn nữa toàn bộ Không gian,
Thời gian, Lực, Vật chất chẳng sao tách biệt, cặp không-thời gian (cái vỏ
chứa) và cặp lực-vật chất (cái được chứa) chồng chéo liên kết với nhau, cấu
trúc không phẳng mà cong uốn của không-thời gian được xây dựng bởi chính nội
dung vật chất chứa đựng trong đó. Năng lượng là gốc nguồn chung cho tất
cả, từ đó vật chất, lực, không gian, thời gian được tạo dựng nên.
F-
Hiện tình và Viễn tượng
Dẫu mang quá khứ huy hoàng, hoạt động khoa học
nghiên cứu ở Âu châu - quê hương của Lượng tử và Tương đối, hai trụ cột của
vật lý hiện đại mà hơn ai hết Max Planck và Albert Einstein đóng góp vào -
đã phần nào bị lu mờ trong nửa thế kỷ sau Đệ nhị Đại thế Chiến 1939-1945
thảm khốc và phân hoá Đông-Tây. Năm 2008 mở đầu một bước ngoặt đánh dấu sự
phục hưng của nền vật lý ở châu lục này với hai sự kiện nổi bật: trên trời
có vệ tinh Planck được phóng lên không trung với kính viễn vọng tân kỳ để
quan sát đo lường ánh sáng tàn dư từ thủa Nổ lớn (Big bang) xẩy ra cách đây
khoảng 13.7 tỷ năm với chi tiết chưa từng đạt, duới sâu hơn trăm thước trong
lòng đất có máy gia tốc hạt LHC (Large Hadron Collider) ở CERN[35]
với chu vi 27 cây số, khắp năm châu duy nhất chỉ có máy này đạt tới năng
lượng cực cao 13 TeV (tháng 5 năm 2015) làm đầu tầu trong công cuộc khám
phá, đào sâu tìm hiểu, nhằm thống nhất các định luật cơ bản của vạn vật.
Chương trình
khám phá ưu tiên của máy gia tốc LHC là việc săn tìm hạt cơ bản Higgs[36]
hạt tạo ra khối lượng cho vật chất, đề tài mũi nhọn của vật lý hiện đại, mở
đường cho khả năng thống nhất hoà quyện Lượng tử với Tương đối rộng. Xin
nhắc lại khối lượng là cơ nguyên khởi đầu của không-thời gian, của vạn vật,
của vũ trụ, không có khối lượng tức năng lượng thì chẳng còn gì hết. Yếu tố
nền tảng của vật lý hạt cơ bản là sự hiện hữu thiết yếu của hạt boson Higgs
vô hướng (spin 0) tràn ngập không gian để cung cấp khối lượng cho tất cả các
hạt khác khi tương tác với nó. Lý
thuyết và thực nghiệm, tay trong tay vươn tìm những bến bờ xa xăm sâu thẳm
nhất của tri thức khoa học, tiếp nối khát vọng chung của con người xưa nay
không ngừng tìm hiểu thiên nhiên và bản thể của các hiện tượng. Hơn bao giờ
hết và càng ngày càng rõ nét là cách tiếp cận cách tân của hai thế giới liên
thông mật thiết: vĩ mô của vũ trụ bao la diễn giải bởi thuyết Tương đối rộng
và vi mô của hạt cơ bản diễn giải bởi trường lượng tử của Mô Hình Chuẩn. Vệ
tinh Planck và máy gia tốc hạt LHC theo thứ tự là hai công cụ thực nghiệm
tinh vi hiện đại nhất trong công cuộc đo lường, tìm hiểu, khám phá, giải
thích nhất quán những bí ẩn của hai thế giới vĩ mô và vi mô nói trên. Ngành
khoa học thống nhất và bổ túc lẫn nhau của hai thế giới đó mang tên gọi
thiên văn-vật lý hạt (astro-particle physics).
Nhà thiên văn tìm hiểu sự vận
hành của các tinh tú trong vũ trụ và vật chất cấu tạo nên nó, trong đó lịch
sử sự hình thành toàn vũ và quá trình biến đổi của vạn vật là thí dụ tượng
trưng nhất. Những hiện tượng trong vũ trụ chủ yếu được quan sát, phân tích,
hiểu biết và diễn tả bởi những định luật vật lý. Thực thế, từ nguồn gốc của
năng lượng làm chói sáng các vì sao (tổng hợp nhiệt hạch, tương tác yếu làm
phân rã hạt nhân nguyên tử), trạng thái plasma của quark và gluon trong thời
nguyên thủy của vũ trụ, sự hình thành, vận chuyển, biến hóa bùng nổ hay tàn
lụi của các thiên thể: sao lùn (trắng và nâu), sao siêu mới (supernovae),
thiên hà, quasars, sao neutron pulsar, lỗ đen, cho đến các hành tinh ngoài
hệ mặt trời mới được khám phá gần đây thậm chí sự sống trên đó, sóng trọng
trường tiên đoán bởi thuyết tương đối rộng…, tất cả đòi hỏi kiến thức đa
ngành của vật lý và khoa học nói chung.
Thiên văn thời xa xưa, giới hạn
trong sự chuyển động tuần hoàn của hệ mặt trời với các hành tinh và sao chổi
trong cơ học cổ điển, đã trở thành thiên văn-vật lý trong đó hạt cơ bản đóng
vai trò chủ động. Ngày nay thiên văn hầu như đồng nghĩa với vũ trụ học và
gốc nguồn của nó (tinh nguyên học) mà cốt tủy là thuyết tương đối rộng.
Thuyết này như nàng Bạch Tuyết sau hơn nửa thế kỷ thiu thiu ngủ đã bừng tỉnh
cùng ông hoàng Lượng Tử cất cánh vươn xa tìm biên giới của tri thức.
1- Thuở ban đầu:
Einstein là người trước tiên nhận ra cái toàn bộ chẳng sao tách biệt giữa
vật chất-lực (cái nội dung) và không-thời gian (cái vỏ ngoài). Tất cả chỉ là
một mà ông gọi là vũ trụ và khoa học nghiên cứu cái toàn bộ đó mang tên là
vũ trụ học mà nguyên tắc - được ông xây dựng trong một công trình ra đời
tháng 2 năm 1917- vẫn tiếp tục làm nền tảng rọi sáng cho mãi đến ngày nay,
mặc dầu thay đổi nhiều về chi tiết và mô hình ban đầu. Trước hết ông nhận
thấy phương trình (II) của thuyết tương đối rộng không có nghiệm số
nào tương ứng với một vũ trụ vĩnh cửu bất biến với thời gian mà định kiến
ngàn xưa đều tin chắc như vậy, ngay cả với con người cấp tiến như
Einstein! Ông đành thêm vào vế trái phương trình (II) một số hạng
Λgμν (ông gọi Λ
> 0 là hằng số vũ trụ vì nó chẳng có hệ quả cục bộ nào ở bất kỳ các quy mô
lớn hay nhỏ) để có được một nghiệm số diễn tả vũ trụ ấm êm tĩnh lặng,
tuy cong về không gian nhưng lại phẳng (không thay đổi) với
thời gian. Nhưng chỉ vài năm sau đó, các nhà thiên văn vật lý W. de
Sitter (Hòa Lan), A. Friedmann (Nga) và G. Lemaître (Bỉ) khi xem xét toàn
diện mười thành phần của phương trình (II) chứng minh là vũ trụ không những
cong về không gian mà cũng phải cong cả với thời gian, vậy vũ trụ hoặc dãn
nở hoặc co nén chứ không tĩnh tại.
Hỗ trợ quyết định cho phần lý thuyết trên xẩy
ra năm 1929 khi nhà thiên văn Mỹ E. Hubble đo lường quang phổ ánh sáng của
các thiên hà và phát hiện chúng đồng loạt có tần số sóng bị giảm đi so với
quang phổ đo trên trái đất. Tương tự như hiệu ứng Doppler trong âm thanh,
theo đó tiếng sáo phát ra trên tàu chạy xa bến thì người đứng yên trên bến
nghe sáo trầm hơn, ngược lại nếu tàu tiến gần vào bến, tiếng sáo nghe bổng
hơn[37].
Vì quan sát thấy tần số ánh sáng giảm đi trên các thiên thể, Hubble suy ra
là khoảng cách từ trái đất tới các thiên hà tỷ lệ thuận với tốc độ của
chúng, thiên hà
càng ở xa vận tốc nó
càng lớn. Như vậy vũ trụ không còn tĩnh lặng mà dãn nở như quả bóng khi ta
bơm hơi vào, một thực tại chẳng sao chối cãi. Sự kiện thiên văn quan trọng
hàng đầu này ngày nay được xác định rất vững vàng bởi nhiều đo lường khác,
do đó hằng số Λ (mà Einstein đưa ra như một tiên đề
để giữ tĩnh lặng cho vũ trụ) chẳng còn cần thiết nữa khiến ông coi đó là sai
lầm lớn.
Nhưng cái gì làm vũ trụ dãn nở?
Nhiều nhà vật lý thiên văn ngày nay cho rằng có thể chính là hằng số
Λ. Ai ngờ cái sai lầm
hơn nửa thế kỷ trước, nay có thể trở nên một thành viên chủ yếu chiếm ngự
đến 73 % năng lượng của hoàn vũ dưới cái tên mới là năng lượng tối
để làm dãn nở vũ trụ, cái năng lượng tối đầy bí ẩn này chưa ai biết là gì,
tuy nhiên nó chẳng phải do vật chất tạo thành mà lại mang đặc tính năng
lượng của chân không[38].
Việc tiên đoán vũ trụ dãn nở thực là một kỳ công của thuyết tương đối rộng.
2-
Vụ Nổ lớn (Big Bang):
Đo lường được vận tốc dãn nở (hằng số Hubble) của vũ trụ ngày nay, bạn hãy
mường tượng thời gian lần ngược trở lại tựa như một cuốn phim chiếu giật lùi
và thấy các thiên hà ngày nay xa nhau bao nhiêu lại càng sát gần nhau bấy
nhiêu lúc xa xưa khiến cho vũ trụ trước kia nhỏ hơn và phải có lúc xuất phát
từ một khoảng không gian li ti. Ta suy ra khoảng 13.7 tỷ năm trước có một
hiện tượng kỳ dị theo đó, từ một nguồn năng lượng và nhiệt độ vô hạn, nén ép
trong một không gian cực kỳ nhỏ bé đã xẩy ra vụ Nổ lớn. Nơi xảy ra BigBang
chính là chỗ bạn đang ở, cũng như ở bất cứ nơi đâu trong vũ trụ bao la vì ở
thời-điểm ấy, mọi chỗ ngày nay tách biệt hàng tỷ năm ánh sáng thực ra đã
cùng chụm lại ở cái không-điểm kỳ dị[39],
chẳng có một trung tâm vũ trụ ban đầu nào cả.
Hiện tượng vũ trụ động
chứ không tĩnh - nghĩa là không-thời gian chẳng phải sẵn có từ trước
mà trái lại nó xuất hiện, dãn nở hay co cụm tùy thuộc vào mật độ năng-xung
lượng của vật chất - là hệ quả của thuyết tương đối rộng, một trong hai trụ
cột của vật lý hiện đại cùng với thuyết lượng tử. Theo thuyết trường lượng
tử, vì không gian dãn nở và lạnh dần, từ năng lượng vô hạn thuần khiết ban
đầu của Big Bang đã sinh ra muôn ngàn các cặp hạt và phản hạt, các hạt cơ
bản này là mầm mống để tạo nên vật chất và vũ trụ mà ta quan sát ngày nay
với hàng trăm tỷ thiên hà, trong đó có giải sông Ngân và trái đất thân
thương của chúng ta.
Hơn nữa, theo G. Gamow, phương pháp tinh tế
chính xác nhất để kiểm chứng bằng thực nghiệm mô hình Big Bang là quan sát
được hiện tượng “bức xạ nền”[40],
đó là ánh sáng tàn dư rơi rớt lại từ thuở ban đầu. Bức xạ nền này có hệ
quang phổ của một vật đen[41],
đối tượng nghiên cứu đã đưa Planck đến giả thuyết lượng tử[42].
Mười năm qua đã chứng kiến nhiều phát triển trong sự hiểu biết của chúng ta
về mô hình chuẩn vũ trụ, mang tên gọi
ΛCDM
[43]
mà nòng cốt là vụ Nổ lớn.
Sự khám phá tình cờ ra “bức xạ nền” năm 1965 bởi Arno Penzias và Robert
Wilson là bằng chứng thực nghiệm rất thuyết phục về Big Bang. Khởi đầu với
nhiệt độ cực kỳ lớn (1032 Kelvin) từ "pha lạm phát" - khi không
gian ở thời điểm 10-32 giây sau Big Bang, vụt tăng trưởng với vận
tốc lớn hơn vận tốc ánh sáng trong một khoảnh khắc cực kỳ ngắn khoảng một
phần ngàn giây - rồi vào khoảng 380 ngàn năm sau đó, không gian nguội dần
còn chừng 3.000° và cho phép hạt ánh sáng (photon) thoát ra khỏi đám bụi mù
dày đặc electron và proton của vũ trụ nguyên thủy để tung bay khắp phía từ
chỗ bạn đang ngồi cũng như đến các thiên hà xa xăm nhất. Ngày nay, ánh sáng
đó đã nhạt phai với nhiệt độ trung bình 2.725°. Kính thiên văn vi ba đặt
trên hai vệ tinh COBE (Cosmic Background Explorer) và WMAP (Wilkingson
Microwave Anisotropy Probe) đo lường trực tiếp bức xạ nền vũ trụ. Hơn thế
nữa, lần đầu tiên hai vệ tinh thiên văn trên còn phát hiện và đo lường được
những thăng giáng nhiệt độ, những nhiễu loạn li ti này chỉ hơn
kém (khoảng 10-5) so với nhiệt độ trung bình 2.725° của bức
xạ nền vũ trụ. Nhiễu loạn đó chính là những thăng giáng vi phân của thế
giới lượng tử với nguyên lý Heisenberg quen thuộc, chúng cực kỳ quan trọng
vì liên đới mật thiết đến mầm mống và sự phân bố của vật chất, nghĩa là của
hàng trăm tỷ thiên hà "nhỏ bé" trong hoàn vũ bao la ngày nay. Thực thế, ở
đâu mật độ vật chất lớn (hay nhỏ) hơn trung bình một chút thì bức xạ nền
phải lạnh (hay nóng) hơn một chút, vì ở đó ánh sáng bị mất nhiều (hay ít)
năng lượng bởi nó phải tương tác với vật chất để thoát khỏi lực hấp dẫn. Một
vũ trụ mịn màng tuyệt đối, không chút vẩn gợn tựa như một sa mạc mênh mông
toàn cát đỏ chẳng hề có vài ốc đảo vui mát an lành và Louis Pasteur đã chẳng
thốt lên "bất đối xứng chính là nguồn sống" sao? Phân tích những thăng
giáng nhiệt độ ở các vùng mật độ khác nhau, các nhà thiên văn vật lý đã
xác định được hình dạng chi tiết cong hay phẳng của vũ trụ cũng như
những thành phần vật chất và năng lượng trong đó. Giải Nobel 2006 vinh
tặng những người chủ chốt
John C. Mather và George F. Smoot của nhóm
COBE đã lần đầu đo lường được những thăng giáng vi phân nhiệt độ của bức xạ
nền có hệ quang phổ của một vật đen lý tưởng, cái vũ trụ bao la của chúng ta
ngày nay.
3-Tăng tốc.
Chưa hết, ngạc nhiên hơn nữa
là một khám phá quan trọng khởi đầu từ năm 1998 và đang trên đà phát triển
mạnh, nó bất ngờ vì trái ngược với trực giác và định kiến, đó là thay vì
giảm tốc do áp lực co hút, nén vào của trọng trường vật chất, vũ trụ lại
tăng tốc và dãn nở mạnh hơn lên! Thực thế vụ nổ Big Bang kinh hoàng ban đầu
với một lực đẩy ra cực kỳ mạnh đã tạo ra không-thời gian và làm nó dãn nở,
nhưng sau đó vũ trụ nguội dần, đám mây các hạt cơ bản ban đầu đặc lại và hút
lẫn nhau tạo nên những chùm thiên hà. Chúng tất nhiên phải gây ra một
trọng trường để nén ép không gian co lại và vũ trụ vì thế có nhiều khả năng
giảm dần tốc độ dãn nở. Để trả lời câu hỏi là không gian có giảm gia tốc dãn
nở hay không, hai nhóm các nhà thiên văn, dẫn đầu bởi Saul Perlmutter ở
Berkeley (Mỹ) và Brian Schmidt ở Mount Stromlo (Úc) cùng đồng nghiệp Adam
Riess tìm cách đo lường sự giảm tốc này bằng cách đo lường vận tốc tách rời
nhau (qua sự xê dịch quang phổ về phía đỏ) của các siêu tân tinh
(supernovae) loại Ia ở nhiều khoảng cách khác nhau (qua độ sáng vô cùng rực
rỡ của chúng). Sao siêu mới loại Ia là sao lùn trắng nằm cận kề
và quay cặp đôi với một tinh tú khác đang trong thời kỳ chói sáng, trọng lực
của sao lùn thu hút vào nó năng-khối lượng của tinh tú bạn đồng hành, và làm
cho sao lùn nặng dần lên. Khi vượt quá khối lượng tới hạn Chandrasekhar,
trọng trường của sao lùn ngày càng cao nên vỏ bị nén ép mạnh, nhiệt độ tăng
nhanh đến 600 triệu độ để trở thành sao siêu mới và phản ứng hạt nhân phát
động làm nó bùng nổ tan tành với độ sáng rực như mười tỷ mặt trời.
Sau gần mười năm cật lực tìm tòi khoảng 50 sao siêu mới loại Ia để đo lường
khoảng cách cùng vận tốc tách rời nhau của chúng, hai nhóm Mỹ và Úc (giải
Nobel 2011) đưa ra kết luận giống nhau và rất bất ngờ: vũ trụ tuy có giảm
tốc tăng trưởng nhưng chỉ trong có hơn 7 tỷ năm đầu thôi, sau đó từ 6 tỷ năm
tiếp theo nó lại tăng tốc dãn nở cho đến nay. Biện minh và bổ sung thêm cho
khám phá sửng sốt này đến từ những đo lường mới đây rất chính xác bởi vệ
tinh WMAP về sự thăng giáng nhiệt độ của bức xạ nền, chúng cho ta một biên
vũ trụ Euclid không lồi lõm mà phẳng và đang dãn nở ngày càng nhanh. Điều
này đòi hỏi một lực đẩy vạn vật ra xa, chống lại lực hút vào của trọng
trường vật chất, nghĩa là cần phải có một áp lực mới để sinh ra lực đẩy đó.
Thành phần mới này mang tên năng lượng tối. Để có được sự tăng tốc
dãn nở bắt đầu ở thời điểm hơn 7 tỷ năm sau Big Bang, tính toán cho biết mật
độ năng lượng tối phải chiếm đến khoảng 73% mật độ tổng năng-khối
lượng của hoàn vũ. Trong 27% còn lại, chỉ chừng 4% là vật chất bình thường
quen thuộc mà phản ứng nhiệt hạch của chúng làm chói sáng bầu trời ban đêm.
Phần 23% sau rốt là một loại vật chất tối hoàn toàn khác lạ. Vật chất
tối kỳ lạ này không bức xạ, nghĩa là không bị chi phối bởi ba tương tác cơ
bản quen thuộc (điện từ, mạnh và yếu của hạt nhân nguyên tử), khối lượng của
nó chỉ có vai trò duy nhất là tạo ra trọng lực hút vào để giữ cho các thiên
hà góp thành chùm chứ không tung bay khắp phía. Nguồn gốc và bản chất bí ẩn
của năng lượng tối (mang tính chất đẩy ra) và vật chất tối (mang tính chất
hút vào), hai thành phần chế ngự hầu như toàn diện vũ trụ, là đề tài nóng
bỏng của thiên văn và vật lý hạt cơ bản hiện đại. Kỳ lạ và bí ẩn thay, 96%
năng - khối lượng của vũ trụ ở ngoài tầm hiểu biết hiện nay của con người!
4- Lỗ đen:
Ở đâu tập trung mật độ năng-khối lượng càng lớn thì ở đấy sự biến dạng đàn
hồi của không-thời gian càng mạnh, sự biến dạng tăng lên cho đến khi tính
dẻo dai của không gian bị đứt, tựa như cao su nếu bị kéo quá căng sẽ hết co
dãn đàn hồi và thay đổi tính chất.
Hệ quả tất yếu của thuyết tương đối rộng là khi trọng trường
vô cùng lớn thì sự thay đổi trạng thái của không-thời gian từ dẻo dai sang
đứt vỡ làm xuất hiện các không-thời điểm kỳ dị, giai đoạn cuối đời của những
thiên thể có khối lượng khổng lồ.
Đại lượng đo lường sự biến dạng của không gian bởi khối lượng của vật chất ở
gần nó là hiệu số g00(r) ̶ η00 = h00(r) ≈
hii (r) ≈ 2GM/(c2r), ở đây M là khối lượng vật
chất và r = |x| là chiều dài của vectơ không gian x (coi phụ
chú 29). Khi đại lượng không thứ nguyên này nhỏ, thí dụ 2GM0/(c2R0)
≈ 4.2´10–6
như trường hợp mặt trời (với M0 là khối lượng
và R0 là bán kính của nó), ta có thể dùng phép tính xấp xỉ như
Einstein đã dùng để giải đáp hiện tượng tuế sai của Thủy tinh và tiên đoán
độ cong của ánh sáng khi đi gần mặt trời (coi tiểu đoạn E). Với khối
lượng M và bán kính R của trái đất thì đại lượng đặc trưng 2GM/(c2R)
là 1.38´10–9,
nhưng nếu 2GM/(c2r) = 1 thì lỗ đen xuất hiện như một biểu
tượng tận cùng của các thiên hà, tinh tú.
Mô
hình diễn tả cuộc đời của các thiên thể từ lúc phát sinh cho đến khi tàn lụi
là tiến trình tổng hợp nhiệt hạch các nhiên liệu hạt nhân nguyên tử trong
tâm lõi của chúng. Quá trình liên tục đó đưa đến cấu trúc nhiều vỏ bao quanh
thiên thể, giống như củ hành với nhiều màng lớp. Tâm lõi ngôi sao sau khi đã
đốt hết các nhiên liệu qua sự tổng hợp nhiệt hạch sẽ không còn phóng xạ và
hết chói sáng. Lực đẩy ra (do phóng xạ tung bay mạnh và tạo nên áp
suất) nay không còn nữa để chống lại lực hút vào (do trọng trường),
vì thế khi tàn lụi ngôi sao sẽ bị co lại bởi chính khối lượng của nó nén ép
nó. Khi bị nén ép quá độ, trong khoảnh khắc ngôi sao nổ bùng, nhiệt độ và
năng lượng kinh hoàng của nó phát ra tương đương với 10 tỷ mặt trời sáng
chói, đó là những sao siêu mới (supernovae) với vỏ ngoài tung bay khắp phía
còn tâm lõi lạnh dần để trở thành một trong ba trạng thái cuối đời: sao lùn
trắng, sao neutron (hay pulsar) và lỗ đen. Tùy theo khối lượng M và bán kính
R của ngôi sao, tiến trình biến chuyển của nó được diễn tả bởi hệ số
α ≡ 2GM/(c2R) lớn nhỏ khác nhau, sao lùn trắng nếu α vào
khoảng 10–3 hay 10–4, sao neutron nếu α
»
0.4 và cuối cùng là lỗ đen nếu α = 1. Sao neutron (electron và proton trong
tâm của nó bị nén ép biến thành neutron và neutrino, neutrino bay đi chỉ còn
lại neutron gắn chặt trong tâm lõi của sao nay lạnh dần và trở nên bền vững,
thậm chí còn quay xung quanh trục của nó). Nó có mật độ khối lượng vô cùng
lớn, 1cm3 của sao neutron nặng một tỷ tấn, đường bán kính R
của sao chỉ chừng 10 km mà khối lượng M của nó lại khoảng 1.6
khối lượng mặt trời, nên đại lượng đặc trưng α của sao neutron xấp xỉ bằng
0.4. Không gian trên sao neutron cong đến nỗi tổng cộng ba góc hình tam giác
bằng 250° (phụ chú 19), nhịp độ tích tắc khá chậm của đồng hồ trên sao này
chỉ bằng 78% so với đồng hồ trên trái đất (phụ chú 31). Sao neutron còn quay
nhanh chung quanh trục của nó và mỗi một vòng quay thì phóng ra một chùm
sóng vô tuyến (tần số dưới 300 GHz) cứ thế đều đặn như những nhịp điệu đồng
hồ nên còn thêm tên gọi pulsar mà cô nghiên cứu sinh Jocelyn Bell ở đại học
Cambridge năm 1967 vô tình khám phá ra và mang giải Nobel cho thầy hướng dẫn
luận án A. Hewitt.
Nhưng cái gì ngăn cản không cho các thiên thể (sau khi đã đốt hết nhiên
liệu) bị nén ép bởi chính khối lượng của chúng để trở thành ngay lỗ đen mà
phải dừng lại nửa chừng như sao lùn trắng và pulsar? Câu trả lời chủ yếu đến
từ nhà vật lý-thiên văn Mỹ gốc Ấn độ giải Nobel 1983 Subrahmanyan
Chandrasekhar[44]
trong chuyến tàu thủy mang cậu chưa đầy 20 tuổi từ Mumbai sang du học ở
Cambridge năm 1931 đã tài tình kết hợp vật lý lượng tử với trọng trường và
tìm ra khối lượng tới hạn MC để phân loại các thiên thể cuối đời
bị nén ép. Khi tàn lụi, các tinh tú có khối lượng nhỏ hơn MC ≈
1.44 khối lượng của mặt trời M0 sẽ trở thành sao lùn trắng, nếu
khối lượng bằng MC hay lớn hơn chút ít sẽ trở thành sao neutron,
còn nếu khối lượng khổng lồ (từ vài chục đến hàng triệu lần MC)
thì tiếp tục sụp đổ tới cùng để xuất hiện một cấu trúc không-thời gian kỳ dị
ở đó ánh sáng, tín hiệu thông tin và mọi vật chất mang khối lượng chẳng gì
thoát ra khỏi để đến với người quan sát ở ngoài xa. Biên giới của vùng
không-thời gian kỳ dị này gọi là chân trời sự kiện của lỗ đen, đó là tập hợp
những đường truyền của các tia sáng bị kìm hãm không thoát khỏi ra ngoài.
Karl
Schwarzschild, một trong hai người đầu tiên năm 1916 khi giải phương trình
Einstein, đã vô hình trung phát hiện ra tính chất độc đáo của một vật thể kỳ
lạ có sức hút mạnh kinh hoàng đến nỗi lôi cuốn cả ánh sáng không cho thoát
nổi
ra ngoài mặt biên của nó.
Tuy
nhiên ông không ý thức được ngay khái niệm cũng như tính chất kỳ dị của lỗ
đen[45],
ý nghĩa và tầm quan trọng của nó phải đến nửa thế kỷ sau mới được thấu hiểu
qua các công trình của Robert Oppenheimer và Hartland Snyder (năm 1939), của
Martin Kruskal, Roger Penrose vào những năm 1960 và John Wheeler đặt tên Lỗ
đen cho hiện tượng kỳ lạ này trong một hội thảo cuối năm 1967 rồi tiếp tục
năm 1974 bởi Stephen Hawking với lỗ đen bức xạ.
Mặc dầu thiên hà, tinh tú đều muôn vàn phức tạp lúc hình thành và biến
chuyển nhưng cuối đời sau khi đã kết thúc quá trình tổng hợp nhiệt hạch để
trở thành lỗ đen thì vật thể tận cùng này lại vô cùng đơn giản, ngoài khối
lượng M ra nó còn có thể mang điện tích Q và tự quay tròn với
momen góc J, chỉ cần ba thông số M, Q, J là đủ để xác định tất cả
các tính chất của lỗ đen qua metric tổng quát Kerr-Newman[46]
với đầy đủ cả ba thông số M, Q, J thay thế metric Schwarzschild chỉ
phụ thuộc vào M thôi.
“Lỗ đen là những vật thể vĩ mô
hoàn hảo nhất trong vũ trụ: nguyên tố duy nhất tạo nên chúng là khái niệm về
không gian và thời gian. Vì thuyết tương đối rộng cung cấp cho ta chỉ có một
lời giải trong tất cả các đáp số để mô tả chúng, vậy lỗ đen cũng là những
vật thể đơn giản nhất”, như Chandrasekhar viết.
Sau hết, có mối liên hệ sâu sắc giữa vật lý cổ điển (trọng trường, nhiệt
động học) và vật lý lượng tử khi Stephen Hawking phát hiện một hệ quả tất
yếu của lỗ đen là diện tích mặt biên Σ của nó tăng trưởng không ngừng. Tính
chất độc đáo không ngừng tăng trưởng của mặt biên này nhắc nhở đến khái niệm
entropi và định luật thứ hai trong nhiệt động học (entropi nôm na chỉ định
mọi vật đều có xu hướng tiến về trạng thái hỗn độn hơn lên, mức độ hỗn loạn
của mọi hệ thống vật chất không giảm mà chỉ tăng), khiến cho J.D. Bekenstein
đề xuất là lỗ đen phải có entropi tỷ lệ với diện tích của chân
trời sự kiện (nhân với hằng số Boltzmann kB theo định nghĩa). Từ
đó Hawking năm 1974 tìm ra công thức cho entropi Sbh của
lỗ đen:
Sbh
= ¼ kB (c3/ћG) Σ = kB (4πG/cћ)
M2 (III)
Trong Sbh có hai hằng số cơ bản: ћ = h/2π của
Planck và G của Newton; đây là lần đầu tiên vật lý lượng tử tiếp cận thành
công với thuyết tương đối rộng. Công thức (III) tương ứng với trường hợp đơn
giản của lỗ đen Schwarzschild, nhưng ta có thể dễ dàng nới rộng cho các loại
lỗ đen tổng quát hơn với cả ba thông số M, Q, J.
Rồi từ Sbh ta tính ra nhiệt độ T của lỗ đen, vì có
nhiệt độ nên lỗ đen phải bức xạ ra ngoài chân trời tối kín của nó như một
vật đen quen thuộc (phụ chú 41), lỗ
đen không còn đen tuyền nữa mà chỉ
xám thôi[47].
Bạn đọc lưu ý là sự tăng trưởng liên đới đến diện tích mặt biên của
lỗ đen chứ không phải thể tích của nó, đặc tính này khởi nguồn cho
những áp dụng của nguyên lý toàn ảnh (holographic principle) đối với các lý
thuyết trọng lực ‘hậu tương đối rộng’. Thực vậy như ta biết trong quang học
có một phương pháp gọi là toàn ảnh để ghi một vật thể 3 chiều bằng một ảnh 2
chiều, mọi thông tin mô tả vật thể trong thế giới ba chiều có thể mã hóa
trong mặt biên hai chiều. Nguyên lý toàn ảnh đại thể cho rằng trạng thái
của một hệ thống vật lý xác định trong một không-thời gian N chiều cũng
tương ứng 1-đối-1 với trạng thái của một hệ thống vật lý khác xác định trong
một không-thời gian có chiều nhỏ hơn N. Lỗ đen bức xạ có entropi tỷ lệ thuận
với diện tích (2 chiều) của mặt biên, chứ không phải với thể tích
(3 chiều) của vùng không gian mà mặt biên bao bọc, quả là một thí dụ cụ
thể của nguyên lý toàn ảnh. Như vậy ta có thể thay thế cách mô tả lỗ đen
(ngự trị trong một vùng không-thời gian N chiều) bằng một lý thuyết
phi hấp dẫn (như vật lý chất đậm đặc ở vùng không-thời gian N ̶ 1
chiều). Ta gọi nó là phép đối ngẫu toàn ảnh (holographic dual), hơn
nữa đó lại là một đối ngẫu “mạnh
«
yếu”, nghĩa là một thuyết có hằng số tương tác mạnh thì thuyết đối ngẫu của
nó lại có hằng số tương tác yếu ở chiều nhỏ hơn, và ngược lại (coi Maldacena
trong phụ chú 52).

Hình 3 minh họa một
lỗ đen
5- Đâu rồi phản vật
chất ?
Sự hiện hữu của phản vật chất (do Paul A.M.
Dirac dùng suy luận mà tiên đoán và C. Anderson khám phá ra sau đó) là hệ
quả sâu sắc của bản giao hưởng tuyệt vời giữa hai cột trụ của vật lý hiện
đại: tương đối hẹp và lượng tử[48].
Có vật chất thì cũng phải có phản vật chất, khi tụ hội chúng tự hủy để biến
thành năng lượng, và ngược lại nếu đủ năng lượng thì các cặp vật chất-phản
vật chất được tạo ra và đó là chuyện thường xuyên xẩy ra trong các máy gia
tốc hạt. Máy chụp hình PET-scan (Positron Emission Tomography) trong y học
ngày nay là một ứng dụng trực tiếp của hạt positron (phản electron)
khi nó hòa tụ với electron sẵn có trong cơ thể con người thì cặp
positron-electron biến thành tia bức xạ cực kỳ tinh vi để rọi sáng chi tiết
của cơ thể.
Vũ trụ lúc nổ lớn chỉ chứa đựng
duy nhất năng lượng với nhiệt độ vô cùng cao, từ đó khi nguội dần đã nẩy
sinh ra những cặp vật chất-phản vật chất. Chúng tương tác, biến chuyển, phân
rã tuân theo bốn định luật tương tác cơ bản của vật lý: mạnh, yếu, điện từ,
hấp dẫn. Số lượng vật chất và phản vật chất phải bằng nhau, chẳng cái nào
nhiều hơn cái nào vì vài phút sau Big Bang từ năng lượng thuần khiết ban
đầu, chúng đều được hình thành theo từng cặp. Bức xạ nền - mà COBE, WMAP và
sau hết vệ tinh Planck đo lường với chi tiết chưa từng đạt - chẳng bảo cho
ta ánh sáng tàn dư đó chính là sản phẩm của sự va chạm cách đây 13.7 tỷ năm
giữa vật chất và phản vật chất nẩy sinh từ năng lượng cực lớn sao? Mà vật
chất chính là nguyên tử, khí và thiên thể giăng đầy vũ trụ ngày nay, còn
phản vật chất lại chẳng thấy tăm hơi, tại sao vũ trụ
ngày nay lại chỉ có vật chất? Đó là một bí
ẩn của mô hình Big Bang vì ba lực (mạnh, điện từ và hấp dẫn) trong bốn tương
tác nói ở trên đều tuân theo luật đối xứng vật chất-phản vật chất (đối xứng
CP, ngôn từ của các hạt cơ bản), không có sự dị biệt giữa chúng. Chỉ có
tương tác yếu (ba thí dụ điển hình của tương tác yếu: sự tổng hợp nhiệt hạch
trong tâm mặt trời và các tinh tú, sự phân rã β của các hạt nhân nguyên tử
và vật lý hạt neutrino) mới vi phạm phép đối xứng CP, theo đó tương tác yếu
của phản vật chất và của vật chất không giống y hệt nhau mà khác đôi chút.
Sự khác biệt đó được diễn giải hoàn hảo trong Mô Hình Chuẩn của hạt cơ bản
và được kiểm chứng vô cùng chính xác bằng thực nghiệm. Nhưng sự vi phạm nhỏ
của phép đối xứng vật chất-phản vật chất trong các phòng thí nghiệm trên
trái đất không giải thích nổi về mặt định lượng tại sao trong vũ trụ ngày
nay vật chất lại áp đảo toàn diện phản vật chất, tại sao cái này lại biến đi
ngay từ trong trứng nước thời Nổ lớn? Trong việc diễn giải sự vi phạm đối
xứng vật chất-phản vật chất, tại sao hạt cơ bản thành công mà vũ trụ Big
Bang lại thất bại? Đó là một trong vài đề tài nghiên cứu ưu tiên của LHC
(phụ chú 35).
6- Sóng trọng trường:
Nếu điện thoại và máy vi tính di động tân kỳ là
tảng băng nổi của sóng điện từ trường với bốn phương trình Maxwell[49]
mà công nghệ thông-truyền tin hiện đại khai thác tuyệt vời, thì sự hiện hữu
của sóng trọng trường là hệ quả tất yếu của mười phương trình Einstein trong
thuyết tương đối rộng, minh họa tính dẻo đàn hồi của không-thời gian. Tiến
trình khai thác và ứng dụng của sóng trọng trường là cả một chân trời kỳ
diệu đang hé mở. Thời cổ điển truớc Einstein mọi người mặc nhiên chấp nhận
khái niệm tiên nghiệm của không-thời gian cứng nhắc chẳng chút nào liên đới
đến vật chất-năng lượng chứa đựng ở trong. Einstein qua thuyết tương đối
rộng chỉ dẫn cho ta một nhận thức khác kỳ lạ: sự phân phối năng-khối lượng
vật chất (thí dụ hệ thống hai lỗ đen dao động và hút nhau) không những bẻ
cong cấu trúc không-thời gian mà sự biến dạng đó lại truyền đi vô tận khắp
nơi dưới dạng sóng với vận tốc c của ánh sáng. Vậy sóng trọng trường
phản ánh sự phân phối dao động của vật chất và sự biến dạng đàn hồi của
không-thời gian, một đặc trưng của thuyết tương đối rộng. Một trong những
tín hiệu để nhận diện và đo lường được sóng trọng trường là sự thay đổi δL
của khoảng cách L giữa hai vật bị nhiễu loạn bởi sóng đi qua nó, cái thay
đổi δL/ L đó quá nhỏ khoảng 10–22 mà các giao thoa kế như Ligo
(Mỹ), Virgo và Geo (Âu châu), Tama (Nhật) cùng Lisa (quốc tế) đang và sẽ đo
lường.
7- Chân không lượng tử và sự dãn nở vũ trụ với
hằng số Λ:
Chân không lượng tử (quantum
vacuum), viết gọn thành Không được định nghĩa như trạng thái cơ bản
tận cùng của vạn vật, nó vô hướng, trung hòa, mang năng lượng cực tiểu trong
đó vật chất, tức là tất cả các trường lượng tử kể cả điện từ, đều bị loại bỏ
hết. Nhưng không phải vì Không chẳng chứa trường vật chất nào mà năng
lượng của nó bằng 0. Theo nguyên lý bất định Heisenberg, năng lượng của bất
cứ trạng thái vi mô nào là chuỗi (1/2)hν, (3/2)hν,
(5/2)hν...chứ không phải là 0hν,
1hν, 2hν...Cũng dễ hiểu thôi,
nguyên lý bất định bảo ta nếu xung lượng |k| được xác định rõ rệt bao
nhiêu thì vị trí trong không gian |x| lại mơ hồ rối loạn bấy nhiêu,
vậy năng lượng tối thiểu ε = (1/2)hν
≠ 0 chính là một thỏa hiệp tối ưu bình đẳng cho cả hai bên |k| và |x|.
Thực thế, nếu ε =
0, |k| = 0, vậy |x| không sao được xác định nổi. Phản ánh
nguyên lý này, thế giới vi mô luôn luôn dao động ngay ở nhiệt độ tuyệt đối
thấp nhất (năng lượng cực tiểu) và đó là ý nghĩa của sự thăng giáng lượng
tử (quantum fluctuation). Thang mức vi mô nói
chung là cả một vũ đài náo nhiệt và hỗn loạn, ‘vạn vật sinh hủy, hủy sinh,
ôi phí phạm thời gian’ như nhà vật lý kỳ tài Feynman từng ví von. Không gian
trống rỗng tưởng như yên tĩnh phẳng lặng thực ra chỉ là tổng quan trung bình
của một thực tại vô cùng phong phú và sôi sục ở mực độ sâu thẳm, tựa như
biển hiền hòa nhìn phiến diện trên bề mặt phẳng mượt vậy mà dưới lòng
sâu đang diễn ra một đợt sóng ngầm dao động
liên hồi. Bởi năng lượng cực tiểu khác 0 và vì
tần số ν
có thể là bất cứ con số nào từ 0 đến vô tận nên Không có năng lượng
phân kỳ[50]
khi ta lấy tích phân tất cả các mốt dao động. Tuy chẳng sao định lượng nổi
(vì năng lượng phân kỳ), nhưng chân không lượng tử vẫn có thể biểu hiện tác
động của nó qua hiệu ứng Casimir[51],
một đặc trưng quan sát đo lường được. Chính vì vô hướng, trung hòa lại có
năng lượng vô hạn, nên chân không lượng tử mang ẩn dụ một hư vô mênh
mang tĩnh lặng, từ đó do những kích thích nhiễu loạn của năng lượng trong
Không mà vật chất (cùng phản vật chất) được tạo thành để rồi chúng tương
tác, biến đổi, phân rã rồi trở về với Không, cứ thế tiếp nối
bao vòng sinh hủy! Chân không lượng tử chính là trạng thái cơ bản,
cội nguồn và chốn trở về cũng như ra đi của vạn vật.
Nó không rỗng tuếch chẳng có gì mà là cái thế lắng
đọng
của tất
cả.
Chân không-Vật chất-Không gian-Thời gian chẳng sao
tách biệt, đó là hệ quả của Tương đối (hẹp và rộng) phối hợp cùng Lượng tử!
Nhưng năng lượng cực kỳ lớn của chân không lượng tử (tai
họa chân không) lại vượt xa quá nhiều mật độ năng lượng tối
làm dãn nở vũ trụ mà các nhà thiên văn ước lượng bằng cách đo lường gia tốc
của các sao siêu mới. Xin nhắc lại năng lượng tối mang đặc
tính của chân không (với hằng số Λ vô hướng, xem phụ chú 38). Điều này minh
họa sự mâu thuẫn cơ bản giữa hai trụ cột của vật lý hiện đại Lượng tử và
Tương đối rộng.
G-Tạm
kết
Hai thuyết Lượng tử và Tương
đối rộng đều cần thiết để diễn tả các hiện tượng vật lý khi hai thế giới vi
mô và vĩ mô cận kề chẳng còn tách biệt như trong trung tâm sâu thẳm của lỗ
đen, trong trạng thái vũ trụ ở kỷ nguyên Planck (giây phút ban đầu của Big
bang với nhiệt độ kinh hoàng, không gian độ dài Lp cực nhỏ, năng
lượng Ep cực lớn, phụ chú 50), hoặc trong các máy gia tốc hạt
năng lượng cao mà LHC là điển hình nhất. Ở những điều kiện thái cực đó, các
định luật của trọng trường và của lượng tử không tương thích với nhau, hình
học không-thời gian cong uốn trơn tru của thuyết tương đối rộng lại xung đột
sâu sắc nhất với cái sôi động, thăng giáng lượng tử, các phương trình của
hai thuyết khi kết hợp cho ra những đáp số vô hạn, phi lý. Ngoài ra ở kỷ
nguyên Planck, cường độ của trọng lực (không đáng kể ở nhiệt độ và năng
lượng bình thường) không còn nhỏ nữa mà tương đương với cường độ của ba lực
cơ bản khác: điện-từ, mạnh và yếu. Ba lực này đã thành công tuyệt vời trong
sự hòa đồng với vật lý lượng tử, chúng diễn tả chính xác và nhất quán mọi
vận hành của vật chất trong thế giới vi mô hạ nguyên tử cho đến thế giới vĩ
mô của các thiên thể trong vũ trụ bao la. Theo thứ tự, sự phối hợp với lượng
tử của ba lực cơ bản trên mang tên Điện Động học Lượng tử (QED, Quantum
Electro-Dynamics), Sắc Động học Lượng tử (QCD, Quantum Chromo-Dynamics) và
Điện-Yếu (Electro-Weak Interaction), tóm tắt trong Mô hình Chuẩn (Standard
Model) của hạt cơ bản với không dưới ba chục giải Nobel trong khoảng 30 năm
gần đây. Có thể nói điện động học lượng tử là nền tảng phát triển kỳ diệu
của công kỹ nghệ thông-truyền tin hiện đại với vi điện tử, quang điện tử,
spin-điện tử.
Nhưng trong trung tâm sâu thẳm
của lỗ đen cũng như trong trạng thái vũ trụ ở kỷ nguyên Planck (giây phút
ban đầu của Big bang) thì luật hấp dẫn của thuyết Tương đối rộng lại mâu
thuẫn, không tương thích, nhất quán với Lượng tử. Nguyên nhân sự khác biệt
giữa ba lực trên với trọng lực - khi cả bốn kết hợp với nguyên lý bất định
Heisenberg (bị lượng tử hoá, nói theo ngôn từ chuyên môn) - có thể nhận ra
như sau: các trường (vật chất và điện từ) của ba lực khi bị lượng tử hóa
sẽ biến thành đơn vị rời rạc vận hành trong một không-thời gian liên tục
trơn tru. Trái lại trọng trường theo thuyết tương đối rộng lại chính là
metric của không-thời gian trơn tru liên tục đó, khi bị lượng tử hóa cái
trơn tru ấy chẳng còn giữ lại được đặc tính dẻo dai nguyên thủy nữa mà bị
mất tính đàn hồi, có nếp gấp và lỗ thủng (nói theo ngôn ngữ toán học topo)
tựa như mảng cao su căng quá bị xé rách. Tại sao thiên nhiên lại có thể
chính xác ở một quy mô nào đó, để rồi trở thành vô lý ở thang mức khác, cái
nghịch cảnh này phản ảnh sự thiếu sót trên con đường tìm kiếm định luật vận
hành của trọng trường lượng tử (quantum gravitation). Đó quả là vấn đề số
một của vật lý hiện đại mà tai họa chân không minh họa ở trên là một
thí dụ.
Thuyết Siêu dây (Superstring) là một trong vài[52]
lý thuyết mang khả năng, về nguyên tắc, dung hòa và giải quyết mâu thuẫn nói
trên, khả dĩ mô tả nhất quán tất cả bốn tương tác cơ bản trong cả hai thế
giới cực lớn của vũ trụ bao la và cực nhỏ của hạ nguyên tử, nhằm thống nhất
mọi điều về một mối. Theo thuyết này, thành phần cấu trúc cơ bản của vạn vật
không phải là hạt điểm (0 chiều) mà là dây hay màng (một hay nhiều chiều)
cực nhỏ với độ dài Planck khoảng 10–35 m, luôn dao động. Hai nền
tảng mà thuyết siêu dây dựa vào là Tương đối hẹp và Lượng tử, như vậy lúc
khởi đầu có sự cách biệt giữa cái vỏ chứa (không-thời gian phẳng
Minkowski) và cái bị chứa (dây đàn hồi dao động). Ngạc nhiên thay,
kết quả điểm đến là cái bị chứa chuyển giao tính đàn hồi cho cái
vỏ chứa, cái không-thời gian phẳng này hết cứng nhắc mà trở thành cong
uốn đàn hồi của thuyết tương đối rộng, như vậy trọng lực là hệ quả tất yếu
suy ra từ siêu dây. Một đặc điểm khác, siêu dây là thuyết duy nhất đầu tiên
trong vật lý xác định được con số D = 10 chiều của không-thời gian (trước
siêu dây, số chiều 4 của không-thời gian ta mặc nhiên chấp nhận chỉ là một
định đề tiên nghiệm do cảm quan) minh họa không-thời gian là bộ phận chẳng
thể tách rời khỏi vật chất mà thuyết tương đối rộng đã hé mở cho ta thấy.
Sáu chiều không gian còn lại, tuy bị cuốn tròn quá nhỏ để ta không quan sát
được trong đời sống hàng ngày, có thể làm thay đổi chút xíu luật 1/R2
của trọng lực Newton, một đề tài thực nghiệm nóng hổi. Máy gia tốc LHC cũng
tìm kiếm gián tiếp chiều không gian ẩn này, qua cái gọi là hiện tượng ‘bất
bảo toàn năng lượng ảo’, vì ta chẳng đo lường nổi một phần năng lượng
chảy vào cái không gian ngoại vi đó. Đặc điểm thứ ba của siêu dây là khả
năng thống nhất điện-từ với trọng lực mà
Einstein trăn trở tìm kiếm không thành,
nôm na điện-từ trường như siêu dây hở (hai đầu dây tự do)
và trọng trường như siêu dây kín (vòng
kín). Nhưng cần nhấn mạnh là mặc dầu có những tiến bộ kinh ngạc, nhiều khía
cạnh lý thuyết của siêu dây còn xa mới hoàn toàn sáng tỏ và nhất là
chưa/không có một tiên đoán nào của nó được chứng nghiệm dẫu gián tiếp.
Edward Witten - chuyên gia đầu ngành của thuyết này, nhà vật lý đầu tiên
được huy chương Fields uy tín về toán, có lẽ không ai, kể cả những giải
Nobel vật lý, có công trình được trích dẫn nhiều bằng ông - đã một lần tuyên
bố: thuyết siêu dây là một bộ phận của vật lý thế kỷ 21 đã tình cờ rơi xuống
thế kỷ 20, ngụ ý có lẽ cần biết bao năm nữa mới được hoàn tất! Cơ sở toán
học của nó quá phức tạp, các chuyên gia siêu dây phải tự mình mò mẫm cũng
như Newton khoảng 350 năm trước đây phải sáng tạo phép tính vi tích phân để
diễn tả các định luật của cơ học và lực hấp dẫn cổ điển, khác với Einstein
đã sẵn có hình học cong Riemann làm nền tảng để dựa vào mà khám phá ra
thuyết tương đối rộng.
Vào cuối thế kỷ thứ 19,
có một mâu thuẫn giữa một bên là lý thuyết điện từ +
nhiệt động học - hai trụ cột cơ bản của vật lý thời đó - và bên kia là thực
nghiệm đo lường về hiện tượng bức xạ nhiệt của vật đen. Thực thế, lý thuyết
trên đưa đến một hệ quả phi lý là tổng năng lượng phóng xạ bởi vật đen phải
vô hạn, cụ thể ngồi trước một bếp sưởi hồng, bất kỳ nhiệt độ cao thấp
ra sao ta sẽ bị thiêu cháy tan biến hết! Vậy mà Lord Kelvin, người
của nhiệt độ tuyệt đối, giáo hoàng của vật lý thời đó có câu tuyên bố năm
1892 xanh rờn vì quá lạc quan: “Vật lý đã hoàn chỉnh cả rồi về mặt căn bản,
cái mà ta còn có thể đóng góp chỉ là xác định thêm vài thập phân sau dấu
phẩy cho các đo lường, tính toán mà thôi. Tuy nhiên hãy còn hai vấn đề
nho nhỏ...”. Hai tiểu tiết ông nêu lên là: thứ nhất Michelson và
Morley chẳng tìm thấy chất liệu ether (xem phần I về thuyết Tương đối hẹp)
tràn ngập vũ trụ trong đó dao động sóng điện từ, thứ hai các đo lường ngày
càng chính xác về cường độ bức xạ nhiệt của vật đen (phụ chú 41) không phù
hợp với nền tảng căn bản của vật lý kèm thêm cái hệ quả phi lý nói trên. Ngờ
đâu đó chính là hai vấn đề cốt lõi làm ngọn hải đăng chỉ đường cho khoa học
vượt trùng dương đi tìm biên giới của tri thức. Giải quyết được hai tiểu
tiết trên theo thứ tự là Albert Einstein với thuyết tương đối hẹp, và Max
Planck với thuyết lượng tử, hai trụ cột của vật lý hiện đại. Ai có thể tưởng
tượng nổi trăm năm sau ý tưởng của Planck, theo ước tính của J. A. Wheeler,
một phần ba tổng sản lượng kinh tế của cường quốc số một thế giới hiện nay
có gốc nguồn từ những ứng dụng trực tiếp của công nghệ lượng tử. Lord
Kelvin, rất tinh tường khi nêu lên hai tiểu tiết, vô hình trung đã nhắn ta
bài học nhún nhường về kiến thức hạn hẹp cục bộ của con người so với cái
không biết mênh mông. Qua con mắt ngây thơ của em trẻ hỏi ta đủ thứ, khát
vọng hướng thượng, tìm hiểu, học hỏi, sáng tạo chính là đặc tính bẩm sinh
của loài người. Như chim di đứng trên đôi cánh của chim bằng để cùng nhìn
cao xa hơn mà Besso thuở nào nói về bạn Einstein, dựa trên thành quả của
người đi trước, mong sao mỗi chúng ta từ trái đất nhỏ nhắn cùng nhau góp
phần cho sự hài hòa giữa người với người và với môi trường thiên nhiên mà
vươn tới hoàn vũ bao la.
Chúng ta không quên câu nhắc
nhở sau đây của Einstein “ Tôi không biết thế chiến thứ ba con người dùng vũ
khí gì nhưng tôi biết trong thế chiến thứ tư họ chỉ còn có gậy và đá!”.
Tài liệu tham khảo
1- Thibault Damour, Si Einstein m’était conté,
Le Cherche Midi (2005)
2- Roger Penrose, The Road
to Reality, Vintage Books (2007)
3- Trịnh Xuân Thuận, Từ
điển yêu thích bầu trời và các vì sao, nxb Tri Thức (2011)
4- David Langlois,
Relativité Générale, Vuibert (2013)
Phụ Chú
phần I
[1]
Hệ quy chiếu quán tính là hệ quy chiếu di chuyển với vectơ vận tốc
v đều đặn (độ dài và chiều hướng của v cố định, không
thay đổi với thời gian, như vậy gia tốc a
º
dv/dt = 0). Các vectơ trong không gian ba chiều đều
viết dưới dạng in đậm như v, k và v ≡ |v|, k =
|k|. Vectơ X có 3 thành phần không gian là x, y, z, ta
viết gọn X (x, y, z).
[2]
Đa tạp bốn chiều không-thời gian có tung độ là trục thời gian ct,
hoành độ là không gian ba chiều với ba trục Ox, Oy, Oz. Đồ thị của
phương trình s²
º
x² + y² + z²
-
(ct)² trong đa tạp này là một nón ánh sáng với đỉnh là
một điểm T nằm trên tung độ (OT = ct), còn đáy nón là quả cầu
S bán kính r, với r2 = x² + y² + z², nửa góc ở đỉnh nón
bằng 45°. Quỹ đạo của các tia ánh sáng (khối lượng = 0, tương ứng
với trường hợp s² = 0 vì ct = r) là vành biên của nón, nối
đỉnh T với chu vi của mặt cầu, còn quỹ đạo của các vật mang khối
lượng m
¹
0 (tương ứng với trường hợp s²
>
0 vì v
<
c) nằm bên trong nón ánh sáng. Các quỹ đạo vận hành
của vật chất (sự kiện) đều có thể diễn tả bởi những đường cong nằm
trong nón ánh sáng. Trong hình dưới đây, quả cầu S được tượng trưng
bởi một vòng tròn nằm trong mặt phẳng của hai trục không gian Ox,
Oy, mặt phẳng này cắt quả cầu S bởi một mặt phẳng khác thẳng góc với
trục không gian Oz. Nón úp diễn tả quá khứ, nón mở là
tương lai, còn đỉnh nón T là bây giờ.

Poincaré là người đầu tiên gán tên Lorentz cho phép hoán chuyển này
vì Lorentz viết nó ra dưới dạng gần đúng năm 1895 và dạng chính xác
năm 1904. Thực ra Woldemar Voigt cũng tìm ra năm 1887 nhưng chỉ khác
bởi một hệ số chung toàn bộ và Joseph Larmor năm 1900. Poincaré tổng
quát hóa công thức của Lorentz bằng ma trận 4 x 4 với cả bốn toạ độ
x, y, z, t, thay vì hai tọa độ x, t của hoán chuyển Lorentz đặc
biệt. Tuy đã biết công trình gần đúng năm 1895 của Lorentz nhưng
Einstein khi phân tích những khái niệm cơ bản về thời gian và không
gian đã suy diễn ra phương trình hoán chuyển giữa x và t này một
cách độc đáo, khác với các vị trên. Còn cách giải thích và nhận xét
ý nghĩa vật lý của sự hoán chuyển x, t thì có sự khác biệt giữa
Einstein và các vị tiền bối khác.
[5]
Một cách đơn giản cơ học tương đối tính là cơ học cổ điển kèm thêm
hệ số γ, trong các phương trình diễn tả cơ học Newton ta thay thế
các đại lượng vật lý (khối lượng m, xung lượng p…)
bằng tích số của chúng với γ để thành cơ học tương đối tính. Cơ học
cổ điển (tương ứng với trường hợp các chuyển động chậm,
v/c « 1 hay c
®
∞,
γ
®1)
là dạng xấp xỉ của cơ học tương đối tính.
Mời bạn tham khảo bài
của Craig Callender: Is
time an illusion? Scientific
American, tháng 6/ 2010 do Cao Chi biên dịch dưới nhan đề
Thời gian phải chăng
chỉ là một ảo tưởng?
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=111&CategoryID=2&News=3316
[7]
Bạn đọc có thể thắc mắc
là hai anh em di chuyển với vận tốc cố định so với nhau (như
chuyển động tương đối giữa hai hệ quy chiếu J và J ',
với vận tốc + v của J ' so với J và
-
v của J
so với J ' nói trong bài), người này so với người kia biết
ai bay ai ở, anh hay em người nào cũng thấy thời gian của mình dài
hơn thời gian của người kia, làm sao biết ai già ai trẻ? Đúng vậy
trong trường hợp vận tốc v của hỏa tiễn mãi mãi cố định
trên một đường thẳng duy nhất không thay đổi chiều hướng và cường độ.
Để thấy sự khác biệt, ta phải xét trường hợp có một bất đối xứng nào
đó, một trong hai người di chuyển với vận tốc thay đổi về chiều
hướng và/hay cường độ, thí dụ bay đến một hành tinh, đậu xuống đấy
và trở về trái đất.
[8]
Thưcủa Einstein cho
Lincoln Barnett, ngày 19 tháng 6 năm 1948 (Hebrew University of
Jerusalem, Israel).
Xem thêm bài của Lev.
B. Okun, Physics Today June 1989, 31-36. Trong cuộc trao đổi với các
đồng nghiệp ở vài đại học và viện nghiên cứu Nga, Lev. Okun đố họ là
trong bốn công thức sau: E = mc2, E0
= mc2, E = m0c2,
E0 = m0c2 cái
nào diễn tả đúng ý Einstein, chỉ có một thiểu số trả lời trúng, đó
là công thức thứ nhì !
[11]
Mặc dầu bốn thành phần của tứ-vectơ
pμ
vì phụ thuộc vào hệ số
γ
nên chúng đều thay đổi theo v, nhưng độ dài bình phương của tứ-vectơ
(p0)2 – |p|2 không
phụ thuộc vào v, nó bất biến: (p0)2 –
|p|2 = m2c2.
Cũng vậy, năng lượng E =
γmc2
và xung lượng p =
γmv
đều thay đổi theo v nhưng E2 – |p|2c2
= m2c4 không phụ thuộc vào v,
nó bất biến trong mọi hệ quy chiếu. Bất biến là điều kiện tiên quyết
mà thuyết tương đối đòi hỏi, nếu E ≠
γmc2
(thí dụ E =
γmcv)
thì ta không có một bất biến nào.
[45]
Schwarzschild tìm metric gμν(xλ)
tĩnh (không phụ thuộc vào thời gian t) mang đối xứng cầu, tạo
ra bởi một ngôi sao khối lượng M chìm trong một không gian rỗng
tuếch, do đó ở ngoài ngôi sao thì vế phải phương trình Einstein tức
là tenxơ Tμν = 0. Ông
dùng tọa độ cầu r,
q,
j
thay thế tọa độ phẳng x, y, z, và đặc biệt metric g00(r)
chỉ phụ thuộc vào r = (x2 + y2 + z2
)½.
[47]
Diện tích của chân trời lỗ đen Schwarzschild ΣS =
4π (RS)2 = 16πG2M2/c4
.
Bán kính của lỗ đen
Kerr-Newman RKN = (½){RS + √(RS2
̶ (2Rq)2 ̶ (2RJ)2},
từ đó diện tích mặt biên của lỗ đen Kerr-Newman ΣKN =
8π(G2/c4) M{M + √(M2 ̶
(Mq)2 ̶ (MJ)2)}
với (Mq)2 =
(1/4πε0) Q2/G và (MJ)2
= (Jc /GM)2. Lỗ đen Schwarzschild là trường hợp
riêng lẻ của lỗ đen tổng quát Kerr-Newman khi Q = 0, J
= 0.
Vì entropi theo định
nghĩa là hằng số Boltzmann kB nhân với một đại lượng
không thứ nguyên luôn tăng trưởng tượng trưng bởi Log
Ω,
nhưng ở đây mặt biên Σ
có thứ nguyên là diện tích, vậy
Σ
phải tính theo một đơn vị diện tích phổ quát chỉ phụ thuộc duy nhất
vào ba hằng số cơ bản c, G, h. Đó là bình phương chiều dài
Planck Lp = [Gћ
/c3]½ (phụ chú 50), vậy
Σ
phải chia cho (Lp)2 = [Gћ/c3]
để thành đại lượng không thứ nguyên trong entropi.
Nhiệt độ T của lỗ đen
được tính theo công thức quen thuộc trong nhiệt động học 1/T = dS
/dE, kết quả là: 1/(kBT) = 4πGM{1 + [1 ̶
(Mq)2 /M2 ̶ (MJ)2
/M2 ] ̶ ½ }/(c3 ћ).
Nhiệt độ của lỗ đen (mà khối lượng M bằng khối lượng M0
của mặt trời) chỉ khoảng 10–7 K.
Sau hết, Hawking tính
ra hệ số ¼ trong công thức (III) cho entropi của lỗ đen để sao cho
nó có phổ bức xạ của một vật đen ở nhiệt độ T (bức xạ Planck).
| |