Những bài cùng tác
giả
Những bài cùng đề tài
Neutrino là
thành phần nhỏ nhất của một thực tại vật chất mà con
người đã từng hình dung ra, thành phần lớn nhất là
Vũ trụ. Tìm hiểu cái này qua cái kia là tìm cách
trải rộng quy mô trong đó định luật thiên nhiên biểu
hiện dưới muôn hình
Clyde Cowan và Frederick Reines

Paul
Gauguin
D'Où Venons Nous/ Que Sommes Nous/ Où
Allons nous
Fine Art
Museum of Boston
(Mời
bạn ngắm tranh từ phải sang như Gauguin nhắn nhủ với
3 giòng
D'Où Venons Nous/ Que Sommes Nous/ Où Allons nous
ở góc trái phía trên cùng)
1- Sơ lược hiện tình về hạt cơ bản và
vũ trụ.
Trong
câu mở đầu của bản báo cáo về sự phát hiện lần đầu
tiên ra hạt neutrino ở lò phản ứng hạt nhân
Savannath River (South Carolina, Mỹ), hai nhà vật lý
Cowan và Reines (giải Nobel 1995) dùng động từ
hình dung ra, điều gây chút ngạc nhiên cho người
viết bài này khi đọc lần đầu, nhưng suy ngẫm lại mới
càng thấy thấm đượm.
Thực thế, khi con người xây dựng
được một hệ thống nghiêm túc của những ý tưởng và
suy luận chặt chẽ, nhất quán cũng như những ngôn từ
tương xứng để diễn tả và giải thích thế giới bên
ngoài, thì theo nghĩa đó họ đã hình dung ra
thực tại thiên nhiên mà Hạt cơ bản và Vũ trụ là thí
dụ điển hình về cái mà chúng ta hiểu biết về hai
thái cực vô cùng nhỏ cũng như vô cùng lớn đó. Cái
hiểu biết về thế giới tự nhiên này có phải là sự
thật không? Hạt cơ bản neutrino có vai trò
nào trong cuộc tìm kiếm cội nguồn của con nguời nối
liền quá khứ với tương lai trong vũ trụ? chúng ta từ
đâu đến, là gì, về đâu? những câu hỏi muôn thủa.
Tất nhiên hạt cơ bản (viên gạch
vi mô tận cùng của vật chất, không sao chia
cắt nổi) hay vũ trụ (tổng thể vĩ mô bao trùm vạn
vật, kể cả không gian lẫn thời gian) - mà con người
hình dung ra - không phải là duy nhất, sự
hiểu biết về chúng phát triển tùy theo thời đại và
các nền văn hóa.
Hết rồi thời
xa xưa khi kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là 5 thành phần
sơ đẳng cốt lõi của vật chất, chỉ mới cách đây trăm
năm thôi phân tử hãy còn được coi là hạt sơ cấp thì
đủ thấy sự biến chuyển ra sao. Ngày nay chúng ta
biết phân tử là tập hợp của nhiều nguyên tử khác
nhau liên kết bởi electron ngoại vi, mà mỗi nguyên
tử lại là hạt nhân của nó thu hút những electron dao
động chung quanh bởi lực điện từ mà photon là sứ giả
truyền tin, rồi hạt nhân nguyên tử cũng lại do
proton cùng neutron gắn kết với nhau mà thành, sau
hết proton và neutron cũng đều là trạng thái liên
kết của quark u, d qua trao đổi
gluon. Cứ thế như những con mẫu búp bê Nga liên hồi
chứa đựng nhau, chuỗi dài của những hạt cơ bản đi từ
phân tử đến quark là cả một quá trình sáng tạo, khám
phá bền bỉ khi lên lúc xuống, lý thuyết cùng thực
nghiệm chặt chẽ đan xen.
Theo sự hiểu biết
hiện đại thì hạt cơ bản là quark và lepton, chúng là
những viên gạch sơ đẳng tận cùng để cấu tạo nên vật
chất bất động hay sinh động ít nhất là trên Trái
đất, hệ Mặt trời, thâm chí cả trong giải Ngân hà.
Còn vũ trụ thì
muôn hình vạn trạng, từ xa xưa đó là vũ trụ thần
linh, huyền thoại, thiên đình, nhân dạng, địa tâm,
nhật tâm trải dài từ các nền văn hóa Lưỡng Hà, Ai
Cập, Ấn Độ, Trung Quốc, Maya …, đến nay thì vũ trụ
được hiểu là ra đời cách đây khoảng 13.7 tỷ năm từ
một trạng thái sơ khai ở đó nhiệt độ và năng lượng
cực kỳ lớn dồn ép trong một không gian vô cùng nhỏ
đã xảy ra một vụ nổ lớn kinh hoàng mang tên gọi Big
Bang làm vũ trụ tăng dần kích thước.
Nơi xảy ra vụ
nổ chính là chỗ bạn đang đọc bài này cũng như ở bất
cứ nơi đâu trong toàn vũ bao la vì trong thời-điểm
ấy mọi chỗ ngày nay tách biệt hàng tỷ năm ánh sáng
thực ra đã cùng chụm lại ở cái không-điểm kỳ dị ấy,
chẳng có một trung tâm vũ trụ ban đầu nào cả. Thuyết
Big Bang tiên đoán sự hiện hữu tất yếu của một hiện
tượng vật lý mang tên "bức xạ nền vũ trụ", đó là ánh
sáng tàn dư của cái thuở ban đầu cực nóng mà nay
lạnh chỉ còn 2°.725 độ Kelvin đang lan toả khắp nơi
trong toàn vũ. Sự khám phá tình cờ ra nó năm 1965
bởi Arno Penzias và Robert Wilson (giải Nobel 1978)
là bằng chứng thực nghiệm rất thuyết phục về Big
Bang. Ngày nay trong vũ trụ bao la đó có chừng 96%
một cái năng-khối lượng gì mà chúng ta chưa từng
biết[1],
chúng mang tên gọi Năng lượng tối (chiếm
khoảng 74%) và Vật chất tối (chiếm 22%).
Còn lại chừng 4% là vật chất bình
thường quen thuộc mà phản ứng tổng hợp nhiệt hạch
của chúng làm chói sáng bầu trời ban đêm, trong đó
neutrino, chi phối duy
nhất bởi lực hạt nhân yếu, đóng
vai trò cực kỳ quan
trọng.
Năng
lượng tối liên hệ đến sự dãn nở ngày càng tăng tốc
của vũ trụ từ 7 tỷ năm gần đây mà ngược lại từ 13.7
đến 7 tỷ năm trước đó, do sức ép của trọng trường
vật chất, vũ trụ đã giảm dần gia tốc tăng trưởng của
thủa ban đầu Big Bang. Còn Vật chất tối là ngôn từ
để diễn tả sự gắn kết mạnh mẽ giữa các chùm thiên hà
xa xăm không cho chúng phân tán.
Vật chất tối kỳ lạ
này không bức xạ, nghĩa là không bị chi phối bởi ba
tương tác cơ bản quen thuộc (điện từ, mạnh và yếu
của hạt nhân nguyên tử), khối lượng của nó chỉ có
vai trò duy nhất là tạo ra trọng lực hút vào để giữ
cho các thiên hà góp thành chùm chứ không tung bay
khắp phía. Nguồn gốc và bản chất bí ẩn của năng
lượng tối (mang tính chất đẩy ra) và vật chất tối
(mang tính chất ép vào), hai thành phần chế ngự hầu
như toàn diện vũ trụ, là đề tài nóng bỏng của thiên
văn và vật lý hạt cơ bản hiện đại.
Kỳ lạ và bí ẩn thay, 96% năng - khối
lượng của vũ trụ ở ngoài tầm hiểu biết hiện nay của
con người!
Trở lại hiện
tình của các hạt cơ bản mà sơ đồ được tóm tắt trong
Hình 1, chúng gồm có hai phần: những fermion (hạt có
spin ½)([2])
như quark
và lepton và những boson chuẩn (hạt có spin 1) như
photon, gluon và Z, W.
Có sáu loại quark mang ký hiệu u(up),
d(down), s(strange), c(charm),
t(top), b(bottom), và sáu loại lepton
bao gồm ba hạt e– (electron), μ–
(muon), τ – (tauon) mang điện tích âm
-e, và ba hạt neutrino
ne,
nμ,
nτ
trung hòa điện tích, theo thứ tự ba hạt neutrino này
bao giờ cũng sánh đôi từng cặp với ba hạt electron,
muon, tauon trong sự vận hành. Sự cân bằng trong
thiên nhiên về số lượng: 6 loại quark và 6 loại
lepton không tình cờ mà là hậu quả sâu sắc (nhưng
khá kỹ thuật chuyên môn) của đối xứng chuẩn trong lý
thuyết trường lượng tử.
Chỉ có bốn lực cơ bản chi phối sự
tương tác của vật chất, đó là các lực hạt nhân
mạnh, yếu cùng với điện từ và
hấp dẫn (hay thuyết tương đối rộng). Ba tương
tác "phi hấp dẫn": mạnh, yếu, điện từ đã
thành công trong việc được lượng tử hóa và tái chuẩn
hóa (điều mà luật hấp dẫn của thuyết tương đối rộng
không/chưa làm được), chính vì vậy mà ba lực này
diễn giải nhất quán và chính xác những tác động của
các hạt vi mô cơ bản.
Lực mạnh gắn kết quark trong hạt
nhân nguyên tử và làm cho vật chất vững bền nói
chung.
Lực điện từ diễn tả electron tương
tác với proton trong hạt nhân nguyên tử để tạo nên
các nguyên tử và phân tử của các hóa chất trong bảng
tuần hoàn Mendeléev cũng như của các tế bào và gen
sinh vật.
Lực yếu chi phối toàn diện sự vận
hành của neutrino, làm cho một số hạt nhân nguyên tử
phân rã và phát tán neutrino.
Quark cũng như lepton tương tác với
nhau qua trao đổi các boson chuẩn (gauge boson).
Boson chuẩn của lực mạnh là gluon, của lực điện từ
là photon và của lực yếu là hai boson W, Z, chúng
tựa như keo hồ có vai trò làm trung gian nối kết và
truyền tải thông tin cho các viên gạch cơ bản quark
và lepton tương tác với nhau và tạo thành vật chất.
Abdus Salam, người Pakistan, cùng
với hai người Mỹ Sheldon Glashow và Steven Weinberg
đã khám phá ra là mặc dầu hai định luật cơ bản
điện-từ và yếu có cường độ tương tác quá khác biệt
nhưng thực ra chúng có rất nhiều đặc tính
chung và hơn
nữa có thể kết hợp trong một tương tác duy nhất mà
Salam đặt tên là Điện-Yếu. Sự thống nhất này
được thực hiện nhờ một cơ chế gọi là Phá vỡ Tự phát
tính Đối xứng (Spontaneous Breaking of Symmetry,
SBS) mà người tiên phong mở đường là Yoichiro Nambu,
giải Nobel 2008 và Peter Higgs dùng ý niệm SBS để
tìm ra một kịch bản (gọi là cơ chế và hạt Higgs)
mang khối lượng cho W, Z và cả cho quark lẫn lepton([3]).
Thành tựu này gọi là Mô Hình Chuẩn
(Standard Model) đã mang lại khoảng hai chục giải
Nobel trong vài chục năm gần đây.

Hình 1: Sơ đồ các
hạt cơ bản
Tương tác mạnh (strong
interaction) của các quark trao đổi gluon giữa chúng
còn được gọi là Sắc động lực học lượng tử
(Quantum Chromodynamics hay QCD), thuật ngữ vay mượn
của Ðiện động lực học lượng tử
(Quantum Electrodynamics hay QED) diễn tả tương tác
điện từ của các hạt mang điện tích trao đổi photon
giữa chúng.
Hai danh từ sắc và điện
để chỉ định hai tính chất lượng tử riêng biệt,
sắc tích (color charge) của quark và điện
tích (electric charge) của lepton e
–, μ –, τ –. Thuật ngữ
sắc dùng ở đây chẳng có chút liên hệ gì tới màu sắc
xanh, đỏ của ngôn ngữ bình thường. Theo một định lý
sâu sắc của lý thuyết trường lượng tử liên kết spin
với phép thống kê, vì có spin ½ nên khi 3 quark kết
hợp với nhau trong trạng thái căn bản để tạo thành
proton thì quark phải mang 3 đặc tính lượng tử (mà
ta gọi là 3 sắc tích)
để tuân thủ
phép thống kê Fermi-Dirac. Quark khác lepton ở chỗ
là ngoài sắc tích ra, chúng cũng mang điện tích,
nhưng điện tích của chúng không phải là con số
nguyên (-1)e như electron (hay muon và tauon)
mà + (⅔)e cho ba quark u, c, t
và - (⅓)e cho ba quark d, s, b.
Con số 3 này đeo đuổi hoài nhà vật lý trứ danh
Murray Gell-Mann (giải Nobel 1969) ở Đại học
Caltech[4]
Chính vì quark có cả sắc tích và điện
tích nên chúng bị chi phối bởi cả ba lực: mạnh, điện
từ và yếu. Còn electron, muon, tauon vì mang điện
tích nên bị tác động bởi hai lực: điện từ và yếu.
Neutrino vì trung hòa điện tích nên chỉ bị chi phối
duy nhất bởi lực yếu mà thôi. Thuật ngữ yếu thoạt
nghe tưởng như nhỏ yếu ít tác động, nhưng thực ra nó
chủ chốt chi phối các phản ứng tổng hợp nhiệt hạch
trong các thiên thể, phát tán ra năng lượng cực kỳ
cao mang ánh sáng cho bầu trời ban đêm cũng như
phóng ra hàng muôn tỷ hạt neutrino từng giây đang
xuyên qua mỗi cm2
da thịt chúng ta.
Sự tổng hợp nhiệt hạch trong tâm lõi
mặt trời cũng như trong các thiên thể của vũ trụ bao
la: 4 H ®
He + 2 e+ + 2
ne
là thí dụ của tương tác yếu với phát xạ neutrino
(Hình 2, 3). Vì khối lượng của 4 nguyên tử Hydrogen
lớn hơn khối lượng của Helium nên thặng dư đó biến
thành năng lượng theo E = mc2 để làm
trung tâm mặt trời nóng rực tới chừng 20 triệu độ.

Hình 2: tổng hợp nhiệt hạch: 2
proton
®
proton + neutron + e+ +
ne

Hình 3: tổng hợp nhiệt hạch: 4 H
®
He4 + 2 e+ + 2
ne
Neutrino xuất hiện khắp nơi trong
hoàn vũ, không những từ tâm lõi các thiên thể mà
cũng trong lòng sâu quả đất do phóng xạ tự nhiên của
vài khoáng chất, đặc biệt Uranium. Phóng xạ tự nhiên
này tạo nên plasma nóng khoảng 6000° trong tâm trái
đất, nhiệt lượng đó xoay vần và chuyển dần ra các
lớp đất bên ngoài để đôi khi, qua những hoạt động
của núi lửa, phun lên khí cùng hoá chất cực nóng
(Hình 4). Mới cách đây 18 ngàn năm trong giai đoạn
cuối cùng của thời kỳ băng thạch, tuyết phủ dầy đặc
bao trùm phần lớn quả cầu, ngay cả vùng xích đạo.
Biết đâu tổ tiên chúng ta người tiền sử đã thoát
khỏi nạn tuyệt chủng bởi cái lạnh kinh hoàng này, vì
may thay cùng xảy ra trong thời kỳ băng
lạnh đó thì núi lửa lại hoạt động cực kỳ mạnh[5]
với khí nóng lan toả nhanh chóng xuống mặt đất qua
hiện tượng nhà kính, mà nhiệt lượng sản xuất trong
lòng trái đất chính là bởi phóng xạ neutrino tự
nhiên này.

Hình 4:
vật chất trong
lòng trái đất xoay vần, chuyển nhiệt từ trong ra
ngoài, tạo nên hoạt động núi lửa
2- Một thoáng lịch sử ra đời của
neutrino.
Henri
Becquerel và vợ chồng Pierre & Marie Curie là những
người đầu tiên phát hiện một số hạt nhân nguyên tử
tự nhiên phóng xạ mà chẳng do một tác động nào từ
bên ngoài.
Một trong những hình thức bức xạ tự
nhiên là sự phân rã từ hạt nhân A (thí dụ
Carbon 14) biến đổi sang hạt nhân B
(Nitrogen 14) mà điện tích lớn hơn điện tích của A
một đơn vị e, kèm theo một electron, gọi là phân rã
Bêta (Hình 5). Nếu chỉ có electron phát ra thôi (A
®
B + electron)
thì luật bảo toàn năng lượng cho ta biết ngay là
electron chỉ có duy nhất một năng lượng cố định, đó
là hiệu số EA
-
EB
(năng lượng của A trừ đi năng lượng của B), nghĩa là
nếu không có ‘một cái gì đó’ kèm theo thì phổ
năng lượng của electron phải là đường thẳng đứng màu
đỏ (Hình 6) ở điểm tận
cuối phổ năng
lượng (endpoint spectrum).
Ngạc
nhiên biết mấy, khi đo lường năng lượng của electron
thì thấy nó có bất kỳ một trị số nào nằm giữa
0 và EA
-
EB,
vậy phổ năng lượng của electron là một đường liên
tục (Hình 6, đường cong màu đen). Chẳng lẽ định luật
phổ quát nhất của vật lý, định luật bảo toàn năng
lượng lại bị vi phạm trong trường hợp đặc biệt của
phân rã Bêta sao? Ngay cả vị trưởng lão Niels Bohr
của trường phái Copenhagen về cách diễn giải cơ học
lượng tử, cha đẻ của lý thuyết nguyên tử, cũng đành
miễn cưỡng chấp nhận sự vi phạm này.

Hình 5: Phân rã
Bêta

Hình 6: Phổ năng lượng của
electron
Nhưng Wolfgang Pauli không thể đồng ý
với cách thỏa hiệp dễ dãi ấy của Bohr, bảo toàn năng
lượng là định luật phổ quát mà tất cả mọi hiện tượng
phải tuyệt đối tuân thủ. Để giải đáp nghịch lý này,
năm 1931 Pauli giả định là phải có một cái gì đó
phát ra đồng thời với electron để chia sẻ với nó
tổng số năng lượng
EA
-
EB
theo như sơ đồ A
®
B + electron + cái gì đó (Hình 5), tựa như
neutron
®
proton + electron + cái gì đó. Vì neutron
trung hoà điện tích và cặp proton + electron triệt
tiêu điện tích của nhau nên hạt giả định bởi Pauli
phải trung hòa không mang điện tích, nó cũng phải
mang spin
½ như electron (vì A và B đều có spin
như nhau) và hầu như không có khối lượng (vì năng
lượng cực đại của electron hầu như bằng EA
-
EB).
Hơn nữa, so với phóng xạ rất nhanh của điện từ (như
tia X) thì phân rã Bêta lại rất chậm chạp, nghĩa là
cường độ lực phân rã hạt nhân rất nhỏ nên được gọi
là lực yếu và neutrino hoàn toàn bị chi phối bởi lực
này. Khác với electron mang điện tích, cái hạt giả
định bởi Pauli đã nhẹ như tơ lại còn trung hoà -
không bị chi phối bởi lực điện từ dễ quan sát hơn
nhiều mà chỉ vận hành bởi một lực mà cường độ tương
tác lại rất yếu - nên xác định bằng thực nghiệm sự
hiện hữu của nó là một điều cực kỳ khó khăn, và
Pauli đành tuyên bố: Tôi chót phạm vào một điều tai
quái là đã giả định sự hiện hữu của một hạt nhưng
lại không sao dò tìm ra nó được.

Wolfgang Pauli (giải Nobel 1945)
Từ nay
mang ký hiệu ν, hạt ma rất khó nắm bắt này chính là
neutrino (neutron nhỏ), tên đặt ra bởi Enrico Fermi,
vị giáo hoàng của nền vật lý Ý, khi ông ghép trung
hoà (neutre) với nhỏ xíu (ino), hai ngôn từ gắn bó
với quê hương ông. Lần đầu tiên năm 1955 có duy nhất
một hạt
ne
được phát hiện bởi Cowan và Reines trong một thực
nghiệm ở lò điện hạt nhân Savannah River. Ngày nay
chùm neutrino được sản xuất dễ dàng từ các máy gia
tốc hạt mà LHC (Large Hadron Collider) của Trung tâm
Âu châu Nghiên cứu Hạt nhân (CERN) đóng vai trò hàng
đầu thế giới.
Nhưng
neutrino không chỉ sản xuất trên trái đất, còn có
hàng muôn tỷ neutrino trong vũ trụ từ các thiên thể
xa xăm, kể cả mặt trời, đến với chúng ta, vấn đề là
làm sao dò được ra, rồi xác định cùng đo lường tính
chất của chúng. Các nhà thiên văn-vật lý dùng nhiều
máy móc rất khác nhau để tìm bắt, quan sát neutrino.
Ở Kamiokande (Nhật) máy dò là một bình khổng lồ chứa
50 ngàn m3 nước tinh khiết như pha lê
trong đó lung linh hàng ngàn thiết bị điện tử tinh
vi đặt dưới hầm mỏ thiếc (Hình 7), nhóm IMB đặt máy
trong hầm mỏ muối ở Ohio (Mỹ), ở Baksan (Nga) đài
quan sát neutrino đặt sâu trong rặng núi Caucasus
(Hình 8). Ngày 23 tháng 2 năm 1987 ba đài ‘thiên
văn-neutrino’ này đã quan sát đo lường được cả
thảy 24 hạt đến từ một siêu tân tinh (supernova)
SN1987A trong thiên hà Magellan (sát cạnh giải Ngân
hà) cách đây 163 ngàn năm đã nổ bùng mà độ chói sáng
rực rỡ tương đương với mươi tỷ mặt trời và phát tán
hằng hà sa số, tổng cộng 1058 hạt
neutrino

Hình
7: Máy dò neutrino ở Kamiokande


Hình
8:
Baksan Neutrino Observatory (BNO), Baksan gorge in
the Caucasus
3- Đặc
tính của
neutrino
và viễn tượng .
3a-
Khối lượng: To be or not to be. Ngay
từ thủa sơ khai mà Pauli hình dung ra hạt neutrino,
khi đo lường năng lượng của electron phát ra bởi
phân rã Bêta ở điểm
tận cuối phổ năng lượng, người ta thấy
ngay là neutrino
ne
có
khối lượng quá ư nhỏ nhoi, khoảng một phần triệu
khối lượng của electron. Còn khối lượng của
nμ
và
nτ
tuy không đo được chính sác như
ne
nhưng chắc chắn là chúng cũng rất nhỏ so với
khối lượng
của hai
bạn đồng hành muon và tauon. Mô hình chuẩn bèn đưa
ra tiên đề chấp nhận là cả ba loại neutrino
ne,
nμ,
nτ
đều
có khối lượng bằng 0.
Trong vũ trụ
chỉ có duy nhất hạt ánh sáng (photon) của lực điện
từ là phải không có khối lượng[6],
đó là một điều kiện tiên quyết của đối xứng chuẩn
trong Ðiện động lực học lượng tử (QED). Trái lại,
không có một lý thuyết nào bó buộc một fermion như
neutrino phải có khối lượng bằng 0 cả, khác với
photon là một boson chuẩn làm trung gian để nối kết
và truyền tải lực điện từ cho các viên gạch cơ bản
mang điện tích tương tác với nhau. Vậy câu hỏi
neutrino có (hay không có) khối lượng, một tính chất
rất quan trọng cần phải được soi sáng và định lượng.
Khối lượng khác 0 của neutrino có thể đáp ứng phần
nào câu hỏi về cấu trúc vận hành nói chung của vũ
trụ, về vật chất tối là gì, về tại sao chỉ có
vật chất mà vắng bóng phản vật chất
trong toàn vũ.
Nếu có, thì khối lượng của neutrino
là bao nhiêu, bằng cách nào mà có thể cân đo những
khối lượng quá ư nhỏ bé đó được ? Cách thức cân đo
này gọi là sự dao động chuyển hoán giữa ba loại
ne,
nμ,
nτ
neutrino[7].
Sự chuyển hoán giữa ba loại neutrino này chỉ có
thể xảy ra nếu chúng có khối lượng khác nhau,
tức là ít nhất hai trong ba loại neutrino phải có
khối lượng khác 0 và cũng khác nhau nữa.
Trải qua hơn 30 năm, với biết bao
nhiêu thực nghiệm kiên trì quan sát đo lường khởi
đầu từ năm 1968 ở hầm mỏ muối Homestake (Mỹ) bởi
Raymond Davis và kết thúc năm 2001 bởi Masatoshi
Koshiba ở hầm mỏ thiếc Super-Kamiokande (Nhật), câu
hỏi mới được trả lời là neutrino có khối lượng tuy
rất nhỏ nhưng khác 0 và mang lại cho hai vị giải
Nobel 2002.
3b- Neutrino và Phản Neutrino.
Trong 12 viên gạch cơ bản có 6 loại quark và 3
hạt electron, muon, tauon đều mang điện tích âm hoặc
dương. Những hạt có điện tích này phải khác phản
hạt của chúng vì điện tích của phản hạt và của
hạt ngược dấu nhau, ta gọi chung là loại hạt Dirac.
Trái lại neutrino vì trung hòa điện tích nên có khả
năng là neutrino cũng chính là phản neutrino<,
tuy hai mà một. Ta gọi nó là neutrino Majorana, khác
với trường hợp neutrino Dirac theo đó neutrino và
phản neutrino khác nhau, thí dụ neutrino Dirac có
spin xoay trái thì phản neutrino Dirac xoay phải.
Còn neutrino Majorana có cả hai thành phần, xoay
trái và xoay cả phải. Bản chất neutrino thuộc vào
loại nào?, Dirac hay Majorana. Bản chất này đang
được thực nghiệm xác định qua sự phân rã rất hiếm
gọi là Bêta kép:
neutron+ neutron
®
proton + proton + e+ e-
+ e-
neutron+ neutron
®
proton + proton + e+ e-
+ e-
+ 0 neutrino (Majorana)
Bản chất cũng như khối lượng của
neutrino là hai điều tối cần thiết cho sự hiểu biết
về hạt này và để lại những hậu quả quan trọng đo
lường được. Trong tất cả các hạt cơ bản, duy nhất
neutrino là có tiềm năng thuộc vào loại Majorana
theo đó phản hạt với hạt lồng ghép trong nhau tuy
hai mà một.
3c-Thiên văn-Vật lý Neutrino.
Ánh sáng
khắp nơi trong vũ trụ đến với chúng ta chỉ là từ
vỏ ngoài mặt của các tinh tú vì photon sinh ra trong
tâm lõi các thiên thể không thoát nổi ra ngoài vỏ mà
bị hấp thụ cùng biến đổi bởi môi trường nóng đặc ở
trong thiên thể. Chính vì photon không thể cho ta
thông tin về cái gì xảy ra trong tâm các vì sao mà
neutrino đã được tận dụng để tìm hiểu các phản ứng
tổng hợp hạt nhân xảy ra trong đó, trước hết bằng
cách đo lường thông lượng của neutrino sản xuất bởi
mặt trời. Vì chỉ bị chi phối bởi lực hạt nhân yếu
với cường độ tác động quá nhỏ nên neutrino xuyên
suốt từ trong ra ngoài mặt trời để đến trực tiếp máy
dò trên trái đất mà không hề biến đổi. Neutrino từ
tâm lõi mặt trời đã cho ta thông tin đầu tiên là
neutrino có khối lượng khác 0 qua quan sát đo lường
bởi nhóm của Davis ở Homestake (coi đoạn 3a).
Nhưng neutrino của mặt trời chỉ có
năng lượng tương đối nhỏ thôi, trái lại từ ngoại vi
của các thiên hà xa xăm, thậm chí từ biên ải tận
cùng của vũ trụ, lân cận các lỗ đen, ở những nơi đó
đã phát tán ra neutrino bởi những nguồn năng lượng
lớn hơn hàng tỷ lần năng lượng mặt trời. Nhiều đài
thiên văn-neutrino đồ sộ - nằm sâu dưới mặt băng
tuyết ở Nam cực hay dưới biển cả - được xây dựng để
khảo sát đo lường những neutrino năng lượng cực kỳ
cao đó, và một ngành mới gọi là thiên văn-neutrino
ra đời và đang trên đà phát triển mạnh.
3d- Lớn hơn vận tốc ánh sáng ?
Vì neutrino có
khối lượng tuy khác 0 nhưng cực kỳ nhỏ nên trong
thực tế vận tốc của neutrino chẳng khác gì vận tốc
c của ánh sáng photon. Ngoài neutrino ra,
không hạt nào khác mang tiềm năng có vận tốc bằng,
thậm chí lớn hơn, c cả. Không nghi ngờ gì,
neutrino là ứng viên không những độc nhất mà cũng
sáng giá nhất có cái tiềm năng độc đáo này, đặc biệt
đối với neutrino có năng lượng cực kỳ cao hay/và
neutrino loại Majorana. Mới đây nhóm thực nghiệm
OPERA ở Gran Sasso (Ý) đưa ra báo cáo neutrino có
vận tốc lớn hơn c với tất cả sự thận trọng
cần thiết[8].
Phải cần nhiều thực nghiệm rất khác nhau và cũng rất
khó khăn để kiểm chứng kết quả quá ngạc nhiên, thậm
chí đáng nghi ngờ này, vì nếu đúng thì cả một nền
tảng, một hệ hình của vật lý cận đại - từ thuyết
Lượng tử đến thuyết Tương đối - đều lung lay và một
mô thức hậu Einstein đầy thú vị sẽ nẩy sinh. Tuy hãy
còn quá sớm để phỏng đoán điều gì nhưng đó là một
thách thức tuyệt vời cho ngành thiên văn-vật lý
neutrino gửi đến thế hệ trẻ.
Phạm
Xuân Yêm
22/10/2011
[1]
Khám phá quan trọng khởi đầu từ năm 1998
đang trên đà phát triển mạnh, nó bất ngờ vì
trái ngược với trực giác và định kiến, đó là
thay vì giảm tốc do áp lực co hút, nén vào
của trọng trường vật chất, vũ trụ lại tăng
tốc và dãn nở mạnh hơn lên! Thực thế vụ nổ
Big Bang kinh hoàng ban đầu với một lực đẩy
ra cực kỳ mạnh đã tạo ra không-thời gian và
làm nó dãn nở, nhưng sau đó vũ trụ nguội
dần, đám mây các hạt cơ bản ban đầu đặc lại
và hút lẫn nhau tạo nên những chùm thiên
hà. Chúng phải gây ra một trọng trường để
nén ép không gian co lại và vũ trụ vì thế có
nhiều khả năng giảm dần tốc độ dãn nở. Để
trả lời câu hỏi là không gian giảm gia tốc
dãn nở ra sao, hai nhóm các nhà thiên văn -
dẫn đầu một bên bởi Saul Perlmutter ở
Berkeley (Mỹ) và bên kia bởi Brian Schmidt ở
Mount Stromlo (Úc) cùng
Adam G. Riess ở Baltimore
(Mỹ) -
tìm cách đo lường sự giảm tốc
này bằng cách đo lường vận tốc tách rời nhau
(qua sự xê dịch về phía đỏ của quang phổ)
của các siêu tân tinh (supernovae) loại Ia ở
nhiều khoảng cách khác nhau (qua độ sáng vô
cùng rực rỡ của chúng).
Sau gần mười
năm cật lực tìm tòi khoảng 50 siêu tân tinh
loại Ia để đo lường khoảng cách cùng vận tốc
tách rời nhau của chúng, hai nhóm Mỹ và Úc
đưa ra kết
luận giống nhau và rất bất ngờ: vũ
trụ tuy có giảm tốc tăng trưởng nhưng chỉ
trong có 7 tỷ năm đầu thôi, sau đó nó lại
tăng tốc dãn nở cho đến nay.
Biện minh và bổ sung thêm cho khám phá sửng
sốt này đến từ những đo lường mới đây rất
chính xác bởi vệ tinh WMAP về sự thăng giáng
nhiệt độ của bức xạ nền, chúng cho ta một
biên vũ trụ Euclid không lồi lõm mà phẳng và
đang dãn nở ngày càng nhanh. Điều này đòi
hỏi một lực đẩy vạn vật ra xa, chống lại lực
hút vào của trọng trường vật chất, nghĩa là
cần phải có một áp lực mới để sinh ra lực
đẩy đó. Thành phần năng lượng diễn tả lực
đẩy mới này mang tên năng lượng tối.
Để có được sự tăng tốc dãn nở ở thời điểm 7
tỷ năm sau Big Bang, tính toán cho biết
năng lượng tối phải chiếm đến khoảng 74%
tổng năng - khối lượng của toàn vũ. Trong
26% còn lại, chỉ chừng 4% là vật chất bình
thường quen thuộc mà phản ứng nhiệt hạch của
chúng làm chói sáng bầu trời ban đêm. Phần
22% sau rốt là một loại vật chất tối
hoàn toàn khác lạ. Vật chất tối kỳ lạ này
không bức xạ, nghĩa là không bị chi phối bởi
ba tương tác cơ bản quen thuộc (điện từ,
mạnh và yếu của hạt nhân nguyên tử), khối
lượng của nó chỉ có vai trò duy nhất là tạo
ra trọng lực hút vào để giữ cho các thiên hà
góp thành chùm chứ không tung bay khắp phía.
Giải Nobel vật lý 2011 vinh
tặng Saul Perlmutter, Brian Schmidt và
Adam
G. Riess về khám phá này.
[2]
Đơn vị đo lường của spin là
ħ = h/2p,
h là hằng số Planck. Qua phương trình Dirac,
spin ћ/2
của fermion là một đặc trưng độc đáo của
lượng tử.
Spin miêu tả
tính chất
quay vòng
nội tại
của
các
hạt vi
mô cơ bản (như
con
quay
xoay
chung quanh
trục của nó),
spin
ћ/2
=
h/4π
nghĩa là
hạt
phải quay hai
vòng
(4π)
mới
trở
lại vị trí
ban đầu,
điều
không tưởng trong cơ học cổ điển
[3][3]
Coi
bài "Địa trục, Thiên hà " của Phạm Xuân Yêm
trong tập1 của Kỷ Yếu 2009, 400
năm Thiên văn học & Gallieo Gallilei,
nxb Tri Thức, Hanoi (2009). Chi tiết có thể
tham khảo trong cuốn giáo trình
Elementary Particles and their Interactions,
Concepts and Phenomena của Hồ Kim Quang
và Phạm Xuân Yêm, nxb Springer, Berlin, New
York (1998) và bản dịch sang tiếng Trung
Quốc bởi nxb Beijing World Publishing Corp.
(2009), với các chương: 7 về quark và SU(3),
8 và 9 về SBS, Điện-Yếu, QCD, 12 về
neutrino, 17 về hạt Higgs.
[4]
Ba
quark nhẹ u, d, s với nhóm SU (3)flavor
rồi lại 3 sắc tích với nhóm SU (3)color ,
sau hết lại điện tích phân số (⅔)e cho 3
quark u, c, t và -
(⅓)e cho 3 quark d, s, b.
Tên quark cũng như điện tích
phân số + (⅔)e, – (⅓)e của chúng là do
Murray Gell-Mann khám phá ra. Vì túng danh
từ thông dụng, ông mượn câu bí ẩn "Ba quark
cho Muster Mark" của nhà văn James Joyce
trong cuốn truyện Finnegans Wake để đặt tên
quark cho ba thành phần u, d, s< của
vật chất mà Gell-Mann tiên đoán với dụng cụ
toán học là nhóm đối xứng SU(3) giữa ba
thành phần cơ bản đó. Chính câu "quark" kèm
theo con số 3 gợi cho ông tên lạ lùng này.
[5][5]
[6]
Gluon - không trực tiếp quan sát đo lường
được, do tính chất ‘’ nô lệ hồng ngoại ‘’
của lực hạt nhân mạnh QCD - được coi như
cũng không có khối lượng.
[7][7]
Dao
động giữa các loại neutrino
ne,
nμ,
nτ
nghĩa là một
loại có thể chuyển hoán biến
thành
loại khác, thí dụ
ne
chuyển thành
nμ
hay
nτ
. Điều này chỉ xảy ra nếu chúng có khối
lượng khác nhau.Ta có thể tính toán được sự
dao động đó, dựa trên ý tưởng của B.
Pontecorvo và sự hỗn hợp (mixing) giữa các
loại neutrino do Z. Maki, M. Nakawara và S.
Sakata đề xướng vào những năm đầu 1950. Nhóm
của Davis quan sát đo lường được
ne
chuyển hoán thành
nμ,
còn nhóm của Koshiba là
nμ
chuyển hoán thành
nτ.
Chi tiết về sự dao động neutrino được diễn
giải ở chương 12 trong sách Elementary
Particles and their Interactions, Concepts
and Phenomena giới thiệu ở phụ chú 3.
8
Nhóm thực nghiệm Opera ở CERN và Gran Sasso
http://arxiv.org/abs/1109.4897
Coi thêm phản ứng của
giải Nobel Sheldon Glashow
Cohen, A. G. & Glashow, S. L. Preprint at
http://arxiv.org/abs/1109.6562
|