(trả lời bác
sĩ Nguyễn Văn Dũng trên báo
Sức khỏe và Đời sống)
Một
bạn đọc của ykhoanet cho tôi biết bài viết “Không
được tùy tiện phát ngôn tiêu cực về chống dịch tiêu chảy cấp”
của bác sĩ Nguyễn Văn Dũng trên báo Sức khỏe và Đời sống (số ra ngày
hôm qua, 21/4/2008). Bài viết là một phản hồi những ý kiến của tôi
trên báo Người lao động (số ra ngày 15/4/2008). Trước hết, tôi cám ơn
tác giả đã bỏ công và thời giờ để đọc qua những ý kiến của tôi và có
bài phản hồi.
Đọc hết
bài viết, tôi thấy vừa thú vị nhưng cũng vừa thất vọng. Thú vị là vì
nội dung bài viết đáng lẽ bàn thảo vấn đề bệnh “tiêu chảy cấp” nhưng
lại được đặt cho một tựa đề mà đọc lên giống như là một mệnh lệnh và
cảnh cáo của cấp trên ban hành cho cấp dưới. Thất vọng là vì xuyên
suốt bài viết đó, tôi không thấy tác giả biểu lộ một văn hóa khoa học
nào cả, mà thay vào đó là những câu văn nặng nề đầy dẫy những tính từ
chỉ có thể mô tả là hằn học: hồ đồ, tùy tiện, chưa
hiểu cặn kẽ, v.v… Với một thái độ như thế tôi e rằng sẽ làm ô
nhiễm môi trường thảo luận khoa học. Tuy nhiên, bỏ qua thái độ thiếu
học thuật đó, tôi thấy bài viết toát lên một số vấn đề mà tôi muốn bàn
lại cùng tác giả Nguyễn Văn Dũng trong bài phản hồi này: đó là vấn đề
bằng chứng khoa học, tư cách khoa học và những cáo
buộc vô cớ.
Bằng chứng
khoa học
Xin nói
ngay rằng, khi đề cập đến “bằng chứng khoa học”, tôi muốn nói đến
những dữ liệu được đúc kết từ những nghiên cứu đã được công bố trên
các tập san khoa học có hệ thống bình duyệt. Bằng chứng khoa học
không phải là những phát biểu của các quan chức, cũng không phải là
những quan sát ban đầu chưa qua phân tích, chưa qua bình duyệt chuyên
môn.
Dựa vào
tiêu chuẩn trên, tôi thấy các phát biểu của tác giả Nguyễn Văn Dũng
hoàn toàn chẳng có bằng chứng khoa học nào cả, ngoại trừ lặp lại những
kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. Thật ra, một số kiến thức mà
ông lặp lại cũng không phù hợp với kiến thức y học hiện hành. Ở đây,
tôi chỉ nêu lên 4 vấn đề liên quan đến bằng chứng khoa học trong việc
phòng chống bệnh tả và tiêu chảy cấp tính.
Vấn
đề thứ nhất là vai trò của vi khuẩn.
Tác giả Nguyễn Văn Dũng viết
rằng “Trong các vi khuẩn chỉ điểm nhiễm bẩn phân người và gia súc,
các vi khuẩn Streptacoccus và Staphilltacoccus là chỉ điểm môi trường
mới ô nhiễm, còn E.Coli chỉ điểm nhiễm bẩn phân đã xảy ra được ít lâu
…” nhưng không trình bày bằng chứng của phát biểu này xuất phát từ đâu
hay có dữ liệu khoa học nào làm cơ sở hay không. Xem qua bất cứ sách
giáo khoa về vi sinh học nào, chúng ta dễ dàng thấy phần lớn vi khuẩn
Staphylococcus (chứ không phải “Staphilltacoccus”.
Trên thế giới chưa ai viết sai như vậy, kiếm trên Google thì rõ) vô hại, và
thường thấy ở da và chất nhầy của người và động vật. Vi khuẩn này
cũng không được xem là nguyên nhân của bệnh truyền nhiễm. Ngoài ra,
vi khuẩn Streptococcus (chứ không phải thuật ngữ cũ “Streptacoccus”)
cũng thường hay thấy ở đường hô hấp trong người. Trung bình có 5 đến
15% người bình thường chứa vi khuẩn này. Các nghiên cứu ở các nước
nhiệt đới cho thấy rõ rằng dựa vào sự hiện diện của coliform,
streptococcus và coliphages không phải là những chỉ số đáng tin cậy để
đánh giá nước bị nhiễm khuẩn từ phân [1-2]. Cần nhắc lại rằng
coliform có thể sống sót trong nước ấm, nhất là ở những vùng nhiệt đới
như nước ta; do đó, sự hiện diện của coliform trong nước không hẳn có
nghĩa là nước bị nhiễm phân. Ngay cả các vi khuẩn như
Bifidobacterium spp. Và Clostridium perfringens tuy phản
ảnh độ nhiễm khuẩn khá hơn, nhưng lại khó đo lường vì thiếu độ đặc
hiệu (specificity) [1].
Thứ
hai là vấn đề mắm tôm và bệnh tả.
Tác giả Nguyễn Văn Dũng hỏi “Mắm
tôm đã được ‘minh oan’ hoàn toàn?” và tự trả lời rằng mặc dù 100% mẫu
mắm tôm đều không hàm chứa vi khuẩn gây bệnh tả V. cholerae, nhưng hàm
chứ các vi khuẩn colifrom (sai chính tả!) và Cl. Perfringens,
rồi lí giải rằng “Tuy nuôi cấy có thể không phát hiện có phẩy khuẩn
tả vì muối chỉ có tác dụng ức chế (hút nước tế bào nội mô của vi
khuẩn, làm cho vi khuẩn bị ‘mất nước’ hoặc ‘hôn mê’ mà chưa hẳn đã
chết). Có thể vì thế vẫn giữ nguyên tính kháng nguyên của độc tố ruột
và vẫn gây tiêu chảy cấp?” Tôi e rằng các lí giải này thiếu bằng
chứng khoa học và không thuyết phục.
Trước
hết, để trả lời mắm tôm có được minh oan hay không, tôi xin mượn lời
phát biểu của Thứ trưởng Trịnh Huân Quấn: “Thịt chó, mắm tôm
không phải là nguyên nhân gây bệnh trong vụ dịch này nữa. Mà
nguyên nhân là thực phẩm tươi sống, thực phẩm nguội và nguồn nước đang
bị ô nhiễm nặng nề” (báo
Pháp Luật
TPHCM, ngày
21/11/2007).
Còn lí
giải của tác giả Nguyễn Văn Dũng tôi phải nói là rất lạ lùng và phi
khoa học. Bằng chứng nào để ông nói rằng vi khuẩn tả chỉ “hôn mê”,
chưa chết và vẫn gây tiêu chảy? Thật kinh ngạc cho một nhà khoa học
đưa ra một phát biểu quan trọng mà không có bằng chứng khoa học! Về
mặt sinh học, vi khuẩn tả (V. Cholerae O1) phát triển trong môi trường
nhiệt độ tối ưu là 37oC (dao động từ 10 đến 43oC),
trong cả môi trường có không khí (“hiếu khí”) và không có không khí
(“yếm khí”) nhưng tối ưu trong môi trường hiếu khí. Vi khuẩn tả phát
triển mạnh trong môi trường nước với nồng độ muối tối ưu là 0,5% (dao
động từ 0,1 đến 4%), và mức độ tăng trưởng cũng như số lượng vi khuẩn
giảm đi rõ rệt và thấp nhất khi nồng độ muối trong nước vượt qua
ngưỡng 3% [3] Một nghiên cứu khác cho thấy với nồng độ muối 0,25%
(nồng độ tối ưu) thì vi khuẩn tả mới có thể sản sinh ra độc tố tả [4].
Vấn
đề thứ ba là phát biểu mù mờ.
Một phát biểu khác của tác giả có
mang chút màu sắc khoa học là câu ông nhắc nhở rằng độ pH thấp hơn 4,6
“là độ axít có tác dụng diệt khuẩn để bảo quản, còn muối mặn chỉ có
tác dụng ức chế để bảo quản mà không có tác dụng diệt khuẩn!” Một
câu phát biểu không rõ ràng! Khuẩn nào? Một lần nữa, câu phát biểu
không có bằng chứng và dữ liệu khoa học.
Không
thể nói rằng mắm tôm là thủ phạm hay nguyên nhân gây bệnh tả mà không
chứng minh được vi khuẩn gây bệnh tả có trong mắm tôm. Cũng không thể
nào nói rằng mắm tôm là nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy cấp tính khi
không dẫn chứng được các vi khuẩn coliform và và Cl.
Perfringens trực tiếp gây bệnh tả. Không thể nào vạch định chính
sách y tế cộng đồng dựa vào những nhận định cá nhân, thiếu dữ liệu
khoa học. Vấn đề mắm tôm đã được đưa ra bàn luận trong Hội nghị về
thực phẩm vừa diễn ra ở Hà Nội ngày 11/4/2008, Phó Thủ tướng Thường
trực Nguyễn Sinh Hùng đã cho rằng mắm tôm không phải là thủ phạm chính
gây tiêu chảy cấp. Lí luận về mối liên hệ giữa mắm tôm và bệnh tả của
Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm thậm chí còn được giới báo chí nhận xét
là “đuối lý”! (Xem báo Tiền Phong ngày 12/4/2008).
Vấn
đề thứ tư là quan điểm thiếu nhất quán.
Điều làm tôi thấy sợ và
rất quan tâm là ông viết rằng “Trong khi dịch tiêu chảy cấp đã lan
rộng, mầm bệnh gây dịch phát tán khắp nơi trong tất cả các môi trường,
các bề mặt của mọi thứ có thể là trung gian truyền bệnh thì mọi biện
pháp nhằm ‘bao vây, dập tắt dịch’ trong thời điểm này đều đúng, dù
phải trả giá ở khía cạnh nào đó.” Với quan điểm đó, và trong tình
trạng “Tiền
giấy bị nhiễm khuẩn E.coli rất nặng”
[5], tôi phải hỏi ông có cấm lưu hành tiền giấy hay không?
Việc
tìm thấy E. coli trong thực phẩm như rau cải hay thịt ở Việt
Nam có đáng ngạc nhiên và làm cho ông phải đóng cửa chợ? Năm 2004 các
nhà nghiên cứu Việt – Úc đã tiến hành nghiên cứu để biết tần số hiện
diện của E. coli trong thực phẩm, và kết quả này đã được công
bố trên một tập san sinh học và môi trường vào năm ngoái [6]. Trong
nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu ra các chợ trong Thành phố Hồ Chí
Minh và lấy 50 mẫu thịt bò, 30 mẫu thịt gà, 50 mẫu thịt heo, và 50 mẫu
hải sản (tôm, sò, cua, ghẹ, v.v…). Sau khi phân tích, họ phát hiện
trên 90% các mẫu thịt và hải sản hàm chứa E. coli. Tại sao ông
không hành động vào năm 2004 mà để đến khi bệnh bộc phát thì mới hành
động để “phải trả giá ở khía cạnh nào đó”. Ai trả giá đó, nếu không
là người dân?
Tác giả
Nguyễn Văn Dũng nặng lời trách tôi và bác sĩ Lê Đình Phương là hồ đồ.
Tuy nhiên, rất tiếc là ông không chứng minh được tôi hồ đồ chỗ nào.
Sẵn đây, xin mời ông đọc phát biểu của Tiến sĩ Trần Đáng, Cục trưởng
Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm rằng “Nếu như không kiểm soát được
lượng tiền nhiễm khuẩn E. coli lưu thông thì nguy cơ mang mầm bệnh,
chủ yếu là ảnh hưởng về đường tiêu hóa sẽ lây lan cao.” Ông thấy
phát biểu trên như thế nào? Ông có thấy tác hại của một tuyên bố như
thế đến kinh tế, du lịch, và tâm lí xã hội không? Và, quan trọng hơn,
cơ sở khoa học ở đâu? Nghiên cứu đó được thực hiện như thế nào,
phương pháp ra sao, và kết quả công bố ở đâu? Ông nên lắng nghe người
dân, lắng nghe các đồng nghiệp y tế để biết họ nghĩ gì về “nghiên cứu”
cho rằng “tiền giấy bị nhiễm khuẩn gây tiêu chảy”!
Xin
nhắc tác giả Nguyễn Văn Dũng rằng trong một nghiên cứu ở Yên Sở (Hà
Nội) các nhà nghiên cứu theo dõi 636 người (tuổi từ 15 đến 70) thuộc
400 gia đình từ tháng 11/2002 đến tháng 5/2004, và qua phân tích phân,
các nhà nghiên cứu thấy có khoảng 14% bệnh nhân tiêu chảy bị nhiễm vi
khuẩn E. coli, nhưng trong nhóm người không mắc bệnh tiêu chảy
vẫn có khoảng 10% nhiễm vi khuẩn E. coli. Nói cách khác, chưa
có bằng chứng để nói rằng có mối liên hệ giữa E. coli và tiêu
chảy cấp tính trong nghiên cứu này [7].
Tư cách
khoa học
Bây giờ
tôi bàn đến vấn đề tư cách khoa học. Tác giả Nguyễn Văn Dũng cho rằng
những người ngoài chuyên ngành vệ sinh dịch tễ như tôi và bác sĩ Lê
Đình Phương không có tư cách khoa học để bàn về vấn đề phòng chống
bệnh tả. Tôi thấy đây là một quan điểm khá phổ biến ở trong nước:
người ta thường bác bỏ ý kiến của những người ngoài ngành hay “ngoại
đạo”. Nhưng rất tiếc đó là một quan điểm cực kì sai lầm và không theo
kịp với thời đại của y học hiện đại. Trong bất cứ lĩnh vực y học hiện
đại nào, để hiểu vấn đề đến nơi đến chốn cần phải có sự hợp tác và
đóng góp của nhiều chuyên gia từ các ngành liên đới. Trong ngành
loãng xương của chúng tôi, kiến thức về chẩn đoán, điều trị và phòng
bệnh được tích lũy từ các chuyên gia trong các ngành như nội tiết học,
khớp, phẫu thuật, dịch tễ học, sinh lí học, miễn dịch học, công nghệ
sinh học, di truyền học, thậm chí toán học. Nếu một chuyên gia nào đó
muốn “chôn đầu dưới cát” và bảo lưu quan điểm cục bộ của ngành mình
thì chuyên ngành đó sẽ không thể nào phát triển được [8].
Liên
quan đến vấn đề phòng chống bệnh tả và tiêu chảy cấp tính, có nhiều
người ngoài Bộ Y tế phát biểu, trong đó có tôi, bác sĩ Lê Đình Phương,
giáo sư Nguyễn Lân Dũng, và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trong buổi làm
việc với Bộ Y tế ngày 12/4/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị
phải ngăn chặn dịch từ gốc bằng cách cải thiện hệ thống nhà vệ sinh,
cung cấp nước sạch, thay đổi tập quán ăn uống, và xử lí môi trường.
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng cũng lên tiếng đồng ý với những nhận xét của
tôi về E. coli và tiêu chảy cấp tính. Ông Nguyễn Văn Dũng có chất vấn
tư cách khoa học của giáo sư không? Bác sĩ Lê Đình Phương cũng chất
vấn câu chuyện tiền giấy nhiễm vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy cấp tính.
Khi đòi hỏi người phản biện phải có tư cách khoa học, tôi không rõ tác
giả Nguyễn Văn Dũng có đòi hỏi Thủ tướng Chính phủ hay giáo sư Nguyễn
Lân Dũng phải có chuyên môn về vệ sinh dịch tễ không?
Tác giả
Nguyễn Văn Dũng chất vấn tư cách khoa học của tôi (với hàm ý kiểu “một
chuyên gia loãng xương thì biết gì về vệ sinh dịch tễ mà nói”), nhưng
tôi không thấy ông chỉ ra bất cứ một phát biểu nào của tôi là sai
lầm. Tuy nhiên, nếu phải có tư cách khoa học để nói chuyện, thì tôi
cũng thưa với ông rằng tôi hoàn toàn có tư cách, bởi vì tôi được đào
tạo về dịch tễ học, từng làm nghiên cứu về lĩnh vực này trên 20 năm
qua, và từng thường xuyên tổ chức các khóa học về phương pháp dịch tễ
học ở trong nước. Nhưng vấn đề không phải tôi là ai, mà là ý kiến của
tôi đúng hay sai. Người ta thường nói người kém học nói 100 điều, có
ít nhất là một điều đúng; và người thông thái nói 100 điều, có ít nhất
là 1 điều sai.
Thật
vậy, vấn đề không phải là cá nhân người phát biểu (như người đó
là ai, có học vị gì, hay mang học hàm nào, hay công tác ở đâu) mà là
ý kiến của người phát biểu. Trong bất cứ thảo luận nào, chỉ có
luận điểm -- chứ không phải cá nhân người phát biểu -- mới là tâm
điểm, là đối tượng để bàn luận. Điều quan trọng hơn, những luận điểm
đó phải có cơ sở và bằng chứng khoa học. Đối với ý kiến không có bằng
chứng khoa học, nhưng người phát biểu lại sử dụng chuyên môn của mình
ra làm bảo kê thì đó là một hình thức ngụy biện [9]. Chỉ có người
mang phức cảm tự ti (inferiority complex) mới lấy học hàm, học vị hay
chuyên môn ra đe dọa hay bác bỏ ý kiến của người khác. Trong hoạt động
khoa học, chỉ có dữ liệu khoa học và diễn giải dữ liệu đó cho logic
mới quan trọng, còn những chức danh (như “phó giáo sư tiến sĩ y khoa”
hay “chuyên khoa Vệ sinh dịch tễ”) hoàn toàn vô nghĩa. Ông Nguyễn Văn
Dũng có chú ý trong y văn thế giới có nhiều tác giả là nhà nghiên cứu
mà không có bằng tiến sĩ hay không?
Tuy tác
giả Nguyễn Văn Dũng chất vấn tư cách khoa học của người khác, còn tác
giả thì sao? Ông kí tên là “Chuyên khoa Vệ sinh dịch tễ”) hàm ý nói
rằng ông là chuyên gia thứ thiệt. Nhưng tìm trong thư viện y khoa
quốc tế, tôi không thấy ông có bất cứ một nghiên cứu nào về dịch tễ
học! Vậy thì vấn đề đặt ra là cái “chuyên khoa” đó ở đâu, đại học nào
cấp bằng, và công trình khoa học nào để có bằng cấp? Tôi phải đặt
những câu hỏi này, bởi vì tôi thấy hơi khó tin khi một bác sĩ “chuyên
khoa Vệ sinh dịch tễ” mà viết sai tên vi khuẩn. Thật vậy, ông Nguyễn
Văn Dũng không chỉ viết sai tên vi khuẩn một lần mà sai đến hai lần
như tôi vừa đề cập trên.
Chẳng
những viết sai tên vi khuẩn mà ông còn hiểu sai cả khái niệm dịch tễ
học. Ông viết rằng trong đợt bộc phát bệnh tả và tiêu chảy cấp tính
vừa qua “đều cho tỷ lệ tấn công quá cao đối với mắm tôm”. Làm
sao ước tính được tỉ lệ tấn công (attack rate) khi mà chưa ai biết
được có bao nhiêu người ăn mắm tôm và trong số đó có bao nhiêu người
mắc bệnh? Những gì tác giả quan sát không phải là “tỉ lệ tấn công” mà
là tỉ “lệ lưu hành” (prevalence rate), và tỉ lệ lưu hành không cho
phép ông phát biểu nguyên nhân và hệ quả được. Trớ trêu thay, đó là
bài học, là khái niệm nhập môn 101 về dịch tễ học mà ông cũng không
hiểu, nhưng lại chất vấn tư cách khoa học của người khác! Do đó, tôi
có nhiều lí do để đặt dấu hỏi rất lớn về tư cách chuyên môn khoa học
của tác giả Nguyễn Văn Dũng.
Tôi hi
vọng rằng tác giả Nguyễn Văn Dũng chỉ kí tên với danh xưng “chuyên
khoa Vệ sinh dịch tễ” ở trong nước, và không nên trưng bày danh hiệu
như thế với các chuyên gia nước ngoài. Với trình độ của một chuyên
gia, những sai lầm cơ bản như thế rất khó chấp nhận được và nếu tự
xưng là chuyên gia thì họ sẽ mỉm cười và xem thường đồng nghiệp Việt
Nam (nhất là trong bối cảnh “tiến sĩ giấy”, học vị dỏm, và hư danh quá
phổ biến như hiện nay ở trong nước), làm tổn hại đến uy tín của khoa
học và y khoa Việt Nam.
Văn hóa
tranh luận
Bây giờ
tôi muốn nói qua một ý về văn hóa tranh luận. Tranh luận trên các
diễn đàn công cộng là một hình thức trao đổi ý kiến không thể thiếu
được trong một xã hội dân chủ và văn minh. Ở nhiều nước Tây phương,
lưu lượng của những tranh luận cởi mở và nghiêm túc được xem là một
dấu hiệu của một xã hội lành mạnh. Nhưng thế nào là một văn hóa tranh
luận? Nói một cách ngắn gọn, một cuộc tranh luận nghiêm túc là một
cuộc tranh luận có qui tắc hẳn hoi, mà trong đó người tham gia không
được, hay cần phải tránh, phạm luật chơi. Những qui tắc chung và căn
bản là người tham gia chỉ phát biểu bằng cách vận dụng những lí lẽ
logic, có bằng chứng khoa học, có thái độ thành thật và cởi mở, chứ
không phát biểu theo cảm tính, lười biếng, hay biểu hiện một sự thiển
cận, đầu óc hẹp hòi.
Tôi
thấy tác giả Nguyễn Văn Dũng thiếu hay chưa quán triệt văn hóa tranh
luận trong khoa học. Xuyên suốt bài viết là những câu văn mang tính
lên lớp rất trịch thượng và những cáo buộc nghiêm trọng. Thật ra, tôi
kinh ngạc là báo Sức khỏe và Đời sống lại đăng một bài viết như
thế! Dưới đây, tôi sẽ trả lời từng cáo buộc:
Phát
biểu tiêu cực?
Tựa đề của bài viết là “Không được tùy tiện phát
ngôn tiêu cực về chống dịch tiêu chảy cấp”. Tôi phải hỏi thế nào
là tùy tiện và ý kiến nào gọi là tiêu cực? Tôi viết tất cả 6 bài liên
quan đến vấn đề bệnh tả và tiêu chảy trên các báo đại chúng. Bất cứ
phát biểu quan trọng nào tôi cũng trình bày bằng chứng khoa học làm cơ
sở, thậm chí còn cung cấp cả tài liệu tham khảo cho báo chí (nhưng có
khi họ cắt bỏ vì giới hạn trang giấy). Chẳng hạn như khi đặt vấn đề
có nên tập trung phòng chống bệnh tả vào vi khuẩn E. coli, tôi
trình bày các nghiên cứu từ Việt Nam cho thấy mối liên hệ giữa E.
coli và bệnh tiêu chảy và bệnh tả không hiện hữu hay hiện hữu
nhưng rất yếu ớt. Từ đó, tôi nghĩ rằng tập trung vào chống E. coli
mà xem nhẹ các biện pháp quan trọng khác như nước là thiếu cơ sở khoa
học. Thay vào đó tôi đề nghị 4 biện pháp phòng chống bệnh tả: làm
sạch nguồn nước, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh cá nhân, và
vắcxin. Một số ý kiến này cũng trùng hợp với phát biểu của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng. Tôi còn trình bày bằng chứng y văn cho thấy bổ sung
kẽm có thể tăng hiệu quả điều trị bệnh tiêu chảy. Tôi còn cảnh báo
rằng đừng để nước ta thành một Bangladesh thứ hai với tình trạng bệnh
cứ “đến hẹn lại lên”. Như thế thì sao nói là tôi tiêu cực được?
Trình bày ý kiến dựa vào bằng chứng khoa học là tùy tiện và hồ đồ
sao? Do đó, tôi phải cực lực phản đối tác giả Nguyễn Văn Dũng về
những cáo buộc vô cớ của ông. Tôi cho rằng ông nợ tôi một lời xin
lỗi.
Khoe
khoang kiến thức trên báo?
Tác giả Nguyễn Văn Dũng hàm ý cho rằng
tôi và bác sĩ Lê Đình Phương khoe khoang kiến thức trên báo đại
chúng. Tất cả những bài viết của tôi đều nhắm vào người lao động,
những người không quen với các thuật ngữ và khái niệm y khoa. Chính
vì thế mà bất cứ bài viết nào tôi cũng đều giải thích cặn kẽ ý nghĩa
của dữ liệu khoa học, diễn giải bằng từ ngữ bình dân để tất cả bạn đọc
đều có thể hiểu được. Những diễn giải như thế không thể xem là khoe
khoang kiến thức được. Tôi viết cho người dân thường chứ không hẳn
cho cán bộ y tế, cho nên tôi phải chọn những tờ báo đại chúng như
Người lao động, Tuổi trẻ, Vietnamnet, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Đó
cũng là những tờ báo mà tôi cộng tác thường xuyên. Tôi rất hân hạnh
mời ông Nguyễn Văn Dũng tranh luận công khai với tôi và người dân trên
một tờ báo đại chúng thay vì trên một tạp chí của Bộ Y tế mà đại đa số
độc giả là các cán bộ y tế.
Phát
biểu hàn lâm?
Ông còn cho rằng những diễn giải của tôi trên báo
chí đại chúng là “hàn lâm”. Nhưng tôi không đồng ý với nhận xét này.
Nếu là hàn lâm thì chắc tôi viết cho một tạp chí chuyên ngành, chứ
không phải báo chí đại chúng. Do đó, nếu ông Nguyễn Văn Dũng cho rằng
những câu chữ trong bài viết của tôi là “hàn lâm” thì tôi bắt buộc
phải chất vấn trình độ chuyên môn và khoa học của ông vậy.
Ông còn
giảng dạy chúng tôi rằng tuyên truyền thì ngôn ngữ phải bình dân, nôm
na, để mọi người đều có thể hiểu được. Vâng, tôi cũng nhất trí như
thế. Nhưng rất tiếc là ông không làm theo những gì ông giảng. Trong
một bài viết có hai trang mà ông sử dụng toàn những thuật ngữ như “tỷ
lệ tấn công”, “chỉ điểm nhiễm bẩn”, v.v… Mà, như tôi giải thích trên,
chính ông cũng không hiểu những thuật ngữ đó! Giảng người khác mà
không làm theo điều mình giảng -- nói như ông bà mình vẫn nói -- là
đạo đức giả (hypocrisy).
Vấn
đề trích dẫn.
Ông còn lên lớp và trách móc rằng tôi không trích
dẫn nguyên câu văn của phó giáo sư tiến sĩ y khoa Trần Đáng trong
ngoặc kép là một “sai lầm cơ bản khi muốn chỉ trích người khác trên
báo chí”. Xin nói thẳng rằng tôi không chỉ trích ai cả. Trong bài
viết trên Người lao động tôi đặt tựa đề là “Có nên tập trung
vào vi khuẩn E. coli ?” và có trích dẫn nguyên câu phát
biểu của Tiến sĩ Trần Đáng (“Nếu như không kiểm soát được lượng
tiền nhiễm khuẩn E. coli lưu thông thì nguy cơ mang mầm bệnh, chủ yếu
là ảnh hưởng về đường tiêu hóa sẽ lây lan cao”), nhưng Tòa soạn
báo biên tập lại một số câu văn, cắt bỏ trích dẫn, và đặt tựa đề thành
“Chống bệnh tả: Tập trung vào E. coli là sai lầm”. Trách người
khác mà không biết câu chuyện đằng sau có nên gọi là “hồ đồ” không?
Sẵn đây
xin thưa với tác giả Nguyễn Văn Dũng rằng tôi cũng biết một hay hai
điều về cách viết một bài báo khoa học, và do đó cũng hiểu được những
khác biệt giữa trích dẫn câu văn và trích dẫn một ý tưởng. Trích dẫn
câu văn hay ý tưởng mà không đề nguồn là một sự ăn cắp. Trích dẫn một
câu văn trong ngoặc kép mà sửa dấu là thiếu lương thiện tri thức. Tựa
đề bài báo của tôi trên Người lao động là “Chống bệnh tả:
Tập trung vào E. coli là sai lầm”, nhưng tác giả Nguyễn Văn Dũng
sửa lại thành “Chống bệnh tả tập trung vào E. coli là sai lầm”
(thiếu dấu “:” và chữ “Tập” thành “tập”). Hay như khi trích tựa đề
của bài viết của bác sĩ Lê Đình Phương “Tiền là thủ phạm lây lan
tiêu chảy cấp?” ông bỏ dấu hỏi để biến thành một ý hoàn toàn
khác. Hành động như thế thể hiện sự cẩu thả hay thiếu lương thiện tri
thức.
Vấn
đề tự cao, tự đại.
Mở đầu bài viết tác giả Nguyễn Văn Dũng phát
biểu rằng “Việt Nam được công nhận là nước có bề dày kinh nghiệm
trong phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và tối nguy hiểm,
chẳng hạn với dịch SARS.” Tôi không biết ai công nhận, nhưng sự
thật là tôi cũng muốn tin như thế. Tuy nhiên, rất tiếc là trong thực
tế thì không phải như thế. Chỉ trong vòng 6 tháng qua mà nước ta có
đến 3 lần bộc phát dịch tả và tiêu chảy. Nếu Việt Nam chúng ta giỏi
và có bề dày kinh nghiệm chống bệnh truyền nhiễm thì tại sao các bệnh
truyền nhiễm cho đến nay vẫn là những nguyên nhân tử vong hàng đầu của
dân số Việt Nam; tại sao cho đến nay, năm nào chúng ta cũng chứng kiến
hàng ngàn ca bệnh tiêu chảy và bệnh tả, cùng với hàng vạn ca bệnh
truyền nhiễm khác? Tôi nghĩ chúng ta nên khiêm tốn hơn trong phát
biểu. Không nên vì một vài lời khen ngoại giao của người nước ngoài
(có khi đó là những lời khen đểu) mà cho rằng ta tài giỏi.
Kết luận
Nói tóm
lại, tôi tán thành sự phản hồi của tác giả Nguyễn Văn Dũng về những ý
kiến của tôi liên quan đến vấn đề phòng chống bệnh tả. Nhưng rất tiếc
là bài phản hồi của tác giả thiếu văn hóa khoa học, thiếu dữ liệu khoa
học, và cộng với một văn phong hằn học biến một vấn đề mang bản chất
khoa học thành vấn đề mạ lị cá nhân. Tôi vẫn bảo lưu ý kiến rằng tác
giả Nguyễn Văn Dũng còn nợ tôi một lời xin lỗi.
Tôi đã
dẫn chứng cho thấy tất cả những cáo buộc mà tác giả viết về những ý
kiến của tôi và cá nhân tôi hoàn toàn vô cớ. Tôi đã chỉ ra những sai
lầm cơ bản về kiến thức dịch tễ học (một lĩnh vực mà ông tự xưng là
chuyên gia). Tôi cũng phân tích cho thấy tác giả phạm rất nhiều sai
sót trong lí luận và logic. Ấy thế mà ông lại lên lớp chúng tôi! Thật
ra, tôi không phiền hà gì khi được người khác lên lớp, nhưng tôi thật
sự thấy ái ngại cho tham vọng của tác giả, bởi vì lên lớp giảng dạy về
dịch tễ học đòi hỏi một trình độ và kinh nghiệm vượt xa khả năng và
kiến thức của ông.
Một lần
nữa tôi phải quay lại vấn đề tư cách khoa học. Cựu thủ tướng Pháp
Georges Clemenceau có nói một câu với hàm ý rằng chiến tranh rất ư là
quan trọng để có thể giao tất cho các tướng lãnh điều hành. Quan điểm
này cũng có thể áp dụng cho y tế công cộng: sức khỏe cộng đồng quá
quan trọng và không thể giao cho các chuyên gia y tế công cộng toàn
quyền quyết định. Chúng ta đã thấy trong đợt dịch tả bộc phát trong
năm ngoái, khi các quan chức y tế một mực khẳng định mắm tôm là “thủ
phạm” gây bệnh tả, và cấm sản xuất và phân phối mắm tôm, làm cho nhiều
doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Nhưng bây giờ thì chúng ta biết rằng mắm
tôm không phải là thủ phạm gây bệnh tả. Do đó, bằng chứng thực tế cho
thấy các chuyên gia vệ sinh dịch tễ có thể sai lầm, và sai lầm của họ
có thể dẫn đến tổn hại cho cộng đồng.
Tôi
thật sự thất vọng trước thái độ của tác giả Nguyễn Văn Dũng đối với
các ý kiến phản biện của người khác, kể cả ý kiến của tôi. Tôi thật
sự kinh ngạc một bài phản hồi đầy tính mạ lị như thế lại xuất hiện
trên một tạp chí của Bộ Y tế! Điều này càng làm cho tôi quan tâm đến
vấn đề y tế cộng đồng ở nước ta và phải đặt câu hỏi “Nhà nước có nên
giao công tác vệ sinh dịch tễ và y tế công cộng cho những người như
bác sĩ Nguyễn Văn Dũng hay không?” Tôi nghĩ người dân trả thuế để
nuôi các cán bộ y tế cũng có quyền đặt một câu hỏi như thế.
Chú thích
[1] Hazen TC. Fecal coliforms
as indicators in tropical waters: A review. Toxicity Assessment 2006;
3: 461 - 477
[2]
Okpokwasili GC, Akujobi TC. Bacteriological indicators of tropical
water quality. Environmental Toxicology and Water Quality 1998; 11:
77-81.
[3] Vital M,
Fuchslin HP, Hammes F, Egli F. Growth of Vibrio cholerae O1 Ogawa
Eltor in freshwater. Microbiology 2007;153:1993-2001.
[4] Tamplin
ML, Colwell RR. Effects of microcosm salinity and organic substrate
concentration on production of Vibrio cholerae enterotoxin. Appl
Environ Microbiol 1986;52:297-301 (Aug, 1986)
[5] Bài báo
Tiền giấy bị nhiễm khuẩn
E.coli rất nặng
đã được rút xuống khỏi trang web của báo Tiền Phong, nhưng có
thể xem ở đây “Tiền
giấy nhiễm khuẩn gây tiêu chảy”,
trong đó có đoạn viết: “TS Trần Đáng - Cục trưởng Cục Vệ sinh an toàn
thực phẩm - Bộ Y tế xác nhận, gần 100 mẫu tiền mà Cục tiến hành lấy
ngẫu nhiên đều nhiễm khuẩn Escherichia coli (E. coli) rất cao. […]
Theo ông
Đáng, kết quả xét nghiệm các mẫu tiền mệnh giá 500 đồng, 1.000 đồng và
2.000 đồng lấy từ các quán ăn đường phố thì 100% bị nhiễm khuẩn
e.coli.
Trong khi đó, các loại tiền mệnh giá lớn hơn như 5.000 đồng, nhiễm
94%, 10.000 đồng nhiễm 86%, 2 loại tiền mệnh giá 20.000 đồng và 50.000
đồng nhiễm khuẩn E.coli đều ở mức lần lượt là 65%- 70%.”
[6] Thi Thu
Hao Van, George Moutafis, Linh Thuoc Tran, Peter J Coloe. Antibiotic
resistance in food-borne bacterial contaminants in Vietnam. Applied
Environmental Microbiology 2007; 73:7906-11.
[7] Do Thuy
Trang, Bui Thi Thu Hien, Kare Molbak, Phung Dac Cam, Anders Dalsgaard.
Epidemiology and etiology of diarrhoeal disease in adults engaged in
wastewater-fed agriculture and aquaculture in Hanoi, Vietnam. Tropical
Medicine and International Health 2007; 12 (Suppl): 2 23-33.
[8] Người Tây
phương có thành ngữ “Bury head in the sand” (tạm dịch là “chôn
đầu dưới cát”) để chỉ những người có quan điểm hẹp hòi, cục bộ, và
không chịu tiếp thu y kiến của người khác.
[9] Trong
logic học, người ta gọi ngụy biện này là ad verecundiam – lợi
dụng uy tín. Chẳng hạn như nói rằng “Isaac Newton là một thiên tài, và
ông tin vào Thượng đế.” Đây không hẳn là một lí lẽ hư, nó có thể có
liên hệ đến một nhân vật có uy tín trong một lĩnh vực nào đó, nếu
người ta thảo luận về lĩnh vực đó. Chẳng hạn như phải phân biệt giữa
hai phát biểu “Ông Hawking (Stephen Hawking, nhà vật lí đương đại nổi
tiếng người Anh) cho rằng những lỗ đen (black holes) có thể phát ra
phóng xạ”, và “Ông Penrose cho rằng xây dựng một cái máy điện toán
thông minh là một điều có thể làm được.” Nếu ông Hawking là một nhà
vật lí thì chúng ta có thể tin vào ý kiến của ông về những lỗ đen.
Nhưng nếu ông Penrose là một nhà toán học, thì chúng ta có quyền chất
vấn ông ta có đủ thẩm quyền để bàn về đề tài thông minh nhân tạo hay
không?