Bệnh đậu mùa là bệnh ngoài da do virus gây ra, bệnh nhân có thể chết. Bệnh
này đã biến mất trên trái đất từ 20 năm nay. Jenner, người Anh, đã khám phá
ra thuốc chủng ngừa sau khi quan sát thấy những bệnh nhân lây bệnh đậu
của bò, sau đó không bao giờ bị bệnh trở lại nữa. Ông để virus
bệnh đậu của bò lên trên một vết sướt da và đã thành công. Từ năm 1980, ở
một số nước bắt buộc phải chủng đậu. Tại Pháp, chưa thấy bệnh này từ 40 năm
nay. Người bệnh đậu mùa cuối cùng được phát hiện ở Somalie, năm 1977
(Vietsciences).

Orthopoxvirus
(hình của GS Stewart
McNulty)
* Bệnh Đậu mùa và nổi khổ đau của Hải Thượng Lãn Ông.
* Edward Jenner, Hải Thượng Lãn Ông sinh ra và lớn lên trong cùng một thế
kỷ.
Hai người đã góp phần quan trong trong việc đẩy lùi căn bệnh này.

Đối với Hải Thượng Lãn Ông thì bệnh đậu mùa là một nỗi ám
ảnh khôn cùng. Suốt cả cuộc đời của ông thì nỗi ám ảnh đó đeo đẳng như bóng
với hình. Trong một trước tác vĩ đại của Hải Thượng "Y Tông Tâm Lĩnh" gồm 66
cuốn thì có đến 10 cuốn ông viết về bệnh đậu mùa. Bệnh đậu mùa đã giết chết
đứa con trai lên 5 tuổi của ông và giết luôn đứa học trò thân thiết của ông.
Bệnh đậu mùa đã ghi một dấu ấn khổ đau trong đời ông. Ta hãy nghe ông tâm
sự:
"Tôi có đứa con 5 tuổi, bị bệnh đậu mùa, gặp thầy thuốc chữa sai, không
khỏi khóc lóc buồn rầu mở sách đọc trong cơn đau xót!
than ôi! bọn điếc đui giết con tôi không
đáng nói nữa, trời đất quỷ thần ôi, sao mà oan uổng thế ! Đáng tiếc là số
mệnh tôi rất gian truân, mới được đứa con quý hiếm, mắt đẹp mày xanh, trong
việc chơi đùa chỉ lấy sách vở bút nghiên làm thích, viết chữ thành dòng, các
ca dao, ngạn ngữ, chuyện kể. Nhiều câu dài nghe qua một lần là đã nhớ, nói
năng cười đùa đều có nghĩa lý, có văn vẻ. Có dạng
thơ, câu đối làng xóm cho là lạ. Tôi đau xót như
xé gan đứt ruột, đi đứng nằm ngồi mất cả thăng bằng, như ngây như dại gần
nửa năm mới hơi nguôi tỉnh".
Ở trường hợp khác, ông viết :"Tôi nghe xong không kịp xem mạch, vội lấy
Đại tể Sâm phụ cho uống, vừa đổ được một chén nhỏ, đờm kéo lên rồi tắt thở.
Căn bệnh này, đáng tiếc cho tôi hơn là vất vả, tốn
hết bao nhiêu công sức và thuốc men. Nghĩ đến tình mẹ goá
con côi, chỉ có một người con ấy, hơn mười năm nay nương tựa ở tôi làm học
trò, vất vả bao phen, hết lòng làm việc, cho nên chứng tuy mười phần hung
hiểm, không kể gì thành hay bại, chỉ hết sức cứu vãn, công trình đắp núi lúc
đã gần xong ! Đương dữ chuyển lành, đương lành hóa dữ, chứng đáng như thế
chăng? Hoặc là thuốc không đúng chăng ? Xin ghi
lại đây để hỏi các bậc cao minh".
Trong lịch sử Y học dân tộc nước ta, Hải Thượng Lãn Ông chiếm một vị trí khá
quan trọng, ông thật sự là một danh y của đất nước. Ông tên thật là Lê Hữu
Trác, sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý. Nguyên quán ở thôn Văn Xá, làng
Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng , tỉnh Hải Hưng, mất ngày Rằm
tháng Giêng, năm Tân Hợi (1791) ở quê mẹ, xứ Bầu Thượng, xã Tình Diệm, huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tỉnh , thọ 71 tuổi.
Xuất thân từ một gia đình khoa bảng. Ông nội là Lê Hữu Danh, đậu nhị giáp
Tiến Sĩ. Cha là Lê Hữu Mưu, đậu đệ tam giáp Tiến Sĩ.
Ông là con thứ bảy, theo cha lên ở kinh thành
Thăng Long . Hồi nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, học giỏi hiểu rộng, thơ
hay. Không may đến năm 20 tuổi (năm 1739), cha mất, ông tiếp tục đọc sách,
thi tam trường, thi hỏng sau đó không đi thi thêm
lần nào nữa.
Ông học binh thư, luyện võ, vào quân đội chúa Trịnh năm 1740. Thống tướng
của chúa Trịnh muốn cất nhắc, nhưng ông không ham, lấy cơ nọ cớ kia mà từ
chối. Nhân có tin người anh ruột là Lê Hữu Chân chết để lại 3 con nhỏ, ông
xin xuất ngũ về quê nuôi mẹ là bà Bùi Thị Thưởng, và giúp đỡ gia đình người
anh.
Qua gần 40 năm, ông tổng kết tinh hoa của y học Trung Quốc và Việt Nam,và
biên soạn bộ "Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh" gồm 28 tập, 66 cuốn. Ông nói :"
Đạo làm thuốc là một nhân thuật có nhiệm vụ giữ gìn tính mạng người ta, phải
lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc giúp người, làm
phận sự của mình mà không cầu lợi kể công". Câu nói này phát xuất từ nỗi đau
mà ông gặp phải khi con trai và người học trò thân thiết của ông chết vì
bệnh đậu mùa.
Từ rất sớm trước Công Nguyên, trong lịch sử Trung Hoa, người ta đã ghi nhận
bệnh này, người Trung Hoa đã biết thổi các bụi vẩy của mụn đậu mùa vào mũi
trẻ em, ở Ấn Độ người ta đã cho trẻ em mặc quần áo
của những người bị bệnh đậu mùa để phòng bệnh. Ở thế kỷ thứ 6, thứ 7, thứ 10
và thứ 17, bệnh đậu mùa diễn ra ở Châu Phi, Pháp, Ai Cập, Châu âu đã làm
thiệt mạng gần chục vạn người. Ở Mỹ, bệnh đậu mùa được dập tắt từ năm 1926
và trường hợp bệnh đậu mùa xuất hiện vào tháng 9 năm 1978 tại nước Anh, bệnh
nhân là một nhân viên của phòng thí nghiệm bị bệnh do tai nạn nghề nghiệp.
Những dấu ấn của bệnh đậu muà trong lịch sử nước ta thì bộ Quốc triều Chánh
Biên của quốc sử quán triều Nguyễn có ghi tháng 4 năm Canh Thân (1800) vua
Gia Long khi đem quân cứu viện ở Bình Định đã chỉ định Hoàng Tử Cảnh (1780 -
1801) ở lại trấn giữ tỉnh Gia Định đến tháng 2 năm sau (1801) Hoàng tử Cảnh
chết vì bệnh đậu mùa. Hoặc bản thân vua Tự Đức cũng bị bệnh đậu mùa. Tháng 6
năm Nhâm Ngọ (1882) vua Tự Đức cử Cửu Phẩm Y Sinh Nguyễn Văn Tâm qua Hương
Cảng học cách thức chủng ngừa bệnh đậu mùa tại y viện Đông Ba.
Ý niệm tiêm chích để chủng ngừa bệnh đậu mùa được coi là một phát kiến sớm
nhất ở vùng Trung Đông, Thổ Nhỉ Kỳ. Vào những năm 1713 - 1716, hội Hoàng Gia
Anh nhận được thông báo giữa Emnanuel Timoni và Giacomo Pilarini và sau đó
của Hans Sloane từ Thổ Nhỉ Kỳ đề cập đến phương pháp tiêm chích này. Năm1780
Genner (1749-1823) đã nhận thấy có loại đậu bò thật với những mụn mũ đặc thù
ở núm vú bò, chỉ những người mắc bệnh này mơí có khả năng phòng được bệnh
đậu mùa còn những dạng đậu bò khác không có khả năng phòng bệnh. Hơn nữa,
chỉ một giai đoạn phát triển nhất định, mụn mũ đậu bò mới có khả năng phòng
bệnh khi tiêm chủng vào người lành cho mãi đến năm 1798 thì công trình
nghiên cứu của ông mới được chấp nhận. Phương pháp chủng đậu của Genner
nhanh chóng được phổ biến khắp Âu Châu, rồi lan
đến Ấn Độ, Trung Quốc và Hương Cảng.
Thời điểm Hải Thượng Lãn Ông hoàn thành tập Mộng Trung Giác Đậu thì bên kia
trời Âu Edward Jenner cũng vừa khám phá và hoàn chỉnh phương pháp chủng ngừa
bệnh đậu mùa.
Khó có một tác giả nào nghiên cưú về bệnh đậu mùa trên thế giới quan sát kỹ
bằng ông về phương diện lâm sàng.Trong sách Mộng Trung Giác Đậu ông đã viết
như sau : Bệnh Đậu phát sốt rồi thì đậu mới mọc ra , nhanh nhất là một
ngày, trung bình là ba ngày, chậm nữa là 5, 6 ngày mà thôi.
Về cách soi đèn để quan sát mụn đậu ông viết : "Lấy giấy bản cuộn lại
thành điếu (thoi dài), tẩm dấu vừng cho thấm hết rồi hong khô, đến khi dùng
lại tẩm thêm dấu mè rồi hơ qua lại trên ngọn đèn khiến cho dầu không sủi giỏ
giọt để khỏi gây phỏng. Khi soi phải đóng kín các cửa sổ, cửa ra vào, cho
trong nhà thật tối. Muốn soi ở bên trái thì đưa ngọn đèn sang bên phải, muốn
soi bên phải thì đưa ngọn đèn sang bên trái. Muốn soi chỗ trên hay chỗ dưới
thì cũng theo cách ấy. Đậu nhiều hay ít, màu sắc ra sao đều có thể thấy
được. Lại dùng tay mà sờ, nếu thấy lằn sờ theo tay màu hồng đổi sang màu
trắng, hoặc màu trắng đổi sang màu hồng, chứng tỏ huyết hoạt thì có cơ sống
được. Nếu sờ vào không trắng, nhấc tay không thấy hồng chứng tỏ huyết khô
thì tuy đậu mọc khô cũng là chứng nguy."
Vì mụn sởi mọc nông ở ngoài da mà ở phía trong không có gốc. Mụn đậu có gốc
ở tầng thịt, gốc rất sâu, cho nên lấy tay sờ có thể thấy được hạch gốc của
mụn đậu mà nghiệm biết. Quan sát dưới ánh nắng mặt trời không thể thấy dược.
Lấy lửa soi mà trẻ lên kinh co giật, gào khóc cũng là chứng hậu của đậu. Vì
hỏa của Tâm mạch qúa, lại gặp hỏa (lửa) ở ngoài mà gây nên chứng sự như vậy.
Cách chữa nên lợi tiểu nhẹ để dẫn hỏa ở Tâm đi xuống, nếu không thì kinh
giật lại nặng hơn lên.
Tôi có một phép quan trọng có thể xem biết đậu lành dữ, càng làm càng thấy
đúng. Lúc soi, đưa đèn trên mụn đậu, nếu thấy sắc của mụn đậu và ánh sáng
của đèn phản xạ lại nhau, theo ánh sáng đèn qua lại, mụn đậu lấp lánh như có
vẻ chuyển động.
Trong quyễn ÂM Y ÁN thì có đến hai bệnh án tử vong về đề tài bệnh đậu mùa,
một là trường hợp bệnh nhân là học trò thân yêu của ông, trường hợp khác là
một bé gái hai tuổi ở gần nhà ông. Bệnh đậu mùa hình như lúc nào cũng đeo
đẳng, ám ảnh ông sau cái chết thảm khốc của đứa
con trai lên 5.
Hải Thượng Lãn Ông là một bậc danh y của nước ta, ngoài Y Đức và những hiểu
biết sâu sắc về y lý cổ truyền ,về dược thảo, về vệ sinh thường thức thì
dưới mắt những thầy thuốc là bác sĩ Tây y khi đã đọc được qua tác phẩm, nhất
là quyển Mộng Trung Giác Đậu của ông mới thấy ông là một trong những nhà
Triệu Chứng Học vĩ đại cùa thế giới qua công trình nghiên cứu này.
©
http://vietsciences.org
và
http://vietsciences.free.fr
và
http://vietsciences2.free.fr
- Hồ Đắc Duy |