Thế là các em
học sinh lại sắp trở về với trường ốc, sau mấy tháng nghỉ trong một mùa hè
nóng bức.
Cha mẹ bận
rộn lo sắm sửa quần áo đồng phục, sách vở cho con em. Đồng thời cũng không
quên đưa con em tới phòng mạch bác sĩ để khám sức khỏe tổng quát, nhất là
cập nhật hóa sổ chích ngừa các bệnh có thể ngừa được.
Nói tới chích
là các em sợ, sợ đau. Mà các bậc cha mẹ đôi khi cũng e dè không tin tưởng ở
công hiệu của chích ngừa hoặc ngại có phản ứng của thuốc chủng.
Nhà chức
trách quan tâm tới vấn đề sức khỏe của dân chúng thì chặt chẽ hơn: Hầu hết
các trường học đều đòi hỏi một số chích ngừa trước khi các em có thể đi
học..
Câu chuyện
ngừa bệnh này dường như cũng nêu ra nhiều khúc mắc, nên xin cùng tìm hiểu
thêm.
Tính miễn
dịch của cơ thể
Ngay khi còn
nằm trong lòng mẹ, thai nhi đã được thiên nhiên trang bị cho một hệ thống
phòng thủ, bảo vệ để chống lại bệnh tật, đó là “tính miễn dịch”.
Đây là một
hiện tượng di truyền được tạo ra do một số tế bào đặc biệt trong máu và hạch
bạch huyết sản xuất chất kháng thể để tìm diệt mầm gây bệnh. Ban đầu nó còn
kém phát triển, nhưng trong thời gian mà cơ thể lớn lên, nó được tăng cường
bằng những yếu tố phòng bệnh từ máu và sữa mẹ. Nhờ đó con người tự nhiên
tránh được một số bệnh mà các động vật khác thường mắc phải.
Khi khỏe
mạnh, cơ thể có thể ngăn chặn sự xuất hiện của bệnh, nhưng nếu vì lý do nào
đó mà cơ thể yếu đi, mầm độc sẽ lấn át, gây ra bệnh.
Có điều đáng
lưu ý là thường thường khi đã bị bệnh một lần thì lần sau sẽ được miễn nếu
chẳng may tái nhiễm với cùng vi khuẩn. Lý do là cơ thể đã được kích thích để
hệ thống miễn dịch tạo ra kháng thể chống lại bệnh. Đây cũng là nguyên tắc
của việc tạo ra miễn dịch bằng sự tiêm chủng: gây ra một bệnh rất nhẹ để tạo
ra sức đề kháng với tác nhân của bệnh đó.
Ngoài sự miễn
dịch, lớp da bao bọc cơ thể cũng là thành trì chống mầm độc ngoại xâm từ môi
trường chung quanh; chất acid chua trong bao tử có công dụng tiêu diệt vi
trùng tình cờ còn lẫn trong thực phẩm; chất nhờn ở cơ quan hô hấp và tiểu
tiện để đưa đẩy chất có hại ra khỏi cơ thể.
Nguồn gốc sự chủng ngừa bệnh
Sự chủng ngừa
đã được dùng ở Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp từ ngàn năm trước khi họ tìm cách
ngừa bệnh đậu mùa bằng chất liệu lấy từ người bệnh đưa vào người lành. Sau
đó, nhiều y khoa học gia cũng lưu tâm khảo cứu thêm về vấn đề này.
Nhưng phải
đợi tới năm 1796, sự việc mới được cụ thể hóa. Một y sĩ người Anh, Edward
Jenner, nhận thấy là người vắt sữa ở những con bò có bệnh đậu mùa sẽ bị lây
bệnh nhưng đồng thời họ đã tạo ra được tính miễn dịch với bệnh này. Ông ta
bèn chủng đậu bò cho con người với hy vọng bảo vệ không bị bệnh đậu mùa
trong những dịp tiếp xúc với mầm bệnh sau này.
Để chinh phục y giới về kết quả việc
khảo cứu, ông ta chủng cho chính con trai của mình và đứa bé không bao giờ
mắc bệnh. Bác sĩ Jenner đã thành công và đặt nền móng cho việc chế biến
thuốc chủng an toàn chống bệnh nhiễm khuẩn ở các quốc gia Tây Phương.
Từ nước Anh,
thuốc ngừa Đậu Mùa nhập cảng vào Hoa Kỳ. Được thông báo sự công hiệu của
thuốc chủng, Tổng Thống Thomas Jefferson bèn áp dụng cho thân nhân, gia
đình, và cả bà con lối xóm nữa.
Cách bào chế thuốc chủng ngừa
Nhắc lại là
để có thể gây ra bệnh truyền nhiễm, vi khuẩn cần được tăng gia sinh sản và
gây tổn thương cho các cơ quan, bộ phận của cơ thể.
Trong thuốc
chủng, mầm gây bệnh được chế biến để không có khả năng sinh sản hoặc sinh
sản rất ít, không đủ mạnh để gây ra bệnh nhưng có khả năng tạo ra kháng thể
chống lại với mầm bệnh về sau này.
Có loại thuốc
chủng trong đó:
a-Gene của
mầm độc đã được thay đổi khiến sự sinh sản tuy còn nhưng rất yếu
(bệnh sởi, quai bị, trái dạ, tê liệt
loại uống).
b- Gene bị
tiêu diệt hoàn toàn không còn sinh sản (thuốc chủng bệnh tê liệt loại
chích).
c- Thuốc
chủng chỉ dùng một phần của mầm độc, không có gene cho nên tri73 thành vô
sinh (chủng ngừa viêm gan B, ho gà).
đ- Thuốc
chủng mà độc tố của mầm độc đã bị vô hiệu hóa ( bệnh yết hầu, phong đòn
gánh).
Ở bên Mỹ, sau
khi được các viện bào chế sản xuất, thuốc được đưa cho cơ quan Thực Phẩm và
Dược Phẩm Hoa Kỳ kiểm soát coi có an toàn và công hiệu không.
Rồi một ủy
ban khác gồm các chuyên viên có kiến thức cao về dịch học và bệnh trẻ em sẽ
thảo luận về ích lợi, phí tổn của thuốc, đưa ra lời khuyến cáo nên dùng
thuốc chủng như thế nào.
Giai đoạn
cuối là các trường học thường đòi hỏi là trẻ em muốn nhập học phải có giấy
chứng nhận đã chích ngừa một số bệnh. Tất nhiên, riêng tại Hoa Kỳ, cha mẹ có
thể từ chối sự chủng ngừa vì lý do tôn giáo, đạo đức, quan niệm sống hay
chủng tộc.
Nhiều người
không chấp nhận, ngần ngại chích ngừa vì một vài hiểu lầm cho là chủng ngừa
không công hiệu, không an toàn, có thể gây ra tác dụng phụ hoặc gây ra bệnh.
Có người lý
luận là cứ để tự nhiên có tính miễn dịch sau khi mắc bệnh hơn là chủng ngừa,
vì chủng ngừa đôi khi làm suy yếu tính miễn dịch tự nhiên của trẻ em.
Thực tế cho
hay không có thuốc ngừa nào an toàn 100%. Hơn nữa, khi kiểm điểm kết quả sự
chủng ngừa với các bệnh trên thế giới ta thấy sự ích lợi quá to lớn so sánh
với một số tác dụng phụ nhẹ nhàng, không nguy hiểm. Thuốc chủng ngừa bệnh đã
là một trong mười kỳ công trong phạm vi y tế công cộng của thế kỷ 20.
Hữu hiệu của
chủng ngừa
Giáo sư Nhi
khoa Samuel Katz của Trung Tâm Y Khoa Duke University bên Mỹ, người có nhiều
kinh nghiệm về chủng ngừa, đã quả quyết: ”Sự tạo ra tính miễn dịch là phương
tiện hữu hiệu duy nhất để làm giảm số bệnh tật và số tử vong ở trẻ em”.
Để thấy sự
công hiệu của thuốc chủng, xin hãy coi qua vài thống kê sau đây về một số
bệnh:
a-Bệnh tê
liệt trẻ em: Trước khi có thuốc chủng bệnh này vào thập niên 50, có cả ngàn
trẻ em bị bệnh, làm tê liệt hạ chi phải mang nạng, ngồi xe lăn; nhiều bệnh
nhân bị liệt hô hấp phải nằm trong lồng phổi sắt để thở.
Từ năm 1997,
không còn trường hợp tê liệt nào được báo cáo ở nước Mỹ và các nước ở Tây
bán cầu. Năm 1994, một dịch tê liệt từ Ấn Độ xâm nhập Gia Nã Đại nhưng nhờ
chích ngừa ráo riết nên đã chặn đứng được dịch này.
b- Bệnh sởi:
Còn nhớ khi xưa ở bên nhà hầu hết trẻ con bị ban sởi với số tử vong cao vì
các biến chứng như sưng phổi, viêm não, tổn thương não bộ. Đó là do không có
chích ngừa đầy đủ. Cho nên các cụ ta khi đó thường nói là đừng tính có bao
nhiêu con cho tới khi chúng sống sót sau bệnh ban sởi.
Ngày nay con
cháu ta bên Mỹ này năm thì mười họa mới có em mắc bệnh sởi, nhờ chương trình
chủng ngừa sởi ở đây rất chu đáo, hầu như bắt buộc ngay từ khi các em vào
học lớp mẫu giáo. Trong nước thì việc chủng ngừa bệnh này cũng được khuyến
khích mạnh mẽ.
Năm 1941,
chưa có chủng ngừa, có gần 900.000 trường hợp bệnh sởi. Thuốc chủng được bào
chế năm 1962 và năm 1997, chỉ còn trên 100 trường hợp.
c-Bệnh đậu
mùa một thời đã làm thiệt mạng nhiều người trên thế giới, nay coi như đã bị
xóa sổ; bệnh ho gà, bệnh yết hầu, bệnh phong chẩn đã giảm rất nhiều nhờ
chủng ngừa.
Nếu ngưng chương trình chủng các bệnh có
thể ngừa được thì chắc ta sẽ thấy bột phát trở lại những dịch chết người
kinh khủng như vào đầu thế kỷ vừa qua.
Các bệnh nên chích ngừa
Hiện nay 10
loại chủng ngừa sau đây được khuyến cáo nên áp dụng vì công hiệu miễn dịch
cao: yết hầu (Diphteria), uốn ván (Tetanus), ho gà (Pertussis), tê liệt
(Polio), ban sởi (Measles), quai bị (Mumps), phong ban (Rubella), viêm gan B
(Hepatitis B), viêm não B (H. influenza B), thủy đậu (Varicella).
Việc chủng
ngừa thường bắt đầu thực hiện khi các em mới sanh hoặc sanh được 2 tháng.
Tới khi chúng lên 2 tuổi thì hầu như 80% việc chủng ngừa đã được hoàn tất.
Thuốc chủng
có thể gom chung với nhau cho tiện, chẳng hạn ngừa quai bị, sởi, phong ban
với nhau, yết hầu, uốn ván, ho gà cùng một lúc.
Lịch trình
chích ngừa:
a- Mới sanh :
chích viêm gan B (Hep B) lần đầu.
b- Hai tháng:
ho gà, uốn ván, yết hầu (DTaP), tê liệt (Polio), Hemophillus Influenza
(Hib) lần đầu + Hep B lần thứ nhì;
c- 4 và 6
tháng: DTaP lần thứ nhì + Hib lần thứ nhì rồi thứ ba;
đ-12 tháng:
thủy đậu, ban sởi, quai bị, phong ban (MMR) lần đầu + Hib lần thứ tư;
Hepatitis A 2 lần cách nhau 6 tháng.
e- 15 tháng:
Hep B lần ba + DTaP lần thứ tư;
g- 4 tới 6
tuổi: MMR lần thứ nhì + Polio lần thứ tư.
Thường thường
tất cả các chích ngừa này được hoàn tất sau năm sáu lần tới phòng mạch bác
sĩ.
Một câu hỏi
thường được đặt ra là nếu mình quên một lần chủng ngừa theo lịch trình thì
phải làm sao.
Xin thưa là
không bao giờ quá trễ để chích ngừa. Khi lịch trình bị gián đoạn vì quên, ta
không phải chích lại từ đầu mà chỉ cần chích từ lần đã ngưng.
Phụ huynh
nhiều khi cũng bối rối không biết phải chích bao nhiêu lần để có miễn dịch
hoàn toàn hoặc bao giờ phải chích bồi dưỡng, bổ túc. Đặc biệt là các em hay
nghịch ngợm chạy nhẩy dễ té ngã trầy da, nguy cơ nhiễm bệnh phong đòn gánh
gia tăng, cho nên cần chích tăng cường thuốc ngừa này mỗi mười năm.
Do đó, cần
giữ sổ chích ngừa cẩn thận để ghi nhớ, theo dõi lịch trình chích ngừa đã
được các nhà chuyên môn y tế ấn định, nhất là khi di chuyển sang địa phương
khác, hoặc khi thay đổi bác sĩ gia đình.
Tại Hoa Kỳ,
đa số các chương trình chích ngừa đều miễn phí hoặc lệ phí rất thấp, qua các
trung tâm y tế địa phương hay tại phòng mạch bác sĩ.
Phản ứng phụ
và trường hợp không chích ngừa
Tác dụng phụ của thuốc chủng cũng thường
xẩy ra nhưng rất nhẹ: chỗ chích hơi sưng, hơi đau, ngưa ngứa, nhiệt độ hơi
lên cao. Trong các trường hợp này, ta có thể cho con em uống một liều thuốc
giảm sốt acetaminophen ( Tylenol). Nhớ là không nên cho thuốc Aspirin. Cho
con em uống nhiều nước để hạ nhiệt; mặc quần áo thoáng nhẹ; chườm khăm tẩm
nước ấm.
Hãn hữu lắm
mới có phản ứng mạnh như khó thở, hạ huyết áp, nổi ngứa cùng mình, ngất xỉu
ngay sau khi chủng. Khi bị phản ứng mạnh như vậy thì không được chủng ngừa
với thuốc chủng đó nữa.
Khi các em có
các dấu hiệu sau đây thì nên cho bác sĩ hay ngay:
a-Nhiệt độ đo
ở hậu môn lên trên 105°F hoặc 39°C;
b-Nếu da xanh
rờn và con em đi cà nhắc
c-Con em khóc
liên tục cả mấy giờ sau khi chích ngừa;
d-Cơ thể con
em run giựt.
Các em bị
bệnh ung thư, bị bệnh liệt kháng AIDS cũng không được chủng loại thuốc trong
đó mầm bệnh bị làm suy yếu, như thuốc chủng bệnh sởi, quai bị, phong ban,
thủy đậu, tê liệt.
Trẻ em đang
đau ốm thì tùy theo trường hợp: nặng với nóng sốt cao vì nhiễm trùng thì
hoãn chủng ngừa tới khi bình phục. Khi các em chỉ bị đau nhẹ như viêm tai,
ho, sổ mũi, tiêu chẩy thì đều có thể chủng ngừa được. Bác sĩ gia đình sẽ cho
ta lời khuyên quyết định.
Kết luận
Bệnh tật
không phải tự nhiên tan biến đi.
Mặc dù con
người đã ý thức được những nguyên nhân gây bệnh, đã sống điều độ, vệ sinh
hơn, y học đã cống hiến nhiều phương tiện trừ bệnh tật, nhưng bệnh tật vẫn
còn luẩn quẩn đó đây chỉ chờ cơ hội thuận tiện là xâm nhập cơ thể ta.
Cho nên sự phòng ngừa bệnh,
mà chủng ngừa là một, vẫn còn rất quan trọng.
Vả lại “An
ounce of prevention is worth a pound of cure” hoặc “Phòng bệnh hơn chữa
bệnh”.
Chỉ cần một
sự quan tâm, dành ra một chút thì giờ để thực hiện sự phòng ngừa này là ta
có thể tránh được những dịch bệnh gây tử vong cao như dịch cúm Tây Ban Nha
năm 1918 giết gần 20 triệu người trên thế giới; giúp cả ngàn trẻ em tránh
được khuyết tật bẩm sinh về tim, mắt, điếc và chậm trí do bệnh Rubella từ mẹ
truyền cho con; cứu sống cả triệu trẻ em trên thế giới khỏi thiệt mạng vì
bênh sởi.
Đấy là phần
thưởng của mũi thuốc chích mang lại sức khỏe tốt cho con người. Chẳng lẽ ta
lại bỏ qua những cơ hội phúc lợi mà xã hội đã ân cần cung ứng, hiến dâng.
Bác sĩ Nguyễn
Ý-Đức
Texas- Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com