Về một bản tin ung thư vú:
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú
Báo VietNamNet hôm
10/9/06 trong một tựa đề “Việt
Nam: ung thư vú đứng hàng đầu nữ giới” có trích dẫn phát biểu
của một giáo sư rằng “Tại Hà Nội, ung thư vú chiếm 30%, còn TP.HCM, khoảng
20%. Trong khi ung thư cổ tử cung chỉ còn 16,5%”. Nói về tình hình ung thư
ở nước ngoài, vị giáo sư dẫn nguồn từ Đại học Vienna cho biết: “ung thư vú là
một nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ. Cứ 5 phụ nữ thì có một người tử
vong vì ung thư vú.” Những con số trên muốn gieo vào người đọc một suy nghĩ
rằng bệnh ung thư vú rất phổ biến và nguy hiểm. Cái thông điệp có hậu đằng sau
có lẽ là cần phải tập trung tài lực để phòng chống bệnh ung thư vú.
Nhưng rất tiếc là
những con số này không đúng so với tình hình ung thư được phản ảnh qua y văn
Việt Nam. Ung thư vú ở Việt Nam chưa phổ biến như tình hình ở nước ngoài, và
ngay cả ở nước ngoài, ung thư vú cũng không phải là nguyên nhân tử vong hàng
đầu.
Theo một báo cáo
khoa học từ Việt Nam công bố trên tập san Japanese Journal of Clinical Oncology,
ở Hà Nội, tỉ lệ phát sinh các bệnh ung thư hàng năm là 116,8 trên 100.000 dân
số. Trong đó, ung thư vú chiếm 22,8% trong tổng số ung thư [1]. Còn ở Thành
phố Hồ Chí Minh, ung thư vú chiếm 12,1% trên tổng số ung thư phát sinh năm
1995-1996 [1]. Rất khó mà tin rằng chỉ trong vòng 10 năm mà con số ung thư vú
lại tăng 10%!
Một điều đáng chú
ý trong nghiên cứu này là số trường hợp ung thư vú ở Thành phố Hồ Chí Minh có vẻ
thấp hơn Hà Nội. Ngược lại, ung thư cổ tử cung ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm
đến 25,8% trong tổng số ung thư, nhưng ở Hà Nội con số này chỉ 5,4%!
Có thể tỉ lệ phát
sinh bệnh ung thư ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thực tế không khác nhau,
nhưng vì hệ thống báo cáo thống kê y tế chưa thống nhất hay chưa hoàn chỉnh, cho
nên có sự khác biệt rất đáng kể như trình bày trên.
Còn tình hình ở
nước ngoài, phát biểu rằng cứ 5 phụ nữ thì có một người tử vong vì ung thư vú
lại càng không đúng. Xin lấy số liệu của Mĩ để thấy rõ vấn đề hơn. Trong năm
2002, có tất cả 1.244.123 phụ nữ Mĩ chết, trong số này có 268.503 (hay 21.6%) là
do các bệnh ung thư [2]. Ở Mĩ, ung thư vú chiếm khoảng 31% trong tổng số bệnh
ung thư. Cho nên, thật là sai lầm khi cho rằng 20% phụ nữ chết vì ung thư vú.
Ung thư vú có
phải là nguyên nhân tử vong hàng đầu?
Tuy trong các bệnh
ung thư, ung thư vú là một trong những bệnh ung thư đứng đầu bảng, nhưng
số trường hợp tử vong vì ung thư vú ở nước ta không phải là nguyên nhân hàng
đầu. Thật vậy, theo một nghiên cứu công phu trong phường Thượng Cát (Từ Liêm,
Hà Nội) công bố trên tập san Asian Pacific Journal of Cancer Prevention năm 2006
thì trong thời gian 1996 đến 2005 số phụ nữ trong phường chết vì ung thư vú
chiếm 12% tổng số tử vong vì ung thư [3]. Các bệnh ung thư khác gây ra tử vong
nhiều hơn là ung thư bao tử (chiếm 26% tổng số tử vong vì ung thư) và ung thư
phổi (18%). Ngay cả tử vong vì ung thư gan (9%) và ung thư máu (9%) cộng lại
cũng cao hơn cả tử vong vì ung thư vú.
Bảng so sánh sau
đây (dựa vào thống kê từ Việt Nam) trình bày 5 loại ung thư nguy hiểm nhất, tính
theo tần số xuất hiện và số tử vong. Chẳng hạn như ung thư vú, tuy được phát
hiện nhiều nhất, nhưng có lẽ được điều trị sớm và khả quan cho nên số ung thư
này phải là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ. Ngược lại, ung thư bao
tử và phổi (hạng 7 và 8 – không có trong bảng) về số trường hợp, nhưng lại đứng
đầu danh sách về số tử vong, vì phần lớn những người bị ung thư bao tử và gan
chết sớm (và do đó làm giảm tuổi thọ nhanh nhất).
Hạng |
Số trường hợp
ung thư mới phát hiện hàng năm Hà Nội (nữ) |
Số tử vong vì
ung thư ở Hà Nội (nũ) |
1 |
Vú |
Bao tử |
2 |
Bao tử |
Phổi |
3 |
Ruột |
Vú |
4 |
Gan |
Gan |
5 |
Cổ tử cung |
Máu |
Cần chú trọng
các bệnh ung thư khác
Cố nhiên, ở đây
chúng ta cũng không loại trừ khả năng “thiên vị” trong việc phát hiện và chẩn
đoán ung thư. Bởi vì ung thư vú được giới truyền thông (cộng với sự phụ họa của
vài người trong giới y tế) chú ý nhiều, cho nên số phụ nữ đi khám để truy tìm
ung thư vú nhiều hơn các bệnh ung thư khác như ung thư bao tử, ruột, gan và cổ
tử cung. Người mắc các bệnh này thường được phát hiện hay chẩn đoán quá trễ cho
nên khó cứu sống, và trong thực tế con số bệnh nhân trong dân số có thể còn cao
hơn cả ung thư vú.
Ngay cả trong tình
hình “thiên vị” hiện nay, số bệnh nhân mắc bệnh ung thư bao tử, ruột, cổ tử
cung, và phổi còn cao gấp 2 lần số trường hợp ung thư vú. Do đó, song song với
tuyên truyền về ung thư vú, thiết nghĩ không nên xem nhẹ giáo dục cộng đồng về
nguy cơ các bệnh ung thư nguy hiểm khác trong bảng trên.
Phòng bệnh hơn
chữa bệnh
Đứng trên quan
điểm y tế công cộng, nguyên nhân tử vong theo bệnh tật tuy có ích, nhưng không
thiết thực cho mục tiêu phòng bệnh. Mục tiêu của y tế dự phòng và phòng ngừa
các yếu tố mang tính “mầm móng” gây bệnh. Ai cũng biết số đàn ông hút thuốc lá
và uống bia rượu ở nước ta rất cao. Theo một báo cáo trên tập san JAMA khoảng
10 năm trước, con số đàn ông trên 18 tuổi hút thuốc lá lên đến gần 80%, cao hơn
cả Trung Quốc và Nhật Bản vốn từng đứng đầu bảng về hút thuốc lá trên thế giới!
Không ai biết hàng năm ở nước ta có bao nhiêu người chết vì hút thuốc lá, nhưng
chắc chắn con số đó không ít. Xin dẫn ra đây một nghiên cứu ở Mĩ về nguyên nhân
tử vong trong dân số Mĩ tính từ 1999-2000:
Hạng |
Nguyên nhân chết |
Số người chết |
1 |
Hút thuốc lá |
435.000 |
2 |
Thiếu dinh dưỡng hay thiếu
vận động |
400.000 |
3 |
Rượu bia |
85.000 |
4 |
Vi khuẩn |
75.000 |
5 |
Độc tố, trúng độc |
55.000 |
6 |
Tai nạn xe hơi |
43.000 |
7 |
Súng |
29.000 |
8 |
Sex |
20.000 |
9 |
Ma túy |
17.000 |
Nguồn: Mokdad
AH, et al. Actual causes of death in the United States, 2000. JAMA 2004;
291:1238-1245.
Nếu kinh nghiệm ở
Mĩ là một bài học, có lẽ việc ngăn ngừa chống hút thuốc lá, chống bia rượu, cải
thiện dinh dưỡng, nâng cao vận động, an toàn thực phẩm, giảm thiểu tai nạn xe
hơi là những ưu tiên hàng đầu.
Ung thư vú là một
bệnh nguy hiểm, nhưng không phải là nguyên nhân hàng đầu gây ra cái chết cho dân
số. Trong khi phòng ngừa ung thư vú, chúng ta cũng không nên quên các bệnh ung
thư khác, và nhất là không bỏ qua các yếu tố nguy cơ gây nên ung thư và các bệnh
tim mạch.
Tài liệu tham
khảo:
[1] Anh PT, Duc
NB. The situation with cancer control in Vietnam. Jpn J Clin Oncol. 2002 Mar;32
Suppl:S92-7.
[2] National
Vital Statistics Report: Deaths – leading causes for 2002. Centers for Disease
Control and Prevention, NVSS 2005; 53:17, March 7, 2005.
[3] Ngoan le T.
Cancer mortality in a Hanoi population, Viet Nam, 1996-2005. Asian Pac J Cancer
Prev. 2006 Jan-Mar;7(1):127-30
NVT 11/9/2006
|