|
Những bài cùng tác giả
Những bài cùng đề tài
Chất tạo nạc
“Đối
với các cơ sở nước tương vi phạm Vệ Sinh An Toàn Thực Phẩm … biện pháp đầu
tiên là phải đóng cửa nơi sản xuất chứ không chỉ tập trung vào việc thu hồi
sản phẩm hay phạt hành chính…”
(Ông Đỗ tất thắng -- Phó chủ tịch Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng
Việt Nam ).
Trách
nhiệm thuộc về ai ?
Chưa có
lúc nào người nội trợ phải lo lắng và lúng túng trước nạn ô nhiễm độc chất
trong rau quả, thịt cá, các loại hàng chế biến phổ biến trong đời sống hàng
ngày như sự kiện nước tương “đen” hay nước mắm chứa tạp chất, thuốc trừ sâu
đã trở thành vấn đề nghiêm trọng trong mấy tháng qua.
Hầu hết đều bối rối
và bị động vì chỉ được biết sau khi đội (đoàn) thanh tra, phòng dịch phát
hiện và công bố kết quả kiểm nghiệm trên phương tiện thông tin đại chúng quá
muộn màng (6 năm sau !),
không
ngăn chận hay “phòng dịch” trước khi việc ngộ độc thực phẩm đã xảy ra. Nếu
việc nhiễm độc đến tức thời, gây thương vong ngay thì người dân còn có thể
biết nhưng nếu đó là những độc tố gây suy thận, viêm gan, hoại tủy, teo cơ…
có thể dẫn đến tai biến, gây nên các chứng ung thư cho người tiêu dùng, len
lõi vào hệ miễn dịch,di truyền cho nhiều thế hệ tiếp nối thì trách nhiệm
thuộc về ai, chi phí chữa và nuôi bệnh sẽ là những gánh nặng khủng khiếp lên
gia đình người bị phơi nhiễm. Không ai có thể né tránh vì chất độc trong
lương thực ngày càng bị lạm dụng đến mức tối đa, các cơ quan chức năng về vệ
sinh thực phẩm, thị trường, y tế… luôn bị bó tay trước nạn chồng chéo của bộ
máy quản lý, và cuối cùng chỉ cần một lời xin lỗi hay đổ tội cho cơ chế hoặc
khôn ngoan vin vào lý do “khoa học” chưa xác minh(!) để tránh né trách nhiệm
và sự phê phán của công luận.
Đã có 11 cơ quan nhảy vào cuộc trong sự kiện nước tương có 3-MCPD nhưng rồi…
mọi việc vẫn trở về nơi xuất phát, một lời “xin lỗi”của Giám đốc Sở Y tế
TPHCM là xem như “kết thúc” trong khi nước tương đen là một mặt hàng đang có
mặt khắp nơi trên cả nước.
Ô nhiễm vi khuẩn, vi sinh và độc chất “nội ngoại” khắp nơi
Rau muống nhiễm
thuốc trừ sâu, kí sinh gây bệnh đường ruột, thương hàn có mặt khắp các chợ,
thực phẩm đông lạnh với dư lượng kháng sinh, hàng chế biến thì tràn lan
thuốc nhuộm, phẩm màu, hóa chất tạo màu mùi và có cả các loại hóa chất bảo
quản độc hại nói chi đến Gạo là lương thực cơ bản đã nhiễm các loại thuốc
như Semicarbazide, Acetamipri… được sử dụng để chống nấm mốc, sâu mọt mà cơ
quan kiểm dịch Nhật bản đã phát hiện trong gạo nhập từ nước ta? Việc kiểm
tra, kiểm soát các loại hàng thực phẩm nhập khẩu từ Trung quốc, Thái lan
thậm chí từ các nước phát triển còn bỏ ngõ, phó mặc cho người tiêu dùng
trong khi nạn lạm dụng hóa chất tẩy trắng, bảo quản… đang được các cơ quan
kiểm dịch nước ngoài lên tiếng cảnh báo, cương quyết loại trừ chúng ra khỏi
thị trường nội địa. Không khó khăn gì trong việc tìm kiếm các loại bột nêm,
gia vị, tạo ngọt nồng độ cao của Trung quốc trên thị trường Việt nam, chỉ
cần 1 gói bột lẫu Thái hay Trung quốc có giá từ 3.000 - 6.000 đồng là có thể
có một lượng nước dùng cho vài chục tô , rất được các tiệm, xe bán hủ tiếu,
phở, mì Gõ… ưa chuộng (thay vì phải dùng xương) hay các loại bột tổng hợp để
sát trùng, bảo quản rau củ quả, trái cây lâu ngày…được sử dụng khá phổ biến
ở các đại lý, cửa hàng trái cây. Kết quả kiểm tra sơ bộ đã cho thấy độ nhiễm
bẩn hầu hết ở các loại thịt tươi sống 90-100% không kể hàn the, formol, muối
diêm có trong thực phẩm chế biến như giò, chả bánh phở, mì sợi, bún… rất phổ
biến. Trung tâm y tế dự phòng TPHCM cho biết 94% không đạt chỉ tiêu vi sinh,
chỉ tiêu hóa lý là 47% trong đợt kiểm tra năm 2005, đồng thời cảnh báo thực
phẩm chế biến ăn ngay có tỷ lệ nhiễm vi sinh vật cao gấp 3 - 4 lần mẫu thực
phẩm có bao gói sẵn ! Trong đợt kiểm tra 6 tháng đầu năm 2007, rau có độc tố
tại chợ đầu mối là 71/2060 ( 3,43% ) mẫu, trong khi mẫu rau ở siêu thị nội
thành chiếm 4,81% ( 65/905 mẫu ), 57/90 mẫu thịt ở lò giết mổ có vi sinh,
khuẩn gây bệnh như E.Coli, S.Aureus, Samonella và 21/90 mẫu không đạt chỉ
tiêu về tồn dư kháng sinh,kim loại nặng và hóa chất bảo vệ thực vật(phân
xanh,thuốc trừ sâu gốc Chlor hữu cơ…), đã có 633/2.293 cơ sở vi phạm Vệ sinh
an toàn thực phẩm và cả nước là 3000 cơ sở vi phạm. Điều tra của TS Bùi Cách
Tuyên, nguyên hiệu trưởng Đại học Nông Lâm TPHCM cho biết nhân dân thành phố
đang tiêu thụ các loại rau thủy sinh có hàm lượng độc tố ghê gớm như hàm
lượng Kẽm trồng rau muống ở huyện Bình Chánh cao hơn mức cho phép 30 lần, ao
rau nhút ở phường Thạnh Xuân quận 12 có hàm lượng Chì gấp 35 lần, Sen ở Đông
Thạnh(Hóc Môn)có hàm lượng Chì gấp 14 lần… nghĩa là diện điều tra mở rộng
tới đâu thì phát hiện mức độ ô nhiễm độc tố “lan” nhanh tới đó. Một số hộ
nông dân trồng rau ngoại thành thành phố HCM xem việc phun thuốc trừ sâu và
cả thuốc diệt cỏ 2,4 D (có khả năng gây ung thư gan, lá lách…) để ngâm rau
muống , giữ gìn độ xanh, bắt mắt của rau , cho biết loại thuốc diệt cỏ ( cấm
sử dụng ) nầy được các công ty bán kèm với thuốc bảo về thực vật khác ! Thứ
trưởng Bùi bá Bổng bộ NN-PTNT thừa nhận “thực phẩm ô nhiễm vi sinh vật và
tồn dư hóa chất độc hại đang là vấn đề tồn tại lớn” nhưng hiện nay vẫn còn
nhiều lúng túng chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chận mặc dù vấn đề nầy đã
được quốc hội quan tâm. Đến bao giờ người nội trợ được yên tâm nuôi dưỡng
con cái,gia đình mình bằng những thực phẩm bỗ dưỡng, trong “lành” như hằng
mong đợi. Câu hỏi vẫn còn ở phía trước.
Box: Ngộ độc thực
phẩm trong năm 2014 |
Ngộ độc thực phẩm là một
bệnh hết sức đa dạng, sau đây là một số thể loại bệnh thường gặp
Ngộ độc thức ăn
do vi khuẩn
Salmonella
Vi khuẩn gây ngộ độc đa
số là nhóm vi khuẩn đường ruột, khả năng gây bệnh của nhóm này yếu nên để
gây bệnh thường phải có một lượng lớn thức ăn. Ngộ độc thực phẩm loại này
thường xảy ra trong vòng vài giờ đến một ngày sau khi ăn các thực phẩm bị
nhiễm này.
Ngộ độc thức ăn do vi khuẩn
E.coli
Vi khuẩn E.coli thường
nhiễm vào đất, nước… từ phân của động vật. Khi nhiễm vi khuẩn này thông qua
đường thức ăn, thì người bị sẽ ủ bệnh từ 2-20 giờ. Người ngộ độc thấy đau
bụng dữ dội, đi phân lỏng nhiều lần trong ngày, ít khi nôn mửa.
Ngộ độc do thức
ăn bị biến chất, ôi thiu…
Các
thức ăn (như thịt,
cá
biển tươi hoặc
đóng hộp,
tôm,
tép,
sò huyết,
nghêu) bị
biến chất khi chưa nấu chín hoặc bị ôi thiu sau khi chế biến sẽ sinh ra chất
độc có tên là
Histamin.
Một lượng Histamin 1,5-4 g đủ để gây ngộ độc cho người ăn.
|
Theo Wikimedia
Trong năm 2014, cả nước ghi nhận
189 vụ ngộ độc thực phẩm với hơn 5.100 người mắc, 4.100 ca nhập viện và 43
trường hợp tử vong. So với năm 2013, ngộ độc thực phẩm tăng 22 vụ và số
người tử vong tăng gần 54%.
(Báo
Người lao động)
Thói
quen sử dụng chất kích thích, hormone tăng trọng
Đáng lo ngại nhất
là hiện tượng các nhà sản xuất thức ăn gia súc gia cầm sử dụng thức ăn có
hàm lượng kích thích tố tăng trưởng như Dexamethasone (giữ nước, muối, gây
tụ mỡ), testoterone (trong thịt heo), hormone tăng trọng nguy hiểm như
Clenbutyrol (tăng tỷ lệ nạc, giảm mỡ cho heo, bò), Estradiol (Gà, kháng
sinh,tăng trọng), hormone tổng hợp nguy hiểm Diethylstilestrol (gây ung
thư)… phát tán khắp nơi bên cạnh các loại thịt nhiễm bệnh, lở mồm long móng
được bày bán ở các quầy nhỏ lẻ góc phố hoặc cung cấp cho các quán phở, mì,
cháo… hàng rong mà đối tượng chính là trẻ em và học trò các trường trung
tiểu học ở thành thị cũng như nông thôn.. Khuynh hướng nầy ngày càng tăng
thông qua số ngộ độc thực phẩm càng nhiều, rõ rệt hơn trong năm 2007 và càng
có qui mô lớn hơn vì bếp ăn tập thể hay công ty chế biến cung cấp cho những
khu công nghiệp không đảm bảo vệ sinh chất lượng như vụ 200 công nhân ngộ
độc thực phẩm ở TpHCM trong tháng 6/2007. Điều đáng lo ngại là những loại
kích thích tăng trưởng, tăng trọng như Dexamethasone có hầu hết trong các
loại thịt ( gà,bò,heo… ) tươi sống và thức ăn gia súc cho thấy việc lạm dụng
ngày càng phổ biến, trở thành một thói quen hay “bí quyết” thần dược để rút
ngắn thời gian và chi phí vỗ béo. Chỉ riêng Dexamethasone là hóa chất
Corticoid có tác dụng kháng viêm nếu sử dụng lâu dài sẽ dẫn đến việc tích
lũy trong cơ thể con người gây xáo trộn nội tiết của tuyến thượng thận,
hại
thần kinh, gây kích động, làm cho cơ thế béo phì, tăng huyết áp hay các chứng
bệnh mãn tính về xương và cơ. Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp cảnh báo
“75% mẫu thịt và 70% mẫu gan của gia súc gia cầm có mức tồn dư các chất kích
thích tăng trưởng và kháng sinh như hiện nay vượt ngưỡng cho phép sẽ gây ngộ
độc mãn tính”. Thật vậy, vấn để sử dụng các loại kháng sinh cũng như Hormone
kích thích nầy đã được sử dụng hơn 20 năm nay trong ngành chăn nuôi gia súc
gia cầm, trở thành một thói quen không thể thiếu để trục lợi. Theo báo cáo
của Trung tâm dịch vụ phân tích thí nghiệm Sài gòn thì trong những năm
1999-2000 số lượng mẫu thịt gà , heo, thức ăn gia súc có hàm lượng
Dexamethasone vượt chuẩn là 80 — 99 % chứng tỏ từ lâu người tiêu dùng đã bị
phơi nhiễm độc tố mà không hề hay biết. Hơn thế nữa gần đây người ta còn
phát hiện các loại “thần dược” mới có xuất xứ Trung quốc như “Bạch Nhật
Đại”,”Khai Vị”, “Tăng gia phức đại” (không rõ thành phần hóa chất) với giá
rẻ 3.000 - 6.000 đồng/gói… hay hốn hợp tăng trọng, tỷ lệ sinh sản cao bất
bình thường pha trộn hóa chất cấm vào thức ăn gia súc.
Hơn thế nữa, việc
sử dụng chất Clenbuterol –hormone tăng trưởng bị cấm—đang được sử dụng tràn
lan, trong 500 mẫu thịt lợn tại TPHCM có 30% mẫu dương tính trong cuộc điều
tra của Chi cục thú y thành phố năm 2005, lượng hóa chất nầy tồn dư 100%
trong cơ thế động vật, 60% tồn lưu trong Gan, Thận ngay cả khi nấu chín hay
chiên và đây là nguồn gây ung thư, run cơ, suy tim… hiện nay vẫn ngang nhiên
có mặt trên thị trường . Đáng ngạc nhiên là ngay trong sản phẩm thức ăn gia
súc của một số công ty nổi tiếng trong nước vẫn tìm cách pha loại “thần
dược”nầy vào hoặc khôn ngoan hơn là gói sẵn trong một bao bì riêng và hướng
dẫn cho các hộ chăn nuôi tự pha chế để trốn tránh trách nhiệm lẫn kiểm tra
của cơ quan chức năng…và đã làm phá sản những nông dân tại tỉnh Đồng Nai khi
mặt hàng chăn nuôi của họ bị cơ quan thú y phát hiện phơi nhiễm Clenbutyrol,
Salbutamol từ thức ăn gia súc của công ty Uni-PresidentVN (Bình Dương). Đây
chỉ là một trong nhiều trường hợp của các công ty sản xuất và mua bán thức
ăn gia súc đã xảy ra gần đây ở các tỉnh phía Nam.
Tại thị trường miền
Bắc người ta còn phát hiện một số thuốc kháng sinh trị bệnh được dùng để
kích thích tăng trọng khác như Tetracycline, Neomycine, Zine, Bactacin…
khuyến cáo chỉ được dùng cho gia súc từ 14 - 42 ngày trước khi giết mổ nhưng
trên thực tế thì các hộ vẫn sử dụng tận đến giờ xuất chuồng, và khi chữa
bệnh kháng sinh liều cao vẫn không khỏi, gia súc bị chết thì họ trà trộn
chung với thịt gia súc khỏe mạnh để tiêu thụ!.
Đặt lại
vấn đề Vệ sinh an toàn thực phẩm từ gốc
Những con số cũng
như tình trạng ô nhiễm độc tố không còn là hiện tượng đặc thù mà đã trở
thành một nạn đại dịch trong đời sống hằng ngày của nhân dân, việc tăng
cường biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cần phải được hệ thống hóa
thành một cơ chế quản lý nghiêm khắt với khung hình phạt thỏa đáng không chỉ
để răn đe như từ trước đến nay mà nhằm mục đich triệt hạ mối nguy hiểm gây
tai họa cho bao người. Hiện tượng trẻ nít, người lớn béo phì bất thường,
mang các chứng bệnh ung thư ( Báo cáo của Bộ Y tế cho biết tại nước ta số
người chết vì ung thư đã lên đến 200.000 người/năm trong đó 150.000 ca tử
vong và 35% là ung thư do thực phẩm độc hại gây nên ) hay hiện tương vô
sinh, tỷ lệ tinh trùng giảm trong nam giới là những hậu quả tai hại từ những
độc tố mà các nước phát triển đã trải qua. Những dị biến hay đột biến trong
tế bào con người do hóa chất độc hại gây nên đã được các nhà khoa học lên
tiếng từ hơn 10 năm nay khi xét nghiệm cơ thể của con người ngày nay hấp thụ
và tích lũy quá nhiều độc tố hóa chất mang tình hủy diệt lâu dài do chính
cuộc sống “văn minh” tạo ra.
Chạy theo lợi nhuận bất kể sức khỏe của người tiêu dùng là một tội ác có tổ
chức, hành động giết người cần phải có qui định chế tài đích đáng chứ không
thể dừng lại ở mức phạt hành chính hay tạm đóng cửa để “chấn chỉnh” và lấy
cớ “quá ít cán bộ kiểm dịch” hay “không đủ phương tiện”… để lẫn tránh trách
nhiệm của người quản lý. Đã đến lúc cần phải có một bộ luật hoàn chỉnh về An
toàn Lương thực, thực phẩm cũng như qui chế thanh, kiểm tra, không chế việc
mua-bán sử dụng trái phép mọi loại hóa chất độc hại một cách có hệ thống.
Điều nầy sẽ tiết giảm được chi phí phòng-chữa bệnh ngày càng tăng trong đời
sống nhân dân, bảo vệ sức khỏe của toàn dân trước hiểm họa ô nhiễm trầm
trọng hiện nay. Bộ máy kiểm dịch và thanh tra một cách cơ động, quyết liệt
việc mua bán, sử dụng hóa chất cấm dùng trong thực phẩm là một đòi hỏi bức
thiết, ngăn chận kịp thời việc nhập lậu các loại “thần dược”từ biên giới là
một trong những việc “cần làm ngay”.
Phải chăng đây là những điều kiện cơ bản để cải thiện chất lượng “sống” của
nhân dân trong quá trình phát triển, không thể chấp nhận nền kinh tế tăng
trưởng nhanh và hệ quả của nó lại là ô nhiễm độc tố tràn lan trong môi
trường và bữa cơm gia đình ngày càng không “sạch” một cách tệ hại?.
Một số dư lượng thuốc trừ sâu, diệt nấm, kim loại nặng trên rau quả vượt mức
cho phép.
- Chất độc gốc tự
nhiên: Tetrodotoxin trong một số thủy sản như cá nóc, mực xanh..., glycozit
cyanogen trong một số thực phẩm như măng, khoai mì, độc tố sinh học biển
ASP, DSP, PSP trong nhuyễn thể 2 mảnh vỏ.
Chất độc sinh ra trong quá trình bảo quản không tốt:
- Ochratoxin trong cà phê. - Histamin trong hải sản.
Chất độc thải ra từ các bao bì: Phtalat hóa dẻo. Chất độc sinh ra trong quá
trình chế biến, nấu nướng:
- 3-MCPD và 1,3 – DCP trong nước tương(chất gây ung thư). - Acrylamid trong
chiên, xào, nướng.
Chất độc sinh ra từ công thức pha chế:
Benzen sinh ra từ các loại nước ngọt, nước tăng lực có đồng thời vitamin C
và muối Benzoat hiện diện.
Chất độc gốc môi trường: Kim loại nặng(Chì,Mangan,Thủy ngân…), PCB,Dioxin.
Người
tiêu dùng hãy “tuyên chiến” một cách quyết liệt hơn
Không
phòng chống theo phong trào
Tình trạng ô nhiễm
độc tố đã lan tràn khắp mọi thức ăn, nước uống, rau quả…trong đời sống nhân
dân như các cơ quan truyền thông cũng như vệ sinh phòng dịch thông báo suốt
cả mấy tháng nay. Các Cơ quan quản lý và có chức năng về thị trường, hải
quan, vệ sinh an toàn thực phẩm, an ninh kinh tế, y tế…
đã có “chiến dịch”
phối hợp nhằm ngăn chận, các nhà khoa học cũng liên tục lên tiếng về hiểm
họa thực phẩm, nước tương “đen” hiện nay. Thực tế cho thấy càng kiểm tra,
kiểm soát đến đâu thì phát hiện “vấn nạn” nhiễm độc “lan” đến đó, mức độ
nguy hại của độc chất không dừng lại ở các chứng bệnh thông thường như tiêu
chảy, kiết lị, thương hàn do vi khuẩn Samonella, vi sinh E. Coli, Coli
Feacal… mà ảnh hưởng lâu dài, gây biến đổi gen như dư lượng kháng sinh
Chloramphenicol trong hàng thủy hải sản, hormon tăng trọng như Clenbutyrol,
Sabutamol gây ung thư trong thức ăn gia súc, gia cầm cũng như nhiều loại hóa
chất, phẩm màu, tẩy trắng, tạo keo, tạo mùi, vô cùng độc hại đến từ các vùng
biên giới. Rõ ràng người tiêu dùng đang rơi vào trạng thái lo lắng, hoảng
sợ, không biết phải đối phó làm sao khi cầm phải bó rau muống hay rau
nhút…có giá 1.000 đồng/ bó trên tay, mua nhầm miếng thịt nhiễm độc từ thức
ăn chăn nuôi thì cũng bó tay, đó là chưa kể các bí quyết của nhà chợ bán
hàng pha thêm hóa chất bảo quản, trộn thịt tốt xấu, nhiễm bệnh để tiêu thụ.
Chận
ngay từ gốc
Thiết nghĩ các cơ
quan quản lí thị trường từ cấp khu phố đến cấp thành phố cần có lực lượng và
phương tiện để rà soát triệt việc thâm nhập các loại hàng nầy vào từng ngỏ
ngách và có biện pháp cứng rắn như cảnh sát giao thông đối với người vi phạm
đi ngược chiều…bằng cách tịch thu, đóng sạp và không cho phép kinh doanh lâu
dài bằng cách niêm yết danh tính, mặt hàng lên mạng lưới thông tin đại chúng
và khu phố nơi phát hiện đồng thời truy tìm tận gốc nơi sản xuất-xuất xứ để
kết hợp với chính quyền địa phương đó cộng tác ngăn chận ngay từ gốc. Việc
lập lại một trật tự mới trong đời sống nhân dân trước hiểm họa ô nhiễm độc
tố là một việc làm vô cùng bức thiết . Tất nhiên đây là một việc làm quyết
liệt và lâu dài, không nên có xu hướng triển khai rầm rộ, phô trương theo
chiến dịch để “dọa nạt” như trường hợp chống hàng Mỹ phẩm có chất Sudan,
“tịch thu” một cách ồn ào nhưng người buôn bán ở chợ đã biết trước, vội vàng
đóng cửa sạp khi “đoàn ta” đến !…
Người
tiêu dùng ở nước ta quá “hiền”
Hơn thế, điều cần
nói là người tiêu dùng ở nước ta quá “hiền”, mua lỡ hàng có chứa chất độc,
thịt bẩn, nước tương “đen” cũng đành chịu, các nhà quản lý kêu gọi “người
tiêu dùng phải thông minh” để đối phó nhưng đây là điều “nói cho có” chứ thử
hỏi các bà nội trợ làm sao có thể phân biệt được hàng nào “tốt” hàng nào
“sạch” trong khi tất cả đều tù mù, như bị đánh đố. Một phương cách bảo vệ
chính là bản thân người tiêu dùng biết cách liên kết với các cơ quan truyền
thông, tích cực thông báo và lên tiếng để mọi người cùng biết và thẳng tay
“tẩy chay”, loại trừ các loại thực phẩm có hại ra khỏi đời sống, trong đó
tẩy chay luôn các sạp, siêu thị, cửa hàng…tiếp tay tiêu thụ những ”nhà sản
xuất” vi phạm. Cơ quan chính quyền, công an địa phương, quản lý thị
trường…cần phải có biện pháp bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng bằng những
qui chế thu hồi, tiêu hủy, và buộc nhà sản xuất phải đền bù cho người bị hại
đồng thời hạn chế mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh như hiện tượng bôi
xấu nhau như đã xảy ra trong vụ nước tương “đen” hoặc hành vi vu khống của
người xấu để “ăn vạ”. Ở các nước phát triển, chính phủ đã ban hành luật P.L
(Product Lialibity)* để bảo vệ người tiêu dùng như ở Mỹ, Nhật, Châu âu… theo
đó, cho phép khách hàng trả lại mặt hàng mình đã mua nếu không sử dụng được
(sau một thời gian nhất định) đồng thời có thể khởi kiện nhà sản xuất khi bị
hậu quả (bệnh tật) do sản phẩm đó gây ra mà vụ nạn nhân Dioxin Việt nam kiện
các nhà sản xuất thuốc khai quang của Mỹ là một thí dụ. Các hội, đoàn thể
bảo vệ sẵn sàng triển khai các hoạt động tẩy chay nhà sản xuất khi họ vi
phạm về qui chế an toàn cho người tiêu dùng trong khu phố. Đã đến lúc người
tiêu dùng phải kết hợp và tiếp tay với những cơ quan chức năng cũng như các
cơ quan truyền thông đại chúng để đẩy mạnh hơn nữa việc hạn chế chất độc hại
vào đời sống, biết nói “không” một cách dứt khoát hơn thay vì “thụ động”
trông chờ vào những chính sách vĩ mô của nhà nước như hiện nay. Không thể để
ý thức chống hàng độc hại còn hời hợt của người dân là “chỗ trũng” cho những
kẻ “vô lương tâm” thao túng trong sản xuất và kinh doanh càng không thể
trông mong vào “đạo đức” của những kẻ sát nhân bằng độc chất để truy cầu lợi
nhuận.
Dư
lượng kháng sinh: vấn đề nghiêm trọng
Thông tin mới nhất
cho biết ngày 25/6/2007 Đại sứ Nhật bản tại Viêt nam ông Hattori Norio đã
gửi công hàm cho Bộ trưởng Bộ Thủy sản thông báo cơ quan kiểm dịch nước nầy
sẽ có biện pháp gắt gao hơn như cấm nhập khẩu các mặt hàng thủy hải sản nước
ta nếu như vấn đề dư lượng kháng sinh không được khắc phục sau khi đã nhiều
lần lên tiếng cảnh báo từ giữa năm 2006. Trong 6 tháng đầu năm 2007, Việt
nam đã xuất khẩu sang nước nầy 39,090 tấn hàng thủy hải sản (Tôm, cá, mực
tươi, mực khô…) và hàng chế biến đông lạnh ( Chả giò hải vị Cua, tôm ) với
6.000 lô trong đó phát hiện 94 lô có dư lượng kháng sinh bị cấm như
Chloramphenicol, chất dẫn xuất Nitrofuran, Coliform… sử dụng trong quá trình
bảo quản hoặc sát trùng ao nuôi nhiễm bẩn.
Đứng
trước nguy cơ
Người ta còn nhớ
trong tháng 5/2007 Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa kỳ cũng đã công bố
danh sách 28 nhà xuất khẩu thủy hải sản và thực phẩm Việt Nam có hơn 30 mặt
hàng vi phạm các tiêu chuẩn vi sinh, kháng sinh, tạp chất, bao bì không đạt…
và bị từ chối nhập khẩu cũng như Nga cũng sẽ gửi một đoàn thanh tra vào đầu
tháng 7/2007 sang tìm hiểu xem xét việc nhập khẩu hàng thủy hải sản nữa hay
không. Những động thái nầy không những đang gây lo lắng cho ngành thủy sản
nước ta, có thể đánh mất các thị trường truyền thống ( Nhật bản, Châu âu )
hay thị trường mới đầy tiềm năng ( Nga, Hoa Kỳ… ) và mục tiêu phát triển kim
ngạch xuất khẩu ở mức 3,5 đến 4 tỷ đô la sẽ trở thành vô vọng nếu như không
được khắc phục triệt để và kịp thời. Theo đà phát triển trong mấy năm vừa
qua, Việt nam đã phải trải qua biết bao vất vả để xây dựng được một thị
trường tiêu thụ hàng thủy hải sản rộng khắp thế giới trong đó Châu Âu, Hoa
Kỳ, Nhật bản, Hàn quốc là những thị trường hấp dẫn nhất với mức tiêu thụ
cao, vì vậy đây chính là lúc việc rà soát triệt để từ khâu nuôi trồng, đánh
bắt, bảo quản và chế biến cũng như kiểm tra, kiểm soát trước khi xuất khẩu
là một thách thức lớn đối với ngành thủy sản khi đứng trước nguy cơ nói
trên. Cách thức làm ăn theo lối chụp giựt, chạy theo lợi nhuận trước mắt như
tranh nhau thu gom mua hải sản từ nhiều nguồn không được kiểm soát, dùng
kháng sinh bừa bãi trong khâu bảo quản ngay sau khi đánh bắt hay không quản
lý chặt chẽ việc chọn lựa nguyên liệu chế biến…thì những hậu quả xảy ra là
tất nhiên, không kể việc đóng gói sai qui cách, cố tình chích thêm Agar-agar
(thạch) vào hàng đông lạnh (TÔM) để tăng trọng lượng hoặc cố tình ghi sai
tên mặt hàng… gây ra nhiều hiểu lầm đáng tiếc đã thấy qua vụ kiện của Mỹ xảy
ra vào năm 2006.
Dư
lượng kháng sinh hàng trong nước : vô tư
Bước vào sân chơi
WTO, ngành thủy sản Việt Nam (cũng như một số ngành khác như Cà phê, Hạt
điều, Gạo…) sẽ còn có nhiều cơ hội để vươn ra thị trường thế giới,
góp phần
đẩy nền kinh tế đi nhanh như dự kiến nhưng có phải chúng ta đã quá chủ quan
trong khâu quản lý từ nhà sản xuất(công ty) trong nước đến những cơ quan
chức năng về thương mại, kiếm dịch…tự mình đánh mất giá trị của thương hiệu
khi bị từ chối và có thể bị cấm nhập khẩu như trường hợp một số hàng thủy
hải sản của Trung quốc khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Người dân các nước tiên
tiến đều được cảnh báo nguy cơ phơi nhiễm hóa chất độc hại trong lương thực,
có thể từ các mặt hàng thủy sản nuôi trồng (Tôm, Lươn, Cá Basa…) như
Chloramphinecol, Nitrofuran sang cơ thể con người ảnh hưởng nghiêm trọng đến
hệ miễn nhiễm, mất khả năng kháng thuốc khi tích tụ lâu ngày và có khả năng
gây đột biến, rối loạn nội tiết. Việc sử dụng rộng rãi các loại thuốc kháng
sinh, trừ sâu (phân Urê) là một thói quen của ngư dân hay nông dân nuôi
trồng thủy sản ở nước ta nhằm tiết kiệm giá thành cũng như giữ được độ tươi
lâu hơn trong khâu chế biến, tiêu thụ…nhưng rất tiếc cho tới nay vấn đề quản
lý những chất độc nầy vẫn còn bỏ ngỏ, không thấy các lực lượng thanh tra vệ
sinh phòng dịch, an toàn thực phấm lên tiếng trong khi các hàng thủy hải sản
vẫn có mặt tại mọi chợ. Nói khác đi, người dân không ai biết dư lượng độc
tố, kháng sinh, vi khuẩn gây bệnh… trong hàng tiêu dùng mỗi ngày, đang phải
sống chung với chúng một cách “vô tư” trong khi hàng xuất khẩu thì ngược lại
ngày càng được kiểm tra chặt chẽ hơn. Các nhà sản xuất, chế biến sẽ không
tiêu hủy khi tự họ phát hiện dư lượng kháng sinh trong những lô hàng xuất
khẩu sẽ giải quyết dễ dàng bằng cách tung trở lại vào thị trường trong nước
để cứu vãn như những chiếc áo sơ mi “phế phẩm” đang được bày bán hiện nay.
Mỗi khi sự kiện ngộ độc tập thể xảy ra thì khi đó mới thấy đội Vệ Sinh Phòng
Dịch, và cứ như thế công việc hậu kiểm để đối phó với dư luận luôn đi sau
hậu quả chết người, hai chữ “phòng dịch” không còn giá trị khi hiện tượng
phơi nhiễm độc chất trong hàng tươi sống cũng như chế biến chưa được giải
quyết tận gốc mà khâu nhập khẩu, tiêu thụ hóa chất trên thị trường vẫn được
thả nổi như hiện nay.
Tự do
nhập khẩu hóa chất độc hại
Trong phiên họp đầu
năm 2007, Thứ trưởng thương mại Phan thế Ruệ cho biết năm 2006, chúng ta
nhập hơn 1,2 tỷ đô la hóa chất cho ngành chế biến, lương thực nhưng không
quan tâm đến việc những hóa chất nầy được sử dụng như thế nào, có độc tính
ra sao! Ngay tại TpHCM chúng ta có thể tìm thấy dễ dàng hàng trăm, nghìn
loại hóa chất, từ acid chlohydric, sulfuric đến vitamin tổng hợp, phụ gia đủ
loại cho các ngành tại chợ Kim Biên, thậm chí muốn mua
Cyanure giết người
cũng có, cho nên việc lạm dụng hóa chất là “chuyện thường ngày ở huyện”, các
cơ quan chức năng chưa đủ khả năng để kiểm soát và không chế. Ngăn chận hóa
chất độc hại ngay từ khi nhập khẩu,cấm chỉ hoặc hạn chế, quản lý nghiêm nhặt
việc sử dụng để chế biến không có giấy phép, gian lận trong thương mại bằng
cách pha trộn tạp chất (dưới tên gọi phụ gia)…có hại cho người tiêu dùng
trong nứớc lẫn nước ngoài đều phải được quan tâm ngang nhau, không có lí gì
hàng bị từ chối nhập khẩu vì vi phạm luật nước sở tại lại quay ngược về thị
trường trong nước để “đầu độc”người tiêu dùng một cách vô tội vạ như hiện
nay. Thiết nghĩ những động thái và phản ứng hiện nay của các nước tiêu thụ
hàng thủy hải sản đối với nước ta không chỉ là lời cảnh báo, đe dọa mà là
những góp ý cần thiết, nêu lên điều kiện bắt buộc để chúng ta có biện pháp
cứu vãn không những đảm bảo chất lượng trong xuất khẩu, gìn giữ giá trị của
thương hiệu Việt mà còn giúp chúng ta cơ hội nhìn lại việc tăng cường quản
lý đối với cả mặt hàng đang được tiêu thụ trong nước. Những biện pháp cứng
rắn và cương quyết nhằm đám bảo sức khỏe của nhân dân trước hiểm họa độc tố
tràn lan đang là một yêu cầu bức xúc. Con số người chết vì ung thư vì lương
thực, thực phẩm đã lên đến 35% trong số 150.000 người/năm theo thông báo của
Bộ Y tế, tức gấp 3 - 4 lần số người chết vì tai nạn giao thông
.
Sống
giữa rừng độc tố điều gì sẽ đến với con em chúng ta?
Ô nhiễm
độc tố trong thực phẩm
Thông báo mới nhất
trong tháng 5/2007 của Cơ quan quản lý Thuốc và thực phẩm Hoa kỳ (FDA, Food
and Drug Administration) cho biết hơn 30 mặt hàng thực phẩm (mì ăn liền, hồ
tiêu, bánh, rau quả muối, hạt điều, bún gạo…) thủy hải sản đông lạnh (tôm,
cá mực, cua…) có xuất xứ từ Việt Nam không đạt tiêu chuẩn về bao bì, đóng
gói và dư lượng kháng sinh, độc tố, vi khuẩn Salmonella gây bệnh tiêu chảy,
thương hàn bị nghiêm cấm trong thực phẩm. Số hàng nầy của hơn 28 cơ sở trong
nước được FDA công bố để cảnh cáo và cấm đưa vào tiêu thụ trên toàn lãnh thổ
Hoa kỳ. Chúng ta thường nghe thấy chính phủ Nhật bản đã nhiều lần phát hiện
dư lượng kháng sinh Chloramphenicol trong nhiều lô hàng thủy sản của Việt
nam và buộc phải thiêu hủy đồng thời đe dọa sẽ tiếp tục kiểm soát gắt gao
hàng của một số xí nghiệp chế biến trong nước đã vi phạm. Công bố của phía
Mỹ là bước mở đầu cho thấy thế giới sẽ theo dõi nghiêm nhặt việc quản lý
chất lượng và hạn chế hàng không đạt tiêu chuẩn vào lãnh thổ của họ nhằm bảo
vệ người tiêu dùng, đe dọa đến thị trường hàng thủy sản và thực phẩm của
Việt Nam trong khi khối lượng thủy hải sản xuất khẩu của nước ta ngày càng
phát triển, đạt hơn mức 3,5 tỷ đô la/nămĐây là một thực tế cho thấy các công
ty khai thác cũng như nuôi trồng thủy hải sản, chế biến lương thực ở trong
nước xem thường việc quản lý chất lượng, đồng thời thiếu sự giám sát chặt
chẽ của các cơ quan có chức năng kiểm dịch và chất lượng trước khi hàng được
đưa ra thị trường hoặc xuất khẩu.
Lan
tràn trên thị trường trong nước
Trong tháng triển
khai chiến dịch an toàn thực phẩm vừa qua, các đội kiểm tra vệ sinh thực
phẩm đã phát hiện không ít cửa hàng bán phở ngay tại thủ đô Hà nội, có trên
60% bánh phở chứa formol, hàn the (borax) hay thịt tươi sống có tẩm các loại
phụ gia, hóa chất chống thối, giữ cho thịt có màu đỏ tươi…các loại thịt gia
cầm, gia súc (bò, lợn…) chưa qua kiểm dịch trong khi bệnh cúm gà và lỡ mồm
long móng vẫn còn tiếp diễn. Đó là chưa kể đến các loại phẩm màu, chất bảo
quản độc hại trong các sản phẩm lương thực ăn sẵn, chế biến…không rõ nguồn
gốc và công thức đang được bán lan tràn tại chợ, thịt lợn nuôi bằng hormone
tăng trọng nguy hiểm. Hiện tượng chất Sudan gây ung thư trong tương ớt nhập,
kem đánh răng có chất Diethylene Glycol (thay thế Glycerine) làm hư thận,
gây suy hô hấp hay thuốc chống sốt rét giả có xuất xứ Trung quốc là một vài
thí dụ điển hình cho thấy nước ta và nhiều nước nghèo trên thế giới là nơi
tiêu thụ vô tội vạ những sản phẩm rẻ tiền, gây bệnh, ngoài vòng kiểm soát
của cơ quan chức năng. Người dân ngày càng hoang mang, nghi ngờ khi nguồn
lương thực thủy hải sản, thực phẩm chế biến cũng như thuốc trị bệnh có chứa
hóa chất “dỏm”, độc tố ngày càng nhiều, không thấy những cơ quan quản lý vệ
sinh an toàn thực phẩm đưa ra những tiêu chuẩn cũng như danh sách, hạng mục
và công bố những nhà sản xuất vi phạm rõ ràng và cập nhật để người dân được
biết. Hơn thế nữa biện pháp chế tài (phạt hành chính lẫn thu hồi) không đủ
để răn đe việc vi phạm, chỉ theo sau sự việc đã rồi, không thể nào kiểm soát
nổi. Ngày 23/5/2007 Chánh thanh tra Sở Y tế TpHCM công bố 20 trong 30 cơ sở
(được kiểm nghiệm) chế biến nước tương vi phạm tiêu chuẩn 3-MCPD cho phép từ
2 lần đến 2.215 lần (Hai nghìn hai trăm mười lăm lần—tôi nhấn mạnh) và có
sản phẩm lên tới 4.000 - 55.000 lần hơn !. Thực tế , số cơ sở chế biến nước
tương trong thành phố là bao nhiêu, thanh tra của Sở cũng không nắm được,
“chỉ biết là dưới 70” và tất cả có bao nhiêu sản phẩm nước tương đang lưu
hành trên thị trường? Nói khác đi 2/3 vi phạm chỉ là con số biểu kiến, sự
thật còn có thể cao hơn nhiều, khắp nơi ngoài phạm vi thành phố vì vậy “việc
thu hồi nước tương có 3-MCPD không đơn giản…sau 2-3 tuần có kết quả (kiểm
nghiệm) thì…lô đó đã được bán hết hoặc đưa đi khắp nơi tiêu thụ rồi”. Rút
cuộc tình trạng “rượt đuổi” nầy không biết đến bao giờ mới kết thúc cũng như
thuốc chữa bệnh giả, dỏm không đạt chất lượng chỉ có thể biết được sau khi
hàng đã được phát tán khắp nơi. Theo thông báo thì Sở Y tế TPHCM đã phạt
hành chính tổng cộng 110 triệu đồng với 20 cơ sở vi phạm . Số tiền nầy liệu
có đủ sức “răn đe” không hay cũng chỉ “giơ cao đánh khẽ” trong khi đó, công
ty Vitecfood-- nơi sản xuất nước tương Chin-su-- treo giải thưởng 1 tỷ đồng
cho người phát hiện nước tương của hãng nầy không đạt chuẩn như một thách
thức dư luận và cơ quan quản lý nhà nước. (Nhà sản xuất nước tương hiệu
Chin-su cũng là một trong 20 đơn vị vi phạm lần nầy). Thông tin mới nhất cho
biết trong nhiều năm liền Viện Vệ sinh Y tế Công Cộng đã phát hiện nhiều
loại nước tương vựơt mức cho phép đến 11.000 đến 18.000 lần, tỷ lệ vi phạm
nồng độ 3-MCPD lên đến 80% mẫu xét nghiệm nhưng tất cả đều bị “ém nhẹm” chìm
trong bóng tối suốt 6 năm qua và các đơn vị chủ quản bỏ mặc “không làm
thương tổn doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không vi phạm”… Lãnh đạo của Sở Y
tế TPHCM tâm sự “thời gian qua mỗi khi phát hiện cơ sở nào vi phạm, sở đều
có xử phạt… tuy nhiên luật có những bất cập mà nhiều khi ngành y tế không
thể làm khác được”!
Đã qua
rồi thời kỳ phân biệt nội, ngoại
Trong thời kỳ nước ta đã gia nhập WTO, thị trường trong và ngoài nước đều
cạnh tranh ngang nhau thì thử hỏi 50 mặt hàng thực phẩm và thủy hải sản của
Việt Nam mà FDA Hoa kỳ cấm nhập vào nội địa nước Mỹ nêu trên không hề được
tiêu thụ trong nước (Việt Nam)? hay vẫn có nhưng nhà nước và người tiêu dùng
không hề biết là chứa độc tố, vi khuẩn gây bệnh . Vấn đề này cần phải được
giải quyết tận gốc để hàng tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu được đảm
bảo cùng một chất lượng, thật khó hiểu khi hàm lượng đôc tố 3-MCPD chất gây
ung thư trong nước tương được bộ Y tế cho phép ( dưới 1mg/l) lại cao 50 lần
hơn tiêu chuẩn của Châu âu (dưới 0.02 mg/l), không lẽ cơ địa người Việt lại
có tính miễn nhiễm gấp 50 lần hơn người dân Châu âu?. Đã qua rồi thời kỳ
hàng xuất khẩu và hàng nội địa có sự chênh lệch về chất lượng và giá cả như
hai mươi năm trước. Liệu tôm,cá mực… mà người dân trong nước tiêu thụ mỗi
ngày có ai kiểm tra chưa hay “bình chân như vại”, chỉ có Mỹ , Nhật là “làm
khó” ta thôi ?! Đối với những nhà sản xuất vi phạm, các nước nầy chắn chắc
sẽ cấm chỉ việc giao dịch và nhập khẩu thì tại sao các cơ quan chủ quản của
nứớc ta không thể có biện pháp “tạm “rút giấy phép kinh doanh, buộc cơ sở
sản xuất phải đóng cửa một thời gian để cảnh cáo và chấn chỉnh khi vi phạm
vượt mức về phẩm chất và sản lượng theo một qui định cụ thể, thậm chí truy
cứu trách nhiệm hình sự của người đứng đầu cơ sở sản xuất .Thật đau lòng khi
nghe Ông Nguyễn đức An, Chánh thanh tra Sở Y tế TPHCM tiết lộ “ chúng ta
chưa có một phòng kiểm nghiệm thực phẩm đạt chuẩn và có tính pháp lý cao
nhất để kết luận và công nhận kết quả kiểm nghiệm nào chính xác” . Điều nầy
cũng tương tự như sự kiện Vaccine ngừa viêm gan siêu vi B cho trẻ sơ sinh,
khi có 4 trẻ bị tử vong người ta mới biết lô thuốc nầy của LG (Hàn quốc)
chưa được kiểm nghiệm, vì (vào thời điểm nhập khẩu) chúng ta cũng chưa có
qui định, “chỉ thử bằng cách tiêm vào chuột” đơn giản và 5 năm mới xét
nghiệm một lần về tiêu chuẩn hóa lí. Thực tế đau lòng nầy cũng gợi mở cho
những nhà khoa học Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước cùng hợp tác xây
dựng cơ sở nghiên cứu và kiểm tra chất lượng theo tiêu chuẩn được các tổ
chức quốc tế công nhận kết quả và phù hợp với qui định của nhà nước Việt nam
đáp ứng nhu cầu về kiểm phẩm của cơ sở sản xuất ngày càng phát triển như
hiện nay.
Sức
khỏe của người dân đang bị “đùa giỡn” hay phó mặc cho những tay “đồ tể”,
giết người để mưu cầu lợi nhuận bằng những sản phẩm độc hại, gieo rắc cái
chết không báo trước mà sự kiện “Nước tương” là một trường hợp điển hình.
Những độc tố nầy không những gây bệnh hiểm nghèo dẫn đến tử vong cho những
người đang sống mà còn có khả năng tác hại lên thế hệ con cháu qua di
truyền, tỷ lệ trẻ sơ sinh biến dạng, tật nguyền sẽ tiếp tục tăng cao trong
lúc chất độc Dioxin trong thuốc diệt cỏ màu da cam của quân đội Mỹ gieo rắc
trong chiến tranh vẫn là nỗi lo sợ ám ảnh và khoa học ngày nay chưa có biện
pháp ngăn ngừa mỗi khi đã nhiễm vào cơ thể con người.
Đã đến lúc không thể thơ ơ được
nữa, sự lên tiếng cảnh báo vẫn chưa đủ mà chúng ta đòi hỏi cơ quan chức năng
phải có biện pháp ngăn chận kịp thời và quyết liệt hơn bằng một đạo luật bảo
vệ sự sống của người dân trước hiểm họa “ô nhiễm” nghiêm trọng của thuốc trị
bệnh giả, dỏm và thực phẩm độc hại trọng trong đó vấn đề vệ sinh, an toàn
thực phẩm tươi sống cũng như sản phẩm chế biến được xem là ưu tiên hàng đầu
vì nó ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên lên cơ thể và sức khỏe con người.
http://niemtin.free.fr/onhiemthucpham.htm
Không ít hộ nuôi hám lợi đã sử
dụng chất tăng tỷ lệ nạc cho thịt heo để kiếm lời
(Thương
lái vỗ béo heo bằng thức ăn có chất cấm)
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/hang-hoa/thuong-lai-vo-beo-heo-bang-thuc-an-co-chat-cam-3272482.html
Loạt
bài này tác giả đã đăng trên nhiều báo trong nước và hiện nay vẫn còn là
một vấn đề thời sự nóng bỏng
©
http://vietsciences.free.fr
Hồng Lê Thọ
|
|