Lại một vụ ngụy tạo dữ liệu khoa học và một “ngôi sao” Hàn Quốc rơi rụng

Vietsciences-Nguyễn Văn Tuấn           26/03/2008

 

Những bài cùng tác giả

Đạo văn trong hoạt động khoa học

Tôi muốn trở thành một Hwang Woo-Suk thứ hai của Hàn Quốc”.  Đó là tuyên bố của giáo sư Kim Tae Kook trước báo chí và công chúng sau khi ông công bố một công trình nghiên cứu quan trọng vào năm 2006.  Giáo sư Hwang Woo-Suk, như chúng ta biết, là người ngụy tạo dữ liệu trong công trình nghiên cứu tế bào mầm vào năm 2005 và sau đó bị cách chức.  Ước nguyện của Kim Tae Kook nay đã thành sự thật, vì tuần vừa qua ông bị phát giác là đã ngụy tạo dữ liệu và phân tích dữ liệu trong hai công trình công bố trên tập san Science vào năm 2005 và Nature Chemical Biology vào năm 2006.  Chỉ trong vòng 2 năm, khoa học Hàn Quốc kinh qua hai cú sốc làm tổn hại đến danh dự của giới khoa học nước này.

Hwang Woo-Suk

Kim Tae Kook

Một Hwang Woo-Suk thứ hai

Kim Tae Kook là giáo sư y sinh học tại Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến (Korea Advanced Institute of Science and Technology hay KAIST), một trung tâm nghiên cứu khoa học số 1 của Hàn Quốc.  Sự nghiệp khoa học của Kim Tae Kook có thể nói là quá “hanh thông”: tốt nghiệp cử nhân (năm 1987) và thạc sĩ (năm 1989) từ Đại học Quốc gia Seoul, tiến sĩ (1994) từ Đại học Rockefeller (Mĩ) dưới sự hướng dẫn của giáo sư Robert Roeder.  Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ, Kim Tae Kook làm nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ tại Cold Spring Harbor Laboratory và Đại học Harvard từ 1994 đến 1997.  Trở về Hàn Quốc, chỉ vài năm sau ông được thăng chức giáo sư trong độ tuổi 40 dù với một thành tích khoa học tương đối “mỏng”. 

Ông là trưởng nhóm nghiên cứu với một sứ mệnh đầy tham vọng: tìm cách kéo dài tuổi thọ cho con người.  Trong một công trình công bố trên Science, một tập san khoa học hàng đầu trên thế giới, ông và đồng nghiệp mô tả một phương pháp có thể tiêu diệt các tế bào ung thư, các “tế bào xấu”, mà không làm tổn hại đến các “tế bào tốt”.  Công trình nghiên cứu này được các chuyên gia phản biện của Science đánh giá rất cao, và xem là một sự đột phá trong chuyên ngành.  Một năm sau, Kim Tae Kook công bố một công trình khác trên tập san Nature Chemical Biology (kém danh giá hơn Science) mà trong đó ông phát hiện rằng một “đồng hồ sinh học” trong tế bào có thể chịu sự chi phối của một số protein, và các protein này có thể nhận dạng qua phương pháp ông mô tả trong bài báo trên Science.  Với hai công trình nghiên cứu trên, ông được đánh giá là một ngôi sao khoa học đang lên của Hàn Quốc, một người có thể đem lại giải thưởng Nobel cho Hàn Quốc.  

Lợi dụng thời thế, Kim Tae Kook đề nghị thành lập công ti để chuyển giao công nghệ mà ông tin rằng sẽ rất hứa hẹn trong tương lai.  Công ti do một thành viên của khoa sinh học thuộc KAIST là Yeonsoo Seo làm giám đốc.  Nhưng sau nhiều lần thử nghiệm, các thành viên của công ti không cách nào lặp lại những kết quả của Kim.  Khi Yeonsoo Seo gặp Kim Tae Kook để xem xét lại hồ sơ thí nghiệm lúc trước để đảm bảo họ làm đúng qui trình, Kim Tae Kook không chịu (và không thể) cung cấp số liệu gốc.  Vài ngày sau, Kim Tae Kook rời Hàn Quốc đi Mĩ mà không báo cho đồng nghiệp biết.  Ngày 12/2/2008 công ti quyết định báo cáo vấn đề cho khoa trưởng khoa sinh học của KAIST.

Thêm nữa, một trong những tác giả của hai bài báo và cũng là nghiên cứu sinh của Kim Tae Kook bắt đầu nghi ngờ kết quả công bố.  Nghiên cứu sinh này không thể lặp lại kết quả mô tả trong hai bài báo bằng phương pháp mà Kim Tae Kook mô tả.  Nghiên cứu sinh quyết định báo cáo cho trưởng khoa sinh học giáo sư Lee Gyun Min biết vấn đề.

Khi có hai báo cáo, khoa trưởng giáo sư Lee Gyun Min lập tức cho mở một cuộc điều tra nội bộ.  Kết quả điều tra cho thấy giáo sư Kim Tae Kook đã ngụy tạo dữ liệu và cố tình phân tích dữ liệu sai để có kết quả theo ý của mình!  Hội đồng điều tra, trong đó có cả giám đốc Yeonsoo Seo, kết luận rằng cả hai công trình nghiên cứu mà Kim Tae Kook công bố không hàm chứa bất cứ một sự thật khoa học nào!  (Nguyên văn: "our initial investigative results are strong enough to convince us that the two papers do not contain any scientific truth.")

            Sự nghiệp khoa học của giáo sư Kim Tae Kook có thể xem như kết thúc.  Ông trở thành một Hwang Woo-Suk thứ hai của Hàn Quốc.  Thế giới khoa học lại có thêm một trường hợp gian lận đầy tai tiếng.  Tập san Science danh tiếng lại một lần nữa phải rút lại bài báo gian dối cũng từ một tác giả Hàn Quốc. 

Hệ quả của áp lực và cạnh tranh

            Mỗi khi một trường hợp gian lận trong khoa học xảy ra, giới khoa học thường đặt câu hỏi “tại sao”, nhất là trong trường hợp Kim Tae Kook khi mà câu chuyện Hwang Woo-Suk vẫn là một vấn đề thời sự.  Có người lí giải rằng vấn đề phát sinh từ những áp lực quá lớn đến nhà khoa học phải có kết quả.  Áp lực đó đến từ phía chính phủ và từ viện nghiên cứu mà ông làm việc.

Hàn Quốc không hài lòng với một nền kinh tế lớn vào hàng thứ 11 trên thế giới, mà còn muốn trở thành một cường quốc về khoa học và công nghệ.  Do đó, chính phủ Hàn Quốc đã đầu tư đến 2,6% GDP vào khoa học và giáo dục đại học (một ngân sách gấp hai các nước Âu châu) để thu dụng những tài năng sáng giá nhất nhằm đưa khoa học và công nghệ Hàn Quốc lên sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới.  Trong chiều hướng đó, nhà đầu tư (tức chính phủ) đòi hỏi phải có “sản phẩm” xứng đáng với đồng tiền họ bỏ ra, và điều này có nghĩa là nhà khoa học chịu một áp lực rất lớn để làm cho ra sản phẩm.  Nhưng khoa học không thể là một ngành nghề hoạt động theo kiểu “đi tắt đón đầu”, mà phải dần dần được xây dựng từ những nền tảng vững chắc, một nền tảng mà phải nói thật là Hàn Quốc chưa vững, ít ra là về mặt công nghệ y sinh học. 

Bản thân giáo sư Kim Tae Kook dù mang hàm giáo sư nhưng thành tích khoa học qua công bố quốc tế vẫn còn khá khiêm tốn.  Trong thời gian làm nghiên cứu sinh tiến sĩ và hậu tiến sĩ ông công bố được 7 bài báo khoa học, và khi về Hàn Quốc cũng chỉ công bố được khoảng 10 công trình.  (Cần nói thêm rằng ở các đại học hàng đầu phương Tây, với một thành tích như thế chỉ tương đương với giảng viên, chứ chưa thể là giáo sư được).   Tuy nhiên, ông có hai công trình được công bố trên các tập san hàng đầu như ScienceNature, và đó cũng chính là “hành trang” khoa học đáng trân trọng.  Nhưng rất tiếc bài báo trên Science là một công trình giả tạo.  Cũng như trường hợp của Hwang Woo-Suk, người ta đang đặt dấu hỏi (và đang điều tra) về tính trung thực của các công trình còn lại của Kim Tae Kook.

Giáo sư Kim Tae Kook làm việc tại KAIST, một trung tâm khoa học và công nghệ số 1 và một niềm tự hào của Hàn Quốc.  Nhưng trên trường quốc tế trung tâm này (được xem như là một đại học) hiện mới đứng hàng 132 trong bảng xếp hạng của Times Higher Education Supplement.  Không hài lòng ở vị thế đó, ban giám đốc muốn đưa trung tâm lên một tầm cao hơn trong tương lai.  Một trong những biện pháp để thực hiện giấc mơ đó là phải làm những nghiên cứu khoa học có chất lượng cao, những nghiên cứu thời thượng hay mũi nhọn.  Do đó, không ngạc nhiên khi có cựu giáo sư từ KAIST mô tả rằng áp lực đè nặng lên các nhà khoa học tại KAIST là “ngột ngạt”.  Những giáo sư không làm ra công trình nghiên cứu được “mời” nghỉ việc, y chang như hệ thống của các trung tâm nghiên cứu hàng đầu ở phương Tây. 

Trong môi trường kì vọng của chính phủ, áp lực từ trnng tâm nghiên cứu, và khả năng có hạn của nhà khoa học, có người phải gồng mình hay liều mình cho ra những sản phẩm tri thức dỏm.  Nhưng bản chất của khoa học là tính minh bạch và khả năng lặp lại của kết quả nghiên cứu, và vì thế, những công trình nghiên cứu dỏm, không sớm thì muộn, chắc chắc sẽ bị lật tẩy.  Trong trường hợp của Kim Tae Kook, người phát hiện sự gian lận của ông không ai khác hơn là đồng nghiệp của ông, thậm chí chính nghiên cứu sinh của ông. 

            Chính vì thế mà xu hướng chung trong nghiên cứu khoa học vài thập niên gần đây là hợp tác liên ngành.  Hợp tác liên ngành chẳng những là một cách để tìm ý tưởng mới, mà còn là một biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa hay phát hiện kịp thời những gian lận.  Ngày xưa, nghiên cứu khoa học thường được tiến hành trong môi trường thiếu dân chủ, mà theo đó người sếp (hay giáo sư) hưởng tất cả thành tích trong khi cộng sự viên hay nghiên cứu sinh chỉ là những cái bóng hay thậm chí “nô lệ khoa học”, và trong môi trường như thế giáo sư có toàn quyền giả tạo số liệu mà nghiên cứu sinh không dám nói gì.  Nhưng ngày nay, đó là mô hình khoa học của quá khứ; tất cả công sự viên tham gia công trình nghiên cứu phải được ghi nhận công trạng xứng đáng.  Chính vì tính dân chủ này mà chúng ta biết rằng người thật sáng tạo ra con cừu Dolly không phải là giáo sư Ian Wilmut như thế giới biết, mà là một nhà khoa học trầm lặng, giáo sư Keith Campbell, và cộng sự của ông.  Đứng trước tòa, Ian Wilmut khai thật là ông không phải là tác giả của công trình con cừu Dolly (nguyên văn: "I did not create Dolly"), nhưng vì là người đứng đầu một nhóm nghiên cứu nên ông dành công trạng về phần mình trước báo chí! 

Vấn đề đạo đức khoa học

Trong khi công chúng Hàn Quốc phẫn nộ về sự việc, giới làm khoa học chắc sẽ không ngạc nhiên chút nào, bởi vì những trường hợp như thế này đã, đang, và sẽ còn xảy ra.  Thật vậy, chỉ mới tuần qua (ngày 6/3/2008), một nhà khoa học từng chiếm giải Nobel (Linda Buck) phải đành rút lại một bài báo công bố trên tập san Nature vào năm 2001, sau khi nhóm nghiên cứu của bà không cách nào lặp lại kết quả trong bài báo.  Bài báo này đã được trích dẫn 138 lần kể từ khi công bố! Người chịu trách nhiệm chính trong công trình nghiên cứu này là Zhihua Zou (gốc Trung Quốc) thì nhất định vẫn không chịu nhận rằng đã ngụy tạo số liệu.  Tuy nhiên, hội đồng điều tra cũng đang xem xét lại những bài báo của Zou.

            Hoạt động khoa học ngày nay là một lĩnh vực khá phức tạp với nhiều cạnh tranh và sức ép lớn từ nhiều phía.  Khác với các lĩnh vực chuyên môn khác chịu dưới sự quản lí nghiêm ngặt của Nhà nước, cho đến nay hoạt động khoa học vẫn được tự do theo chiều hướng tự do tri thức và tự quản trị.  Mô hình tự quản trị này đã được duy trì từ hai thế kỉ qua, và trong tương lai chắc sẽ khó có một thay đổi nào lớn.

Theo mô hình này, các sản phẩm tri thức từ nghiên cứu khoa học phải được công bố trên các tập san chuyên ngành, và trước khi công bố đều phải trải qua một quá trình bình duyệt và phản biện bởi các chuyên gia trong ngành.  Khi phản biện một công trình khoa học, các chuyên gia không tiếp cận được dữ liệu gốc của tác giả mà chỉ dựa vào các dữ liệu trình bày trong bài báo (thường là phân tích thống kê).  Điều này có nghĩa là các nhà khoa học đặt sự tin tưởng lẫn nhau rất lớn; họ phải tin rằng những dữ liệu được trình bày trong bài báo là sự thật, được thu thập bằng những phương pháp như mô tả trong bài báo.  

            Do đó, đạo đức khoa học (scientific ethics) đóng một vai trò cực kì quan trọng trong nghiên cứu khoa học.  Các qui ước về đạo đức khoa học bao gồm thành thật tri thức (intellectual honesty), cởi mở và công khai, ghi nhận đóng góp của đồng nghiệp một cách thích hợp, và có trách nhiệm trước công chúng và xã hội.  Các qui ước này được triển khai thành các điều lệ cụ thể về cách hành xử cho các tình huống khác nhau.  Trong hoạt động khoa học, hai chữ “hành xử” ở đây bao gồm các lĩnh vực chuyên biệt như thí nghiệm, xét nghiệm, giảng dạy và huấn luyện, phân tích dữ liệu, quản lí dữ liệu, chia sẻ dữ liệu, xuất bản ấn phẩm, trình bày công trình nghiên cứu trước công chúng, và quản lí tài chính.

Nhưng đạo đức khoa học không phải là luật pháp mà chỉ là qui ước hay điều lệ được các thành viên trong ngành nghề chuyên môn chấp nhận như là những kim chỉ nam cho việc hành nghề.  Chính vì thế mà ở những nước mới phát triển khoa học (những nơi mà văn hóa khoa học chưa hình thành hoàn chỉnh), người ta không xem trọng đạo đức khoa học.  Ở một số nước Á châu đã có quá nhiều trường hợp thí nghiệm y khoa trên bệnh nhân mà bệnh nhân không hề hay biết (tức vi phạm y đức nghiêm trọng), một số thì nói không thật trong các bài báo, và một số khác thì ngụy tạo dữ liệu như trường hợp Kim Tae Kook và Hwang Woo-Suk.

Cũng như các lĩnh vực khác, trong hoạt động khoa học cũng có nhiều nhà khoa học rất “trần ai”, cũng bịp bợm, lưu manh, và phạm tội lường gạt.  Họ làm nghiên cứu giả dối, che dấu sự thật, xuyên tạc dữ kiện, đạo văn, ăn cắp ý tưởng của người khác, bịa đặt số liệu, cố tình vặn vẹo số liệu theo ý muốn mình, v.v… Trong một nghiên cứu trên 4.000 sinh viên bậc tiến sĩ trong 99 trường đại học ở Mĩ, Giáo sư Judith P. Swazey cho biết có đến 44% sinh viên và 50% giáo sư đại học từng biết ít nhất một hành vi vi phạm đạo đức nghiên cứu khoa học.  Phần lớn những vi phạm này xảy ra trong các bộ môn khoa học thực nghiệm như sinh học, vật lí, hóa học, v.v…  Nhưng vi phạm nhiều nhất vẫn là trong nghiên cứu y khoa.

Nhưng cái thế mạnh của khoa học là một hệ thống mở (open system) và dân chủ, hiểu theo nghĩa một khi công trình nghiên cứu đã được công bố thì bất cứ ai trên thế giới cũng đều có quyền soi mói và phản biện.  Chính vì thế mà một nhà khoa học có thể lừa gạt nhiều người trong một lần, hay lừa gạt một người trong nhiều lần, nhưng không thể nào lường gạt nhiều người trong nhiều lần. 

Kinh nghiệm về các vụ gian lận khoa học trên thế giới cho thấy người có khả năng phát hiện các trường hợp gian lận không ai khác hơn chính là đồng nghiệp của nhà khoa học.  Ghi nhận điều này, các trung tâm nghiên cứu và đại học thường có những cơ chế thông thoáng để bảo vệ an toàn cho các nhà khoa học dám công khai tố cáo các trường hợp gian lận khoa học.  

Nhìn người lại nghĩ đến ta

Gian lận khoa học và ngụy tạo có xảy ra ở nước ta không?  Tuy chưa có một cuộc điều tra nào được tiến hành, nhưng câu trả lời chắc chắn là có.  Những trường hợp đạo văn trong các bài báo khoa học, đạo công trình nghiên cứu, lấn áp nghiên cứu sinh hay cộng sự viên cấp thấp, cướp công, sửa số liệu, v.v… từng được nêu trên báo chí, nhưng việc xét xử vẫn chưa rõ ràng.  Thật ra, nước ta thiếu một cơ chế để đương đầu với những vi phạm đạo đức khoa học, và do đó những trường hợp lem nhem trong khoa học thường không được giải quyết nghiêm chỉnh và nghiêm minh. Có lẽ đã đến lúc Nhà nước cần phải thiết lập một ủy ban hay cơ quan tương tự như Office of Research Integrity (Mĩ) để theo dõi và giải quyết tận gốc những gian lận trong khoa học.

Ngoài ra, cũng cần phải có cơ chế để điều tra tất cả các trường hợp gian lận sao cho công bằng cho phía bị tố cáo và phía tố cáo.  Nhưng quan trọng hơn hết, các cơ quan nghiên cứu cần phải tạo ra một không gian và môi trường mà trong đó sự liêm chính được ghi nhận và các hành động vô nguyên tắc phải bị trừng trị.

Nghiên cứu khoa học là một hoạt động tốn kém. Nhà nước có trách nhiệm phải đảm bảo tiền bạc và tài nguyên của người dân đầu tư cho nghiên cứu khoa học được sử dụng một cách thích hợp và xứng đáng. Khoa học xây dựng và tồn tại dựa trên tinh thần chân thực và liêm chính. Vì thế, khoa học không thể nào dung túng tình trạng thiếu chân thực và vô liêm chính. Đảm bảo sự liêm chính và trung thực trong nghiên cứu là một bước quan trọng để nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và nâng cao uy tín khoa học của nước nhà

 

Vài trường hợp gian lận khoa học tiêu biểu

John Darsee – trường hợp cổ điển

Trong những trường hợp gây nhiều tai tiếng trong dư luận công chúng có lẽ là trường hợp của bác sĩ John Darsee vào thập niên 1980s khi ông, lúc đó là một giáo sư trẻ thuộc Đại học Emory (Atlanta, bang Georgia, Mĩ), công bố một loạt 10 bài báo mà ông đứng tên tác giả đầu. Với thành tích ấn tượng đó, Darsee được thăng tiến nhanh chóng trong sự nghiệp khoa bảng, trở thành một nhà khoa học được nhiều đồng nghiệp kính trọng. Nhưng tất cả những bài báo đó là hoàn toàn giả tạo. Nói cách khác, ông đã tạo sự nghiệp dựa vào việc ngụy tạo nghiên cứu trong suốt 10 năm liền!

Jon Sudbo và ảo vọng điều trị ung thư

Năm 2005, Tập san Lancet (một tập san y học đứng vào hàng nhất nhì trên thế giới) công bố một công trình nghiên cứu của bác sĩ Jon Sudbo, chuyên gia về ung thư thuộc Bệnh viện Radium và Đại học Oslo (Na Uy). Trong bài báo, bác sĩ Sudbo và 13 cộng sự viên báo cáo rằng họ đã tiến hành một nghiên cứu đối chứng (case-control study) với 908 đối tượng, và kết quả cho thấy thuốc chống viêm NSAIDs (non-steroidal anti-inflammatory drugs) có hiệu quả làm giảm nguy cơ ung thư miệng. Phát hiện của bác sĩ Sudbo gây sự chú ý lớn của các chuyên gia trong lĩnh vực ung thư bởi vì các loại thuốc NSAID được sử dụng rất rộng rãi để giảm đau, nhất là đau thấp khớp, và tương đối rẻ, và nếu quả thật thuốc có hiệu quả chống ung thư thì đó là một tin vui cho bệnh nhân: một thuốc mà đạt hai mục tiêu. Sau khi công bố bài báo, Sudbo trở thành nổi tiếng trong giới chuyên môn về "phát hiện" mà ít ai nghĩ đến đó.

Nhưng nghiên cứu của Sudbo hoàn toàn giả tạo. Bác sĩ Sudbo giả tạo tất cả các số liệu và bệnh nhân. Khi điều tra lại các số liệu gốc (tức cũng giả tạo), người ta mới phát hiện trong số 908 đối tượng ma này, có đến 250 người có cùng ngày tháng năm sinh! Tuy nhiên, điều đáng chú ý là trong phân tích, Sudbo đã giả tạo rất tài tình, không để lộ một kẽ hở nào trong số liệu để người bình duyệt có thể đánh dấu hỏi. Tổng biên tập tập san Lancet, Richard Horton, phải thú nhận là Sudbo quá thông minh và tinh xảo đến độ ông có thể qua mặt tất cả 13 cộng sự viên là tác giả của bài báo, lường gạt tất cả các chuyên gia trong ngành đã bình duyệt bài báo, lường gạt luôn cả một chuyên gia thống kê học cũng là người bình duyệt bài báo! Hành động ngụy khoa học của bác sĩ Sudbo chỉ được phát hiện khi một nhà dịch tễ học người Na Uy chú ý đến đoạn văn mà Sudbo cho biết nguồn bệnh nhân mà ông nghiên cứu là trích từ một ngân hàng dữ liệu (database) về ung thư thuộc bệnh viện Radium, bởi vì trong thực tế ngân hàng dữ liệu này không hiện hữu!

Eric Poehlmangiả tạo số liệu

Poehlman là cựu giáo sư y khoa, một chuyên gia về bệnh béo phì của Trường đại học Vermont (Mĩ). Trước khi bị phát hiện giả tạo số liệu và đi tù, Poehlman là một trong những “ngôi sao” sáng chói trong lĩnh vực nghiên cứu bệnh béo phì, với hơn 200 bài báo khoa học trên các tập san y khoa quốc tế, và được các đồng nghiệp cũng như các công ti dược mời thuyết giảng. Nhưng 10 bài báo khoa học và bài giảng trong các hội nghị suốt từ 1992 đến 2002 lại là những tác phẩm khoa học dựa vào số liệu do ông ngụy tạo để phù hợp với lí thuyết của mình.

Năm 1995, Poehlman trình bày dữ liệu mà ông báo cáo là thu thập từ một nghiên cứu đánh giá các đặc điểm về chuyển hóa năng lượng ở phụ nữ trong thời gian trước và sau mãn kinh. Các dữ liệu này được công bố trong một bài báo khoa học có tên là “Changes in Energy Balance and Body Composition at Menopause: A Controlled Longitudinal Study,” trên tập san Annals of Internal Medicine (một tập san y khoa hàng đầu trên thế giới). Trong bài báo Poehlman báo cáo rằng ông đã theo dõi sự chuyển hóa năng lượng trên 35 phụ nữ trong suốt 6 năm liền. Nhưng trong thực tế, Poehlman chỉ theo dõi một bệnh nhân duy nhất, phần còn lại là ông giả tạo số liệu.  Ngoài ra, Poehlman còn giả tạo nhiều số liệu trong hơn 10 bài báo khoa học khác. Chẳng những thế, Poehlman còn ngụy tạo số liệu mà ông cho là “nghiên cứu sơ bộ” để thu hút tài trợ đến gần 3 triệu USD từ NIH (cơ quan tài trợ cho phần lớn nghiên cứu y khoa ở Mĩ). Sau nhiều năm điều tra, Trường đại học quyết định sa thải Poehlman và Nha liêm chính trong nghiên cứu (ORI) truy tố ông ra tòa. Ngày 28/6/2006, Poehlman bị tòa xử phạt một năm tù và phải hoàn trả cho Nhà nước 542.000 USD. Đây là trường hợp nghiêm trọng nhất và lần đầu tiên trong lịch sử khoa học Mĩ một giáo sư gian lận trong khoa học phải ngồi tù

Đã đăng trên Vietnam Net

 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Nguyễn Văn Tuấn