Những bài cùng tác giả
Trời cho nắng sao ta chưa phơi!
Một khám phá mới đây về mối liên hệ giữa vitamin D và ung thư, cùng những
hiểu biết về chức năng của sinh tố này trước đây, càng ngày càng khẳng định
vai trò hết sức quan trọng của vitamin D trong việc duy trì sức khỏe. Tuy
nhiên, một thực tế đáng quan ngại hiện nay là có quá nhiều người trong cộng
đồng thiếu vitamin D, và tình trạng này có thể là một trong những yếu tố gây
nên những bệnh tật mãn tính hiện nay.
Kết quả nghiên cứu lâm sàng mới công bố trên một tập san y khoa bên Mĩ cho
thấy phụ nữ được bổ sung vitamin D và calcium giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư
gần 80%. Quan trọng hơn, nồng độ vitamin D trong máu càng cao, nguy cơ mắc
bệnh ung thư càng thấp; và ngược lại, những người có nồng độ vitamin D thấp
thì nguy cơ mắc bệnh ung thư tăng cao. Phát hiện trên đây có ý nghĩa rất lớn
đến việc phòng chống ung thư và bệnh tật ở qui mô cộng đồng, bởi vì bổ sung
vitamin D tương đối rẻ tiền và cũng không gây ra những ảnh hưởng phụ nguy
hiểm.
Vitamin D: không chỉ có ích cho xương
Vitamin D không phải là một “sinh tố” bình thường (như sinh tố A, B, C) mà
thực chất là một loại hormone hay kích thích tố. Vitamin D thường được sản
xuất chủ yếu qua ánh nắng mặt trời. Khi phơi nắng, da chúng ta tiếp xúc với
tia tử ngoại (UVB), một lượng cholecalciferol được sản xinh dưới da. Các tế
bào mỡ tiếp tục vận chuyển cholecalciferol vào hệ thống tuần hoàn, và sẽ
trải qua hai giai đoạn chuyển hóa. Giai đoạn thứ nhất, cholecalciferol trải
qua một qui trình chuyển hóa và sản sinh ra 25-hydroxyvitamin D, thường hay
viết tắt là 25(OH)D3. Trong giai đoạn hai, 25(OH)D3 được vận chuyển đến thận
và chuyển hóa thành 1a25-hydroxyvitamin D (thường viết tắt là 1,25(OH)2D3).
Ảnh hưởng của thiếu vitamin D được ghi nhận vào thế kỉ 16 ở Âu châu. Thời
đó, cuộc cách mạng kĩ nghệ ở vùng bắc Âu thu hút rất nhiều công nhân từ các
vùng phía nam, và người ta ghi nhận rằng con em của những công nhân di cư
này thường có chứng còi xương (xương không cứng được), cơ thể chậm phát
triển. Mãi đến thế kỉ 19, có người lí giải rằng trẻ em bị còi xương là do
thiếu phơi nắng mặt trời. Sau đó, người ta một mặt khuyến khích phơi nắng,
một mặt cho ăn dầu cá tuyết (cold fish, một loại dầu chứa nhiều vitamin D),
và kết quả rất tuyệt vời: chứng còi xương được trị dứt.
Từ đó, vitamin D được biết đến như là một hoạt chất có ảnh hưởng đến sự phát
triển và duy trì xương. Cơ chế chuyển hóa và hoạt động của vitamin D rất
phức tạp, khó có thể mô tả trong một bài viết ngắn. Tuy nhiên, qua nhiều
nghiên cứu khoa học, chúng ta biết rằng vitamin D có chức năng kích thích sự
hấp thu calcium của cơ thể, kích thích quá trình khoáng hóa để hình thành
xương. Bất cứ một hormone nào cũng phải hoạt động qua thụ thể (receptor), và
thụ thể vitamin D có mặt hầu hết trong các tế bào. Do đó, không ngạc nhiên
khi thấy vitamin D ảnh hưởmg đến hàng loạt bệnh.
Thật vậy, ngày nay các nhà khoa học biết rằng thiếu hụt vitamin D không chỉ
làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư, mà còn tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương,
tim mạch, cao huyết áp, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, vẫy nến, viêm
đường ruột, viêm khớp, viêm gan, nhiễm trùng, lao phổi, v.v… Người thiếu
vitamin D thường hay bị đau nhức cơ bắp, hay bị té ngã và dễ bị gãy xương. Ở
những phụ nữ lúc mang thai, thiếu vitamin D làm tăng nguy cơ sinh con với
chấn thương não, thậm chí dị tật.
Nhiều nghiên cứu dịch tễ học cho thấy cư dân sống ở các vùng độ vĩ tuyến cao
thường mắc bệnh cao huyết áp. Khi bệnh nhân được cho phơi nắng thì hàm lượng
vitamin D tăng 180%, và huyết áp giảm khoảng 6 mmHg. Ngoài ra, bệnh nhân
phơi nắng còn có tác dụng giảm LDL và tăng HDL cholesterol.
Một nghiên cứu trên 13.000 người Mĩ tuổi trên 20 cho thấy những người có
nồng độ vitamin D thấp có nguy cơ tử vong tăng 26% so với những người có
nồng độ vitamin D bình thường. Một phân tích tổng hợp kết quả nghiên cứu từ
các nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên cho thấy bổ sung vitamin D với
liều lượng 300-2000 IU/ngày giảm nguy cơ tử vong 7% sau 3 năm theo dõi.
Vitamin D và bệnh truyền nhiễm
Một số nghiên cứu gần đây còn cho thấy vitamin D đóng vai trò quan trọng
trong việc nâng cao hệ thống miễn nhiễm. Bác sĩ John Cannel có một kinh
nghiệm thú vị trong nhà tù ở Los Angeles (Mĩ). Khoảng 10 năm trước, nhà tù
trải qua một trận dịch, rất nhiều tù nhân bị cảm cúm. Tuy nhiên, có hai khu
mà không tù nhân nào bị cảm cả, và khi kiểm tra thì mới biết hai khu này các
tù nhân được cho uống vitamin D 2000 IU/ngày trước đó vài tháng.
Trong một nghiên cứu lâm sàng trên 67 bệnh nhân lao, khi họ được bổ sung
vitamin D với liều lượng 10.000 IU/ngày sau 6 tuần, họ không có bất cứ triệu
chứng đàm trong phổi. Ngược lại, nhóm không uống vitamin D thì có 77% có đàm
trong phổi. Một quan sát tương tự ở London cũng đi đến kết luận rằng bổ sung
vitamin D có khả năng điều trị bệnh lao phổi.
Ở Phần Lan, các bác sĩ đo nồng độ vitamin D ở 800 lính mới nhập ngũ và xem
có tương quan đến nguy cơ cảm cúm hay không. Qua theo dõi ba tháng, họ phát
hiện rằng nhóm có nồng độ vitamin D trên trung bình không ai bị viêm phổi,
nhưng nhóm có nồng độ vitamin D thấp thì bị viêm phổi và cảm cúm tăng theo
tỉ lệ ngịch với vitamin D. Một nghiên cứu khác cho thấy bệnh nhân sử dụng
statin (một loại thuốc giảm cholesterol) có khả năng tăng vitamin D, và đây
có lẽ là lí do tại sao statin còn có khả năng chống viêm mà giới khoa học
mới phát hiện gần đây.
Nguồn vitamin D
Vitamin D thường được xem là “vitamin D trời cho”, bởi vì như đề cập trên,
được sản xuất từ ánh nắng mặt trời. Khoảng 90-95% vitamin D trong cơ thể
chúng ta là do da sản sinh, và chỉ 5-10% là do nguồn thực phẩm. Thực phẩm
chúng ta dùng hàng ngày chứa rất ít vitamin D. Các loại cá giàu chất dầu như
cá hồi, cá tuyết, cá thu, cá trích có lượng vitamin D cao hơn những cá khác.
Nấm phơi khô cũng chứa vitamin D. Những cá và nấm trên đây hàm chứa khoảng
400-500 IU vitamin D tùy vào liều lượng ăn uống (IU là đơn vị quốc tế để
đánh giá liều lượng vitamin D).
Có nhiều nghiên cứu cho thấy vào mùa hè chỉ cần phơi nắng trong vòng vài
phút (10-30 phút) hay đối với người có da trắng chờ đến khi da chuyển màu,
lúc đó cơ thể chúng ta đã sản xuất được trung bình 20.000 IU vitamin D
(nhưng ở một số người mức độ có thể dao động từ 10.000 đến 50,000 IU). Da
chúng ta có khả năng rất tuyệt vời, đó là phòng ngừa ngộ độc vitamin D. Cho
dù chúng ta phơi nắng cả giờ đồng hồ, và mức độ vitamin D sản xuất tăng trên
50.000 IU thì da vẫn có khả năng đào thải số lượng không cần thiết; do đó,
trong lịch sử chưa có ai ngộ độc vitamin D vì phơi nắng.
Tình trạng thiếu vitamin D
Nghiên cứu dịch tễ học cho thấy những người sống ở các vùng với độ vĩ tuyến
cao (như các nước bắc Âu, bắc Mĩ) mắc bệnh ung thư, xơ cứng bì, viêm khớp,
đái tháo đường, tim mạch, tai biến, hay bị nhiễm trùng, v.v… Những vùng này
cũng là những vùng thiếu vitamin D trầm trọng. Mới đây, có nghiên cứu cho
thấy tỉ lệ thiếu vitamin D trong dân số ở các nước bắc Âu và bắc Mĩ lên đến
50-70%. Các giới chức y tế ở đây xem đó là một vấn nạn y tế công cộng, nên
họ có chính sách bổ sung vitamin D trong thực phẩm như bơ sữa, nước cam, và
bánh mì.
Vì vitamin D được sản xuất từ ánh nắng mặt trời, người ta thường lầm tưởng
rằng ở những nước nhiệt đới như nước ta, không có vấn đề thiếu vitamin D. Sự
thật là ngược lại: một tỉ lệ lớn dân số trên thế giới, kể cả các nước nhiệt
đới, thiếu vitamin D. Theo ước tính của các chuyên gia, 40-50% dân số trên
thế giới thiếu vitamin D. Nghiên cứu ở Thái Lan và Mã Lai cho thấy cứ 100
người thì có khoảng 50 người thiếu vitamin D. Riêng ở Nhật và Hàn Quốc, tỉ
lệ thiếu vitamin D lên đến 80-90%!
Và ở Việt Nam
Ở nước ta, chưa có một nghiên cứu nào đánh giá về tình trạng thiếu vitamin D
trong cộng đồng. Ngày nay, nhiều người có lẽ do muốn giữ làn da trắng, nên
người ta thường bao kín mít tay, chân, mặt để … chống nắng. Thói quen này có
thể dẫn đến tình trạng thiếu vitamin D trong cơ thể nghiêm trọng. Nếu các
nghiên cứu trong vùng là những tín hiệu, chúng ta có thể đoán rằng tỉ lệ
thiếu vitamin trong dân số cũng khoảng 40%.
Con người tiến hóa từ Phi châu. Thời tiền sử, trong quá trình tiến hóa, con
người không mặc quần áo, và ánh nắng mặt trời là nguồn vitamin D. Nhưng
trong vòng hai thế kỉ qua, con người thay đổi môi trường làm việc, ngồi
trong văn phòng tránh ánh nắng mặt trời, làm việc trong phòng lạnh, lái xe,
và gần đây nhất là bào chế những loại kem chống nắng. Tất cả những phát
triển này có hiệu quả làm giảm hàm lượng vitamin D trong cơ thể. Do đó,
không ngạc nhiên khi thấy rất nhiều người hiện nay thiếu vitamin D. Không
chỉ “thiếu”, mà còn “rất thiếu”.
Ở nước ta, các bệnh truyền nhiễm vẫn còn là một trong những nguyên nhân tử
vong hàng đầu. Ngoài bệnh truyền nhiễm, các bệnh liên quan đến “xã hội hiện
đại” như tim mạch, tai biến mạch máu não, ung thư, viêm khớp, loãng xương,
đái tháo đường… càng ngày càng tăng. Tất cả các bệnh này đều liên quan đến
vitamin D. Thật ra, hầu như không một bệnh mãn tính nào mà không có liên hệ
với vitamin D! Trong một hội nghị về vitamin D diễn ra ở Mĩ vào năm ngoái,
một chuyên gia hàng đầu cho rằng y học thế giới đang ở trong một “kỉ nguyên
vitamin D”.
Trong kỉ nguyên vitamin D, vẫn còn một loạt câu hỏi cần được đặt ra và cần
nghiên cứu thêm ở nước ta. Những câu hỏi thông thường nhất là: có bao nhiêu
người Việt trong tình trạng thiếu vitamin D, nồng độ vitamin D bao nhiêu là
tối ưu cho người Việt, mối liên hệ giữa các bệnh nhiễm trùng, dịch tả và
vitamin D như thế nào, tại sao trẻ em ở thôn quê phơi nắng ít bị cảm cúm so
với trẻ em ở thành thị, v.v… Giải đáp cho những câu hỏi này chẳng những làm
sáng tỏ vai trò của vitamin D trong việc phòng chống bệnh tật và giảm tử
vong trong cộng đồng, mà còn thể hiện một đóng góp quan trọng cho y học quốc
tế.
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Văn Tuấn
|