Phòng Chống Dịch Bệnh Cần Phải Hiệu Quả

Vietsciences-  Võ Ngọc Phước                                    00/01/2012

 

Không như ở mặt kinh tế, lãnh vực mà sự tăng trưởng GDP hằng năm được nhà nước đặc biệt chú trọng, phía mặt xã hội, đúng ra cũng phải có sự phát triển đồng bộ vì cùng chung khung cảnh “kinh tế xã hội” của một nước, nhưng qua tình trạng các dịch bệnh, vốn là các loại bệnh truyền nhiễm có sức lây nhiễm phổ quát từ người qua người rất nhanh và tạo nguy kịch đến tính mạng người bị lây nhiễm, vẫn cứ xảy ra hằng năm, gây tổn hại sức khoẻ và sinh mạng người dân, nhất là dân cư có thu nhập thấp sống trong những khu vực kém vệ sinh ở đô thị hay thôn quê, đã làm cho người ta nhận thấy hình như có sự không đồng bộ phát triển, nếu không muốn nói là có tình trạng ngược lại đang xảy ra.

Điều làm người ta thật ngỡ ngàng đau xót là phải nhìn thấy quang cảnh vô cùng thê thãm mà bệnh nhân và thân nhân chen chúc ngổn ngang “như đang nhóm chợ” để chờ đến phiên lượt được khám chữa bệnh hay nhập viện điều trị, cũng như cảnh 2-3 bệnh nhân phải phân chia nhau nằm trên dưới một giường ở tại môt nước mà mục tiêu phục vụ xã hội cho người dân luôn được nhà nước trọng đại đề cao. Người ta cũng đã được biết là cho đến nay đã có biết bao viện trợ quốc tế từ nước ngoài được rót đổ vào để hỗ trợ cải thiện ngành y tế trong nước để phục vụ người dân nhưng tình hình cho đến nay vẫn không được mấy thay đổi.

Cũng cần phải nói là tình trạng chen chúc trong một không gian nhỏ hẹp như vậy sẽ tạo điều kiện môi trường để lây lan các chứng bệnh truyền nhiễm và dịch bệnh, vì một phần bệnh nhân đến khám chửa bệnh có thể đang mắc phải những chứng bệnh nguy hiễm này, nhưng trong hiện tại các cơ sở y tế và bệnh viện công chưa có biện pháp hay phương tiên thích nghi để phân lọc (screening) người vào và tránh sự chung đụng để đề phòng việc lây lan nguy hiễm này. Bởi vì, từ đó sự lây lan có thể lan rông ra xã hội bên ngoài. Khâu công tác cơ bản này, tuy có phần phức tạp nhưng phải được cải thiện cấp bách để phòng chống sự lây lan các bệnh phát triển và dịch bệnh từ bệnh viện hay cơ sở y tế.

Tuy nhiên, điều căn bản phải giải quyết là tình trạng “cung cầu mất thăng bằng” hay “quá tải” ở các bệnh viện công. Nguyên nhân của việc này là do mực độ gia tăng quá lớn của người bệnh, nhất là từ các gia đình sinh sống trong những địa phận kém vệ sinh, trong khi mực độ tiếp nhận của các cơ sở khám chửa bệnh cũng như số nhân viên phục vụ ngành y tế thì lại có giới hạn. Tuy gần đây ngành y tế cộng đồng cũng được chú trọng phát huy hơn nhằm để cải thiện tình trạng này nhưng cũng chưa thể nào giải quyết vấn đề từ căn bản được.

Sở dĩ có việc mực độ bệnh nhân gia tăng quá cao, nhất là vào các mùa có bệnh truyền nhiễm và dịch bệnh, là do sự tồn tại nhiều địa điểm phát sinh mầm bệnh, thường là những nơi có đông dân cư nhưng vệ sinh môi trường công cộng còn thấp kém vì không được quản lý và xử lý chặt chẽ. Các “mầm bệnh truyền nhiễm hay dịch bệnh” được phát sinh từ các vị trí như cống rảnh ao hồ nước tù đọng, các đống rác hay vũng nước thải công nghiệp/ gia đình chưa được xử lý vệ sinh hợp lý, các chuồng nuôi gia súc không được chăm sóc vệ sinh đúng mức. Những vị trí như vậy sẽ tạo thánh địa bàn tiềm ẩn để sinh sôi các loại vi trùng bệnh truyền nhiễm hay dịch bệnh.

 

Theo qui trình lây nhiễm, từ các điạ bàn tiềm ẩn nêu trên, các tác nhân lây nhiễm ( vectors ) chính yếu là các côn trùng và sinh vật ở các vị trí đó, đặc biệt là ruồi, muỗi, sâu bọ, rồi đến các động vật, gia súc sẽ mang các loại vi trùng bệnh truyền nhiễm hay dịch bệnh đến tiếp cận con người. Ở tác nhân con người, sự lây lan rộng ra cộng đồng là do việc tiếp xúc giữa con người với nhau. Trong những điều kiện hoàn cảnh như vậy, dân cư sinh sống bên cạnh các vị trí này, thường là dân cư có thu nhập thấp, sẽ phải hứng chịu sự lây nhiễm trước nhất.

 

Như vậy, trên nguyên tắc, nếu thực hiện được việc kiễm soát chặt chẽ ở hai mặt trên, địa bàn phát sinh vi trùng mầm bệnh và các tác nhân gây nhiễm, thì sẽ có được hiệu quả trong sự phòng chống bệnh truyền nhiễm và dịch bệnh.

 

Tuy nhiên, trên thực tế, tại các nước đang phát triễn trong đó có Việt Nam, người ta đã không đạt được nhiều hiệu quả trong việc nảy dù đã cho thấy có rất nhiều cố gắng thực hiện. Nói vắn tắt, lý do sự việc này là vì số lượng của các địa bàn phát sinh mầm bệnh và tác nhân gây nhiễm qúa lớn; trong khi các hoạt động kiễm soát thì chỉ được thực thi với phạm vi vị trí và thời gian giới hạn.

 

Từ lâu, nnhiều nước đã cho phát động hằng năm các phong trào ở đia phương nhằm chế ngư hai mặt trên trong những mùa bệnh nhưng hiệu quả gặt hái được, vì vậy, chỉ có giới hạn và nhất thời, phần lớn ở mặt tác nhân gây nhiễm bằng cách diệt trừ ruồi, muỗi, sâu bọ, chuột….nhưng ở mặt địa bàn tiềm ẩn của môi trường ô nhiễm thì vẫn không thay đổi được nhiều, ngoại trừ phải thay đổi cơ sở hạ tầng ( infrastructures ) và cơ chế kiễm soát ô nhiễm lây nhiễm ( control system of contamination and infection ).

 

Ở các nước đang phát triễn, trung ương cũng như địa phương thường chú trọng nhiều đến phát triễn đầu tư các cơ sở công nghiệp, kinh doanh kinh tế nhưng lại thiếu chú trọng đến mặt vệ sinh công cộng và các bệnh tật gây ra kèm theo, nhất là các bệnh truyền nhiễm và dịch bệnh, nên các địa bàn tiềm ẩn vẫn còn tồn tại và càng nhiều thêm. Tình trạng bức xức đến nỗi, gần đây toàn dân cư ở một địa phương bên Trung Quốc phải nổi dậy biểu tình chồng lại nhà máy gây ô nhiễm phương hại đến sức khoẻ người dân và cuối cùng nhà nước phải chịu cho đóng cửa nhà máy này.

 

Như vậy, tình trạng các bệnh truyền nhiễm và dịch bệnh vẫn còn có phát sinh lây lan ( outbreak ) rầm rộ hằng năm là chứng tỏ trung ương hay địa phương, vì những lý do tài chính và quyết tâm, đã không thực hiện kiểm soát việc phòng chống được hiệu quả, nhất là ở mặt địa bàn tiềm ấn, dù đã có tổ chức đầy đủ các ủy ban và ban ngành để thực thi đối phó. Không những còn rất nhiều cống rãnh vô cùng ô uế ở ngay giữa thủ đô, người ta còn có thể thấy được các địa điểm tạo mầm bệnh truyền nhiễm ngay trong sân vườn phía sau các bệnh viện công được cho là bậc nhất của nước.

 

Một khía cạnh cần nhắc đến là sự tham gia cộng đồng của người dân trong việc phòng chống này, Việc này đã tđược hực hiện với sự tham gia tích cực cùng ý kiến của mọi tầng lớp người dân ở các nước khác. Yếu tố này được nhận thấy rất yếu kém ở trong nước. Nguyên nhân là chính quyền, trung ương và địa phương, giữ toàn quyền việc kiễm soát này và xem đó như một “vấn đề nhạy cảm” đến an ninh quốc gia. Chuyện này làm nhớ đến chuyện một nhà báo ở Trung Quốc đã bị giam mấy năm chỉ vì đua tin có cúm gà xảy ra ở một địa phương, dù đó là sự thật.

 

Ở các nước phát triễn như Mỹ, Anh, Pháp…, để có sự ngăn chận kịp thời, việc thông báo cấp thời từ nơi xãy ra dịch bệnh rất được khuyến khích. Sau khi có báo cáo từ địa phương việc phát sinh một bệnh truyền nhiễm hay dịch bệnh ở một địa điểm, thì cơ quan phụ trách phòng chống ở trung ương sẽ tức tốc phối hợp nhanh chóng với địa phương để trước nhất khoanh vùng cách ly ( isolation area ) rồi thực thi các biện pháp xác định mầm bệnh ( confirmation of pathogenic germ ), theo dõi ( surveillance ) và truy xét đường lây nhiễm ( tracking route of transmission ) và các phương cách lây nhiễm ( transmission modes ) một cách triệt để nhằm xác định rõ ràng đường dây chuyền tác nhân và qui mô lây nhiễm hầu chận đứng sự lây lan ( containment of infection ) được hiệu quả. Đối với một số bệnh truyền nhiễm hay dịch bệnh chủ yếu cần phải đặc biệt theo dõi thì chính phủ có tổ chức từng mạng lưói theo dõi ( surveillance network ) để kịp thời đề phòng phá sinh để bảo vệ sức khỏe người dân.

 

Trên nguyên tắc, hệ thống phòng chống trong nước hiện nay cũng có đầy đủ tổ chức từ cấp trung ương đến địa phương với những nhiệm vụ chức năng tương tự như vậy. Tuy nhiên, như được nhận thấy, hiệu quả hoạt động đã không đuợc như mong muốn. Cho đến nay người ta nhận thấy có sự thiếu sự phối hợp chặt chẽ trên căn bản với nhau, hay có thể nói là mỗi nơi như là một “tháp ngà” riêng biệt.

 

Nguyên nhân của sự thiếu phối hợp chặt chẽ là trước hết vì thể diện lo sợ chê bai và xa tránh ở mặt kinh doanh, đầu tư… cho nên không địa phương nào muốn báo cáo nơi mình có dịch bệnh xãy ra. Mặt khác, trung ương lại không muốn can dự nếu không có yêu cầu chính thức từ địa phương và, hơn nữa, cũng không muốn phát hiệu báo động ( alert ) có dịch và báo cáo dịch bệnh xảy ra đến các tổ chức y tế quốc tế để có sự hỗ trợ phòng chống hữu hiệu.

 

Trong hiện tại, bên cạnh một số bệnh truyền nhiễm như bệnh lao, sốt rét, HIV/AIDS… đang được các tổ chức quốc tế thực thi hỗ trợ trên phạm vi toàn quốc, một số dịch bệnh vẫn còn xãy ra trong nước như bệnh sốt xuất huyết, bệnh tay-chân-miệng, cúm heo, cúm gà, bệnh heo tai xanh, bệnh than ở động vãt …vẫn là những mầm bệnh nguy kịch đe dọa đến tính mạng người dân, nên để bảo vệ sinh mạng người dân.

 

Người ta nhận thấy cần phải tổ chức từng mạng lưới phòng chống ( prevention network ) cho những dịch bệnh trên ở phạm vi toàn quốc với qui định rõ ràng nhiệm vụ ở cấp trung ương và địa phương. Theo đó, một khi có dịch bệnh xãy thì cần phải báo cáo ngay đến các cơ quan Tổ Chức Y Tế Thế Giới … để có được sự hỗ trợ chẩn đoán và kỹ thuật cùng thuốc men phòng chống hiệu quả. Bởi vì, các vi trùng hay virus của mầm bệnh có thể đã có sự biến đổi hay đột biến ( mutation ) nên cần có sự hợp tác chẩn đoán. Ý thức căn bản này cần phải được tôn trọng để thực thi.

 

Về mặt nâng cao chất lượng phục vụ cho người dân ở phương diện này, cùng với việc xây dựng các trạm y tế để mở rộng mạng lưới phục vụ y tế có đủ tiêu chuẩn ở địa phương, người ta nhận thấy cần có sự đào tạo nhân viên y tế chuyên khoa cùng trang thiết bị và thuốc men cơ bản đầy đủ cũng như phổ biến một chương trình hoat động rõ ràng để có thể phục vụ kịp thời việc cứu chửa khẩn cấp ở giai đoạn sơ khởi cho bênh nhân. Muốn vậy, các kinh phí cho những việc này cũng phải được cung cấp đầy đủ.

 

Thông thường cho tới nay, dù bệnh nhân ở thôn quê đã mắc phải các chứng bệnh truyền nhiễm nguy kịch hay dịch bệnh, nhưng họ chỉ thường tự đi mua thuốc chửa trị mà không thể đến các trạm y tế hay bệnh viện địa phương để khám chửa vì những lý do phiền phức và không tin tưởng, trừ phi bệnh tình bước vào giai đoạn nặng. Và một khi các cơ sở y tế địa phương nhận thấy không thể chửa trị được thì mới làm giấy giới thiệu để cho chở đến các bệnh viện trung ương cho nhập viện chửa trị. Với qui trình như vậy, phần lớn bệnh nhân của các chứng bệnh nguy kịch như dịch bệnh đã phải lâm vào tình trạng quá tồi tệ khó giữ được mạng sống khi được cho nhập viện chửa trị.

 

Cùng việc mở rộng và cải thiện mạng lưới y tế có đủ tiêu chuẩn ở địa phương và xóm phường với một chương trình phục vụ tích cực cho người dân chắc chắn để đáp ứng được việc bảo vệ sức khoẻ người dân từ căn bàn và hỗ trợ việc phòng chống dịch bệnh một cách hiệu quả, việc xoá bò các địa bàn tiềm ẩn mầm bệnh cũng như cải thiện thủ tục chữa trị và nhập viện tại các bệnh viện trung ương cần phải xúc tiến càng nhanh càng tốt.

 

Muốn có được những hiệu quả như vậy, nhà nước và các ban ngành y tế liên hệ phải cùng quyết tâm có cùng chung một mục tiêu phòng chống các bệnh truyền nhiễm và dịch bệnh một cách triệt để bằng cách tận lực thực thi các cải thiện nêu trên nhằm nào việc bảo vệ sức khoẻ và sinh mạng người dân.

 

VNP

 

 

©  http://vietsciences.org http://vietsciences.free.fr- Võ Ngọc Phước