1.
Lăng Đan Dương ở bờ Nam sông Hương.
Lăng
mộ vua Quang Trung / Đan Lăng / Đan Dương Lăng/ CĐĐD đã bị quan quân nhà
Nguyễn quật phá ngay khi họ vừa về đến Phú Xuân vào tháng 11 năm Tân Dậu
(1801). Vụ trả thù nầy đã được ghi rõ trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên
(xem A.004):
A.004.-
QSQ Triều Nguyễn, ĐNTL CB Đệ nhất kỷ, Q.XV, tr. 26a cho biết: Tháng 11 Tân
dậu, Nguyễn Vương cho “phá hủy mộ giặc Tây Son Nguyễn Văn Huệ bổ săng (hòm),
phơi thây, bêu đầu ở chợ”. Bình luận: Chứng tỏ lăng mộ vua Quang Trung chỉ
còn dấu tích, không còn hòm, không còn xương cốt, đầi lâu.
Nhưng Thực Lục không cho biết địa điểm ấy ở
đâu. Đối với chúng ta thì đó là một bí ẩn nên tôi tạm mã hóa là X. Phải đợi
đến hơn 50 năm sau (1801- 1852), Nguyễn Trọng Hợp và các sử thần ngồi ở Quốc
sử quán trong Kinh thành viết bộ Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện (sơ
tập), trong Quyển XXX “Ngụy Tây” mới hé cho biết cho biết rằng lăng mộ vua
Quang Trung (mã hóa là X) đã được “táng vu Hương Giang chi nam”
(táng ở bờ nam sông Hương) (Xem
A.008)
A.008.-
QSQ triều Nguyễn, ĐNCB Liệt Truyện (sơ tập), Quyển XXX “Ngụy, tr. 43a cho
biết lăng mộ vua Quang Trung đã được “táng vu Hương Giang chi nam” (táng ở
bờ nam sông Hương)
Cái thông tin mộ vua Quang Trung “táng vu
Hương Giang chi nam” có thể xem là thông tin độc nhất mà sử sách
triều Nguyễn dành cho X. Cái thông tin đó ấn định một vùng “Hương Giang
chi nam” khá rộng và cũng hơi mông lung. Bởi thế mà hơn nửa thế kỷ qua,
dấu tích X vẫn còn là một bí ẩn. Tuy nhiên, xét cho kỹ thì cụm từ “táng
vu Hương Giang chi nam” cũng cho chúng ta được ba điều quan
trọng:
- 1/ Khẳng định X táng ở Huế (chứ
không phải như dư luận là táng ở Linh Đường (Hà Nội); Bình Thuận hay bất cứ
một nơi nào khác;
- 2/ Lấy sông Hương làm chuẩn nên có
thể nghĩ X tọa lạc gần bờ sông (chứ không phải trên vùng núi sau Tu viện
Thiên An có lăng Ba Vành của Hộ bộ kiêm Binh bộ Lê Quang Đại);
- 3/ Phía nam sông Hương là một vùng
rộng lớn, nhưng dù sao khu vực ở nam sông Hương có độ cao tương đối để có
thể táng được lăng mộ của vua chúa không đến nỗi rộng lớn lắm.
2. Phương pháp khảo sát
:
Ngày xưa các sử thần viết sử ngắn, gọn và dùng
từ rất chính xác. Muốn hiểu khi nào các sử thần triều Nguyễn dùng chữ “nam”
như “nam sông Hương”, “phía nam Kinh Thành”, các từ ấy giống nhau và khác
nhau như thế nào tôi đã phải đọc kỹ bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí (tập Kinh
sư và Thừa Thiên Phủ) của Quốc sử quán triều Nguyễn. Qua thống kê, so sánh,
tôi thấy:
a) Địa điểm thuộc xã thì lấy huyện
lỵ làm gốc: Sông Thọ Lộc (Đập Đá qua Phường Vỹ Dạ ngày nay) ở
phía Bắc huyện 17 dặm; cửa sông ở bờ phía nam Hương Giang thuộc xã Thiên Lộc
[1] ;
Gò Thiên Mụ
ở phía tây nam huyện Hương Trà độ 5 dặm [2];
b) Địa điểm các huyện thì lấy phủ lỵ (Thừa
Thiên) làm gốc: Huyện Phú Vang ở phía đông bắc phủ 14 dặm...
[3] ; Huyện
Quảng Điền ở phía đông bắc phủ 14 dặm...
[4]
c) Địa điểm thuộc Kinh thành Huế lấy Kinh
thành làm gốc: Chùa Diệu Đế ở ấp Xuân Lộc ngoài Kinh thành [5];
Thuyền xưởng ở bờ phía nam Hương Giang ngoài Kinh thành
[6].
Qua
bản khảo sát, tôi rút ra được nguyên tắc: định phương hướng của một địa danh
căn cứ vào một trong ba địa điểm gốc: huyện lỵ, phủ lỵ, và Kinh thành.
Bờ nam sông Hương rất dài, nhưng nó
được cắt ra thành nhiều đoạn để phụ thuộc vào Kinh thành hay huyện lỵ quản
lý nó về phương diện hành chính. Vậy:
- Những di tích thuộc Kinh thành nằm phía nam
sông Hương cũng gần với “hướng phía nam Kinh thành”. Ngồi trong Kinh thành
viết “phía nam sông Hương” cũng có thể hiểu “phía nam Kinh
thành”. X nằm ở hướng chính nam Kinh Thành.
Thế cùng nằm ở hướng chính Nam Kinh
thành, có những di tích nào thuộc Kinh thành ?
Nghiên cứu thư tịch và khảo sát
trên thực địa, chúng tôi thấy các sử thần triều Nguyễn dùng từ “phía nam”
đối với Kinh thành trong những trường hợp cụ thể như sau:
- Phu Văn Lâu: ở chính trung
quách phía nam ngoài Kinh thành [7]
- Thuyền xưởng (bờ sông từ nhà
bia trước Quốc Học đến Hotel 5 Lê Lợi ngày nay). Theo L. Cadiere, (BAVH,
1-6/1933, p.130), ở bờ phía nam Hương giang ngoài Kinh Thành [8]
.
- Miếu lịch Đại đế vương, ở xã Dương
Xuân (?) phía nam ngoài Kinh Thành [9]
- Đàn
Nam Giao, ở xã An Cựu, phía nam ngoài Kinh Thành...
[10]
Khảo sát
trên thực địa, nhận thấy tất cả những địa điểm trước Kinh Thành được xếp ở
phía chính nam ngoài Kinh thành đều nằm trên hoặc hai bên đường trục nối
liền hai điểm Phu Văn Lâu và đàn Nam Giao.
Vì thế mà hai cồn Giã Viên (bãi Dương
Xuân xưa) và Cồn Hến (Phú Xuân xưa) tuy ở phía trước hai bên Kinh thành
nhưng Đại Nam Nhất Thống Chí lại xếp vào vị trí “phía tây nam trước Kinh
thành” (Dương Xuân/Cồn Dã Viên) và “đông nam trước Kinh thành
(Phú Xuân/Cồn Hến)” [11]
X nằm
ở vị trí “phía nam sông Hương”, cũng có thể xem gần với hướng “phía nam Kinh
thành" - Vì thế tôi đặt giả thiết (xin nhấn
mạnh là giả thiết) X cũng nằm gần
trục Phu Văn Lâu - đàn Nam Giao.
.
Dọc hai bên đường thẳng từ Phu Văn Lâu
lên đàn Nam Giao có nhiều di tích cổ, đặc biệt nhất là chùa Thiền Lâm. Theo
Đại Nam Nhất Thống Chí cho biết: “Khi trước Thái sư Tây Sơn là Bùi Đắc
Tuyến chiếm (chùa Thiền Lâm) ở...” [12]
Lúc bấy giờ dưới trướng của Bùi có Phan Huy
Ích. Phan Huy Ích đã cho biết cụ thể hơn về sự kiện này trong lời Nguyên dẫn
và bài thơ Mùa Xuân Ở Công Quán Ghi Việc sau đây:
Dịch
nghĩa: Mùa Xuân Ở Công Quán Ghi
Việc [13]
(Nguyên dẫn: Nhà của quan Thái sư
(Bùi Đắc Tuyên) là chùa Thiền Lâm cũ
nằm phía nam sông
Hương
nha thuộc cũng theo đến ở chung quanh chùa. Giữa tháng ba, tôi tới nhà trọ
Kinh đô, cũng gần nơi ông ở. Chỗ này vườn tược rộng rãi, cây cối xanh um,
bốn bề những núi cùng mây, mắt nhìn lòng nghĩ cũng khá thoải mái, trừ những
đêm họp bàn việc công ra, còn thì tha hồ ngâm thơ uống rượu, kể cũng thú,
duy nỗi lòng thương nhớ người nhà vẫn không nguôi):
"Trời mở ra dinh tòa ở chốn đồng quê
Xe ngựa tụ họp đến sân ngôi chùa cũ.
Trên tòa đêm khuya, cuộc họp bàn chưa giải
tán,
Chỗ trọ nơi nhà chùa, giấc ngủ quá trưa mới
tỉnh". (A)
NGUYÊN CHÚ:
(A) "Quan Thái sư vì việc quan,
đêm thường ra ngoài tòa làm việc, canh tư mới tan, đã thành lệ, những người
giúp việc ứng trực cũng đã quen". (Xem
A.009)
Sử đã cho biết, Bùi Đắc Tuyên được làm Thái Sư cho vua
Quang Toản từ năm 1792 (sau ngày vua Quang Trung mất), Phan Huy Ích làm việc
với Bùi Đắc Tuyên ở Phú Xuân trong ba năm (1792 - 1794). Phan đã ghi chép
được nhiều chuyện “thời sự” lúc bấy giờ.
Qua bài thơ tâm sự của Phan Huy Ích, chúng ta
có thể tách ra được những thông tin sau:
1. (So với Đô thành Phú Xuân), chùa Thiền Lâm “nằm ở phía
nam sông Hương";
2. Thời Bùi Đắc Tuyên làm Thái sư, “nha thuộc" của triều Quang
Toản “cũng đến ở chung quanh chùa", “xe ngựa (của các đại thần) tụ
họp đến sân ngôi chùa (Thiền Lâm) cũ". Điều ấy có nghĩa chùa Thiền Lâm là cơ
quan đầu não buổi đầu triều Quang Toản;
3. Bùi có thói quen làm việc ban đêm, ban ngày ngủ, những người
giúp việc cho Bùi cũng phải thích nghi với tập quán ấy;
4. Phan Huy Ích từ ngoài Bắc vào ở trọ trong một ngôi chùa cũ đã
biến thành “nhà trọ Kinh đô”
5. Dinh của Bùi Thái sư là chùa Thiền Lâm, nơi làm việc của Phan
Huy Ích cũng là một ngôi chùa gần Thiền Lâm, chứng tỏ những kiến trúc chủ
yếu của các nha thuộc bên cạnh Bùi là các chùa. (Chùa Bảo Quốc ở gần đó qua
Đại Nam Nhất Thống Chí cho biết Tây Sơn dùng làm kho chứa thuốc súng, phù
hợp với tình hình chung quanh chùa Thiền Lâm lúc ấy).
Phan Huy Ích cho biết chùa Thiền Lâm
“nằm ở phía nam sông Hương”
và trên thực địa chùa Thiền Lâm đang tồn tại hiện nay
(số 78B Điện Biên Phủ) nằm đúng trên trục Phu Văn Lâu - đàn Nam Giao. Điều
ấy chứng tỏ giả thuyết X nằm trên trục Phu Văn Lâu - đàn Nam Giao cùng với
chùa Thiền Lâm là có cơ sở thực tế (chùa Thiền Lâm và X (Đan
Dương Lăng) đều ở về phía nam sông Hương)
chứ không còn là giả thiết nữa. (xem A.010).
A.010.-
Huế và vùng Phụ cận, trích trong l’ Annuaire Général
de l’Indo-chine năm 1907,
trích lại từ BAVH 1-6/1935. Chùa Thiền Lâm
nằm gần ấp Bình An ngay
trên trục Phu Văn Lâu -đàn Nam Giao
Nhờ
thông tin điền dã và thơ văn Phan Huy Ích mà tôi có thể định hướng được X
nằm ở bờ nam sông Hương trên đường trục Phu Văn Lâu -đàn Nam Giao. Thế thì
Phan Huy Ích còn có thông tin nào để lại liên quan đến vấn đề nầy nữa không
?
Tôi lại nghiền ngẫm đọc từng câu từng chữ tập
Dật thi lược toản [14].
Và, trời ơi, tôi có cảm giác như Phan Huy Ích đã gởi lại cho tôi một thông
tin vô giá khác, ông hạ bút ghi thêm “nguyên chú” dưới bài thơ không đề có
số thứ tự 266 sau đây:
Bản dịch:
"Bỏ trốn, trốn danh, tự coi mình kẻ bất
tài,
Đồi nương nơi làm quan xa như gọi cảnh
nhàn đến.
Lầu sớm nắng hoe, mây khói lượn quanh,
Gió thu mát mẻ, cửa ngõ rộng mở.
Rảnh việc, đầy tớ lười ngủ dưới bóng
cây,
Đa tình người khách thân cùng ta nâng
chén, (*)
Ra vào nơi cơ mật, thẹn mình không có
công trạng,
May nhờ ông biết cho, chỉ rỏ ràng ta
muốn về. (**)"
NGUYÊN CHÚ:
(*) "Lúc
bấy giờ bọn tiểu giám giữ lăng thường đến hầu rượu";
(Xem A.028)
Câu 5 và 6 của bài thơ nói đến tập quán ngủ ngày của những người
phục vụ Bùi Đắc Tuyên. Riêng Phan Huy Ích thì ngủ không được, ông thường
ngồi uống rượu giải buồn với “những khách thân". Sợ người đọc không
hiểu “người khách thân" của ông đó là ai, ông đã cẩn thận ghi thêm một ghi
chú “lúc bấy giờ bọn tiểu giám giữ lăng thường đến hầu rượu".
Phan Huy Ích viết bài thơ này trong thời gian ông làm
quan dưới trướng Bùi Đắc Tuyên (1792 - 1794). Lúc ấy, lăng của ai mà có đủ
tiêu chuẩn để cử tiểu giám đến giữ, nếu đó không phải là lăng vua Quang
Trung ? Lăng mà bọn tiểu giám giữ ấy ở đâu ? Nếu ở xa thì chúng có thể
“thường đến hầu rượu" Phan Huy Ích ở trong một ngôi chùa gần Thiền Lâm được
không ? Chắc chắn là không.
Vậy ta lại có thêm một nhận định:
X Lăng Đan Dương tọa
lạc gần chùa Thiền Lâm.
Chú thích Kỳ 2
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Đắc Xuân
|