Lý thuyết thì tốt, nhưng không ngăn được thực tiễn
tồn tại
Jean
Martin Charcot
Sigmund Freud, nhà tâm lý
học vĩ đại, rất hay trích dẫn một câu nói của người
thầy mà ông từng chịu ảnh hưởng, Jean Martin
Charcot, rằng "Lý thuyết thì tốt,
nhưng không ngăn được thực tiễn tồn tại", để chỉ
trích thái độ chỉ biết chấp nhận những kiến thức thu
được mà không hề phê phán. Nói cách khác,
thực tiễn luôn luôn chứa đựng những điều mới lạ mà
lý thuyết không bao giờ chứa đựng hết. Chính cái mới
lạ đó kích thích trí tò mò khám phá của con người:
Tâm lý khao khát cái mới lạ nằm trong bản năng vô
thức của con người!
1] Nỗi khao khát cái mới lạ là một chất men kỳ diệu
của cuộc sống:
Cách đây không lâu, tạp chí Science công bố một thí
nghiệm ca các nhà khoa học thần kinh tại Đại học
Sheffield và Đại học London ở Anh về khả năng nhận
dạng của con người: Một số người lớn và trẻ em,
trong đó có một số em
ủbé chỉ vài tháng tuổi, được
xem lần lượt nhiều tấm hình chụp mặt người và mặt
khỉ khác nhau. Đầu của mỗi người tham gia thí nghiệm
được gắn những điện cực nối với điện não đồ. Nếu một
người nhận thấy một hình ảnh mới lạ xuất hiện, não
của người đó sẽ xuất hiện một phản xạ làm cho người
đó chú ý, dừng lại giây lát để quan sát. Phản xạ
này biểu lộ trên màn hình computer dưới dạng một
xung bất thường trên não đồ (sóng não đồ nhẩy vọt
lên). Kết quả cho thấy trong khi người lớn không
nhận thấy sự khác nhau giữa mặt các con khỉ (mặt con
nào trông cũng như con nào) thì các em bé lại dừng
lại để ngắm nghía, vì các em nhận thấy cái mới lạ.
Từ đó, các nhà khoa học rút ra một kết luận vô cùng
quan trọng về tâm sinh lý:
Sự ưa thích, khao khát cái mới
lạ là một phản xạ bản năng, bản năng này lộ rõ ở
tuổi trẻ, càng trẻ bản năng này càng mạnh.
Trong khi người lớn không nhận thấy sự khác nhau
giữa mặt các con khỉ
thì các em bé lại dừng lại để ngắm nghía, vì các em
nhận thấy cái mới lạ, điều đó cho thấy sự ưa thích, khao khát cái mới lạ
là một phản xạ bản năng
Quả thật nếu cuộc sống không có cái mới lạ thì sẽ
nhàm chán biết chừng nào! Tuổi trẻ ngày nay háo hức
đua nhau tìm kiếm những kiểu điện thoại di động mới
lạ, vô tình thúc đẩy công nghệ điện thoại không dây
phát triển không ngừng, đem lại lợi nhuận khổng lồ
cho các hãng Motorola, Siemens, Nokia, Samsung, v.v.
Chưa bao giờ dịch vụ quảng cáo lại phát triển rầm rộ
như ngày nay. Đó là ngành công nghiệp khai thác
triệt để bản năng ưa thích cái mới lạ của con người.
Công nghiệp du lịch ra đời phát triển cũng dựa trên
bản năng khao khát đó.
Tâm lý ưa chuộng cái mới lạ ngự trị cả trong lĩnh
vực tình cảm và tinh thần. Tình yêu cũng phải có cái
mới lạ, nếu không, nó có nguy cơ trở thành nạn nhân
của một quy luật ngược lại: Cái gì cũ kỹ thì dễ trở
thành nhàm chán và trước sau sẽ bị đào thải. Làm thế
nào để một đôi vợ chồng đã “quá biết rõ nhau” mà vẫn
có thể cảm thấy có cái mới lạ ở nhau? Đó chính là
nghệ thuật sống. Thể thao, âm nhạc, những câu chuyện
nghĩa lý bên bàn trà, ham thú văn chương, hội hoạ,
du lịch, v.v. là những niềm vui tinh thần vô hạn bổ
xung những điều mới lạ vào trong cuộc sống vật chất
vốn hữu hạn, làm cho cuộc sống vợ chồng mãi mãi hứng
thú, không bao giờ nhàm chán.
Đó chính là một phản xạ nằm trong đáy sâu của tầng
vô thức mà Sigmund Freud đã khám phá. Nó là một chất
men kỳ diệu của cuộc sống – nguồn mạch của mọi sáng
tạo và khám phá trong văn chương nghệ thuật và khoa
học. Vì vậy, hơn bất kỳ hoạt động nào khác, sự
nghiệp giáo dục phải biết khai thác và tận dụng
triệt để bản năng này, nếu không muốn biến mình
thành một đống sách cũ nhàm chán và kém hiệu quả.
Một thầy giáo giỏi là một thầy giáo biết khám phá ra
những cái mới lạ ngay trong ngay trong những bài
giảng tưởng như cũ kỹ hàng ngày. Chỉ khi đó bài
giảng mới có sức sống hấp dẫn. Một nhà khoa học giỏi
là một nhà khoa học có khả năng phát hiện ra cái mới
lạ từ những vấn đề tưởng như đã cũ. Albert Einstein
chính là một người như thế.
2-Cái mới lạ trong cái cũ kỹ:
Joseph-Louis Lagrange, một nhà toán học lừng lẫy
người Pháp trong thế kỷ 18, một lần chua xót than
phiền rằng chỉ có mỗi một vũ trụ duy nhất, thế mà
Newton đã khám phá hết thảy mọi bí mật căn bản của
nó rồi, các nhà khoa học khác chẳng còn gì để khám
phá nữa (!).
Nhưng Einstein chứng minh rằng Lagrange đã nhầm: Vũ
trụ vẫn còn đầy rẫy những điều kỳ lạ để khám phá!
Thật vậy, ngay từ khi tốt nghiệp trung học và sau
khi tốt nghiệp đại học, Einstein cảm thấy giả thuyết
ether là điều khó tin. Đặc biệt, thí nghiệm đo vận
tốc ánh sáng của Michelson-Morley là một sự kiện lạ
lùng làm cho Einstein mất ăn mất ngủ.
Trong thế kỷ 19, hầu hết các nhà khoa học, kể cả một
người tài ba lỗi lạc như Maxwell, đều tin rằng tồn
tại một dạng vật chất đặc biệt lấp kín trong không
gian được gọi là ether – một môi trường trung gian
để ánh sáng truyền qua nó từ điểm này đến điểm khác
trong vũ trụ. Nhưng thí nghiệm của Michelson-Morley
cuối thể kỷ 19 cho thấy chẳng hề có một thứ ether
nào cả, và điều kỳ lạ nhất là ánh sáng có vận tốc
không thay đổi, không phụ thuộc vào bất cứ hệ quy
chiếu nào cả, không tuân theo định luật cộng vận tốc
của Galilei mà cơ học Newton đã thừa nhận như một
nền tảng. Đó là một thách thức đối với các nhà vật
lý cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Bản thân Michelsson
và Morley nghĩ rằng có thể họ đã phạm sai lầm ở đâu
đó, nhưng họ không tìm thấy sai lầm. (Tuy nhiên nhờ
thí nghiệm này mà Michelson trở thành người Mỹ đầu
tiên được tặng Giải Nobel vật lý).
Einstein bị thu hút toàn bộ tâm trí vào chuyện mới
lạ khó hiểu này, để sau vài năm, năm 1905, từ trong
bóng tối không ai biết, một nhân viên quèn 26 tuổi
tại Sở cấp bằng sáng chế phát minh ở Bern, Thuỵ Sĩ,
đã làm cả thế giới phải sửng sốt ngạc nhiên khi công
bố Thuyết tương đối hẹp (Special Theory of
Relativity), làm đảo lộn cơ học Newton, tạo nên một
trong những cuộc cách mạng nhận thức vĩ đại nhất của
loài người.
Berne, một thành phố tuyệt đẹp của Thụy Sĩ,
nơi ra đời của Thuyết Tương Đối Hẹp, năm 1905
Cũng trong năm đó, Einstein còn công bố thêm 3 công
trình vĩ đại khác. Cho đến nay, người ta vẫn không
thể hiểu nổi làm thế nào mà chỉ trong vài tháng, một
người trẻ tuổi không có tên tuổi trong giới hàn lâm,
lại có thể cống hiến cho nhân loại một khối lưọng
sáng tạo lớn lao và vĩ đại đến như thế. Nhưng chúng
ta có thể biết rõ: Einstein là người bị quyết rũ
mãnh liệt nhất bởi cái mới lạ – kỳ quan – của tự
nhiên.
Vì thế, năm 1905 được gọi là Năm Thần Diệu
(Miracle Year) của Einstein, và bản thân ông chỉ sau
một vài tháng của năm 1905, đã trở thành “Copernicus
của thế kỷ 20”, như lời ca ngợi của Max Planck!
Chẳng bao lâu sau ông lại làm thế giới còn ngạc
nhiên hơn nữa khi đưa ra Thuyết tương đối tổng quát.
Bộ óc của ông, sau khi ông mất, đã trở thành một đối
tượng kỳ lạ của khoa học thần kinh, trong khi Thuyết
tương đối tổng quát của ông lại dẫn tới hàng loạt
khám phá kỳ lạ trong khoa học hiện đại những năm gần
đây.
3- Cái mới lạ từ di sản của
Einstein để lại:
Sau khi sinh hạ cậu con trai duy nhất của mình năm
1879, bà mẹ Einstein giật mình lo lắng thấy con mình
trông như một “quái thai” (a monster): Đầu cậu bé có
hình dạng lạ lùng và to khác thường. Nhưng ông bác
sĩ giải thích để bà yên lòng rằng chẳng có gì bất
thường khi một đứa bé mới sinh có cái đầu méo mó, và
ông quả quyết rằng đầu cậu bé sẽ sớm trở lại bình
thường. Thực tế cho thấy ông bác sĩ hoàn toàn đúng:
Chỉ vài tuần sau, đầu cậu bé đã cân đối trở lại.
Sau khi Einstein mất năm 1955, Thomas Harvey, một
nhà bệnh lý học, đã bảo quản bộ não của ông, lấy một
số mẫu từ các mô não của ông để nghiên cứu, nhưng
chẳng thấy điều gì khác thường. Tuy nhiên năm 1999,
Sandra Witelson tại Đại học McMaster ở Canada đã
khám phá ra rằng não của Einstein là trường hợp duy
nhất không có đường rãnh “Sulcus” ngăn cách phần
thuỳ thuộc thái dương (temporal lobe) với phần thuỳ
dưới hộp sọ (parietal lobe).
Các nhà khoa học suy đoán rằng sự vắng mặt
đường rãnh này có thể cho phép hình thành thêm nhiều
neuron thần kinh tại khu vực này, thiết lập nên một
kênh thông tin nối liền các phần não với nhau để
cùng làm việc chung một cách dễ dàng, tạo ra một khu
vực rộng phi thường trên vỏ não có khả năng tổng hợp
cao. Bí mật về bộ não của ông hiện vẫn đang được
tiếp tục nghiên cứu.
Tuy nhiên di sản do lý thuyết của ông để lại mới
thực sự kỳ lạ. Một trong những hệ quả quan trọng
nhất của thuyết tương đối tổng quát là việc khám phá
ra hiện tượng vũ trụ giãn nở. Từ hiện tượng này,
người ta lại khám phá ra rằng vật chất hiện diện
trước mắt chúng ta quá nhỏ bé so với lượng vật chất
có thật trong vũ trụ! Bỗng nhiên, lời của Pierre
Simon Laplace trong thế kỷ 19 lại trở nên sống động:
“Cái mà ta biết thì ít ỏi vô cùng, cái ta không biết
thì mênh mông!” (Ce que nous savons est peu de
choses, ce que nous ignorons est immense!).
Trước sự thật đó, Neta Barcall tại Đại học Princeton
đã phải thốt lên rằng “Vũ trụ của chúng ta nhẹ
bỗng!”. Vũ trụ bà nói tới ở đây là vũ trụ nhìn thấy,
bao gồm vật chất đã biết. Thật vậy, theo tạp chí
Times, vật chất đã biết hiện nay chỉ chiếm khoảng 5%
tổng lượng vật chất trong vũ trụ, còn lại là những
dạng vật chất kỳ lạ chưa hề biết, trong đó:
-
Vật chất tối (dark matter) – dạng vật chất chưa
biết, có khối lượng, tạo nên lực hấp dẫn, có xu
hướng kéo vũ trụ co cụm về một điểm – chiếm khoảng
30% tổng lượng vật chất trong vũ trụ.
-
Năng lượng tối (dark energy) – dạng vật chất chưa
biết tạo nên lực phản hấp dẫn (anti-gravity) có xu
hướng đẩy cho vũ trụ giãn nở ra bên ngoài – chiếm
phần còn lại, 65%.
Vấn đề vật chất tối và năng lượng tối hiện đang là
câu chuyện kỳ lạ nhất của vật lý và vũ trụ học hiện
đại. Để khám phá ra chúng, lại cần phải có những tâm
hồn khát kháo cháy bỏng với cái mới lạ. Những tâm
hồn ấy đang ở đâu đó giữa chúng ta, hoặc sắp sinh
ra!
(đã đăng trên tạp chí Vật Lý của Hội vật lý)
|