Nhân loại đang sống dưới sự đe doạ của một cuộc
thánh chiến giữa các nền văn minh dựa trên tôn giáo
- có thể không còn là trong tương lai xa hay gần nữa
mà đã bắt đầu. Nếu phải xây dựng những thành lũy
chống chiến tranh ngay từ bây giờ trong tâm trí con
người, thì tình thế đã rất khẩn trương, dù chưa đến
nỗi tuyệt vọng. Trên vấn đề văn hoá, chúng ta đã đi
từ thái cực này sang thái cực khác, từ tật miệt thị
đến bệnh sùng bái những khác biệt. Tất cả đã được
phản ánh khá rõ nét qua suốt 200 năm lập thuyết của
nhân chủng học. Bộ môn này đã thất bại trong nhiệm
vụ tìm lại sự đơn nhất của nhân loại thông qua những
biểu hiện đa tạp của chủng tộc chăng? Dù sao, chính
nhờ một số trực giác còn lại trong những kết quả của
môn học trên mà chúng ta có thể tìm thấy loại luận
cứ cần thiết nhằm phê phán «chủ nghĩa tương đối văn
hoá hậu hiện đại»: hiểu một cách cực đoan, chủ nghĩa
này bao hàm ý tưởng «vô thông ước»
(incommensurability) giữa các đơn vị văn hoá, cơ sở
lý thuyết, nghịch lý thay, không phải của sự bao
dung mà của sự bất dung văn hoá, đồng minh vô tình
của chiến tranh. Phê phán phần nào thôi, bởi vì một
sự phê phán trọn vẹn chủ nghĩa tương đối văn hoá đòi
hỏi chúng ta phải cùng phiêu lưu vào lãnh địa của
triết lý khoa học, và phần bổ túc này chỉ có thể là
đối tượng của một bài luận khác. Tất cả giới hạn
trong khả năng hiểu biết khiêm tốn của người viết,
tất nhiên.
1) "THƯỢNG ÐẾ CHẾT RỒI, DJIHAD MUÔN NĂM!"
Từ năm 1993, thế giới chính trị văn hoá sôi động về
một bài báo của tác giả người Mỹ Samuel P.
Huntington: «The Clash Of Civilizations»
(«Cuộc Ðụng Ðộ Giữa Các Nền Văn Minh»)
(1). Ðến sau một thời gian khá dài hệ tư tưởng hiện
đại của nền văn minh Tây Phương bị liên tục đả phá,
ngay trong và ngay bởi giới khoa học Âu Mỹ, rồi sự
xuất hiện sau đó của «chủ nghĩa tương đối văn hoá» ở
một số trào lưu «hậu hiện đại», bài báo trở thành
một trong những tựa sách bán chạy nhất này đã được
bàn tán sâu rộng trong cả hai giới chính trị và khoa
học Âu Mỹ. Ðược minh hoạ bằng «Cuộc Chiến Tranh
Vùng Vịnh» năm 1990, cuộc tấn công khủng bố vào
Trung Tâm Thương Mại Thế Giới và Ngũ Giác Ðài ngày
11/09/2001, rồi cuộc «Chiến Tranh Phòng Ngừa»
chống Irak của Hoa Kỳ mới đây, các luận điểm cảnh
báo của Huntington còn được sự hỗ trợ bất ngờ của
Ronald F. Inglehart, một chuyên gia về những thay
đổi giá trị và văn hoá, dựa trên một cuộc thăm dò dư
luận quốc tế vào loại quy mô nhất từ trước đến nay:
«Cuộc Ðiều Tra Toàn Cầu Về Giá Trị» («World
Value Surveys = L’Enquête Mondiale Sur Les Valeurs»)
(2). Nhưng trước hết, hãy trở lại với điển mẫu (paradigm)
thế chiến mới của Huntington. Theo tác giả này, thế
giới đang bước vào một thời kỳ tranh chấp khác. Nếu
cùng với cuộc cách mạng Pháp, loại chiến tranh giữa
các tập đoàn vua chúa đã nhường chỗ cho loại chiến
tranh giữa các quốc gia, thì ngày nay chiến tranh
nhân dân, kể cả chiến tranh tư tưởng hệ, cũng đã lại
cáo chung. Từ nay, cùng với sự tan biến của chiến
tranh lạnh, nếp gấp giữa các nền văn minh sẽ thay
thế loại biên giới chính trị và tư tưởng hệ như đầu
mối của mọi cuộc khủng hoảng và tranh chấp đẫm máu
trên thế giới. Nói cách khác, tất cả các hình thức
chiến tranh từ trước đến nay đều chỉ là một thứ
«nội chiến bên trong nền văn minh Tây Phương. Cuộc
thế chiến lần tới, nếu lại xảy ra, sẽ đối lập các
nền văn minh khác nhau» (1, tr. 247).
Xem văn minh như «một thực thể văn hoá (…), là
hình thức tập hợp văn hoá cao nhất, đồng thời là
nhân tố quy định bản sắc văn hoá rộng nhất của loài
người», được định nghĩa «bằng những yếu tố
khách quan như ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, tập
quán, định chế», và nhất là «bằng cái quá
trình tự đồng nhất hoá chủ quan của những người cùng
chia sẻ các yếu tố ấy» (1, tr. 239), Huntington
phân biệt từ sáu đến tám nền văn minh lớn trên thế
giới (3): Tây Phương, (Kitô Giáo và Tin Lành), Trung
Hoa (Khổng Giáo), Nhật Bản (Thần Giáo, Phật và Khổng
Giáo), Hồi Giáo, Ấn Ðộ (Hindu Giáo), Xlavô (Chính
Thống Giáo), Mỹ-La Tinh, và có thể, Phi Châu Hạ
Sahara. Tuy sự phân định ranh giới còn khá nhiều mù
mờ, điều quan trọng ở đây là: «Phần đông, các nền
văn minh lớn đều tự đồng nhất qua trường kỳ lịch sử
với một đạo giáo (4) lớn. Trái lại,
những tập hợp cư dân cùng một sắc tộc và ngôn ngữ,
nhưng lại không theo cùng một đạo giáo, vẫn có thể
kình chống lẫn nhau, như tại Liban, cựu Liên Bang
Nam Tư, và trên tiểu lục địa Ấn Ðộ»… (1bis, tr.
39).
Vẫn theo Huntington, «cuộc đụng độ giữa các nền văn
minh» sẽ xảy ra ở hai mức độ. Ở mức độ thấp, những
tập hợp tiếp giáp với các nếp gấp giữa các hệ thống
văn hoá sẽ tranh chiến với nhau bằng vũ khí, để xâm
chiếm biên giới, đất đai và xác lập ưu thế của mình.
Ở mức độ cao, những quốc gia có tranh chấp về quân
sự và kinh tế thuộc nhiều nền văn minh khác nhau sẽ
tìm cách kiểm soát các định chế quốc tế, và kết hợp
đồng minh nhằm phổ biến những giá trị đạo giáo chính
trị của mình. Trong bối cảnh mới này, theo ông, nền
văn minh Tây Phương sẽ rơi vào thế cô lập, phải đơn
thân đương đầu với phần còn lại của cả thế giới, với
trước mặt là một liên minh Khổng-Hồi tiềm tàng
(Trung Hoa với một số cường quốc Ả Rập), vừa hùng
mạnh vừa đông đảo.
Tất nhiên, các luận điểm «phiêu lưu» và bi quan của
Huntington đã bị phê phán kịch liệt, và đánh giá như
một kiểu «tiên-tri-tự-thành» (self-fulfilling
prophecy). Ðể trả lời, có lẽ tác giả chỉ cần viện
dẫn những biến cố trên chính trường quốc tế từ sau
cuộc chiến tranh lạnh; nhưng ông còn có thể dựa trên
một đồng minh uy tín khác. Nhìn dưới quan điểm xã
hội hay kinh tế học, «điển mẫu Huntington» (sự
trường tồn và trọng lượng của các giá trị đạo giáo
truyền thống trên quá trình phát triển) hoàn toàn
đối lập với «điển mẫu cổ điển» về vấn đề này (sự
phát triển kinh tế và tiến trình hiện đại hoá là một
hình thức thế tục hoá, có khả năng làm các giá trị
truyền thống và đạo giáo suy đồi). Khởi đi từ ý muốn
kiểm chứng một số luận điểm của Max Weber, nhà xã
hội học Inglehart đã khai thác cuộc điều tra đại quy
mô nói trên về các hệ thống giá trị tại nhiều vùng
văn hoá khác nhau trên thế giới, để đi đến kết luận
rằng, hoàn toàn trái với sự chờ đợi của ông, cuộc
thăm dò dư luận đã bất ngờ xác nhận nhiều giả thiết
của Huntington.
Thứ nhất, đường ranh đạo giáo vẫn còn mạnh mẽ một
cách đáng kinh ngạc trong thập niên đầu thế kỷ
thứ 21 này: tại hầu hết các quốc gia, truyền thống
đạo giáo vẫn tiếp tục quy định hệ thống giá trị
đương đại; và ngay tại những vùng kỹ nghệ hoá, tình
cảm đạo giáo vẫn còn bền chặt, mặc dù việc hành đạo
có phần giảm sút. Thứ hai, các hình thái văn hoá
kết hợp với nhau vô cùng chặt chẽ(trong cùng một
khuôn văn hoá, khi biết giải đáp của người được thăm
dò trên một biến số, nhà thống kê có thể tiên đoán
khá đúng giải đáp của họ trên nhiều biến số khác);
hơn nữa, sự phân lập các vùng đạo giáo - văn hoá
dường như cũng xác nhận trên đại thể những nếp gấp
của Huntington. Ðây là lần đầu tiên điển mẫu «sự
đụng độ giữa các nền văn minh» được đem ra kiểm
chứng bằng phương pháp thực nghiệm, và phần nào được
xác nhận. Tất nhiên, phần nào không có nghĩa là tất
cả, và nhiều luận điểm của Huntington vẫn còn thiếu
tính thuyết phục, chưa nói đến lời phán quyết cuối
cùng, bao giờ cũng chỉ tùy thuộc vào sự diễn tiến
khách quan của lịch sử.
Dù sao, câu kết luận trong bài báo của tác giả có
thể được xem là vô cùng sáng suốt và thận trọng.
«Ðiều mà tương lai dành cho chúng ta không phải là
một nền văn minh phổ quát, mà là một thế giới được
tạo lập bởi nhiều nền văn minh khác nhau, trong đó
mỗi thành viên đều phải học tập sống chung với những
thành viên khác» (1, p. 252). Một yêu cầu hoàn
toàn phù hợp với định đề khai sinh của nhân chủng
học: sự đơn nhất của nhân loại trên cơ sở đa tạp
chủng tộc về văn hoá. Nhưng liệu ngày nay
Huntington còn có thể trông cậy trên những nhận định
tương ứng ở môn học này chăng?
2) NHÂN CHỦNG HỌC: TỪ THUYẾT TIẾN HOÁ
Nhà chính trị học Huntington không phân biệt, hoặc
thậm chí đối lập «văn minh» với «văn hoá», như ở một
số tác giả khác (3). Nhưng thực thể mà ông gọi là
«văn minh»chính là «cái toàn thể phức
hợp bao gồm cả kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo lý, pháp luật, tập quán và những khả năng hay
thói quen khác mà con người đã tiếp thu được như
thành viên của xã hội», tức định nghĩa về
«văn hoá» mà Edward B. Tylor đã đề xuất vào
năm 1871 (xem 5, tr. 2-3). Trở thành định nghĩa
chuẩn của văn hoá từ đấy, nó khẳng định như một định
đề: con người là sinh vật duy nhất do sự sống tập
thể mà sản sinh ra văn hoá, dù nhìn như một đơn vị
của nhân loại hay như thành viên của một xã hội cá
biệt. Các sinh vật khác, dù ít nhiều có trí khôn và
dù biết sống tập thể, cũng chỉ có khả năng thực hiện
được một vài công trình -đôi khi khá phức tạp như tổ
ong- dựa trên bản năng và di truyền. Văn hoá, trái
lại, là sản phẩm của sự sáng tạo và giao tiếp, dù là
văn hoá của loài người nói chung hay văn hoá của một
dân tộc nói riêng.
Văn hoá,
như vậy, chính là sản phẩm đặc thù, là nét
đặc trưng của con người ở mọi cấp bậc. Trước
hết, con người như một sinh vật bình thường, một
thứ «nòi tình» có đủ tất cả mọi nết hay, tật
xấu: đó là văn hoá theo nghĩa của các nhà nhân
chủng học. Nhìn xuống, nó là tất cả những gì con
người đã tạo tác ra để khẳng định sự siêu việt
của mình trên các loài cầm thú, để không bị đồng
hoá với các giống loại thấp kém hơn. Nhìn ngang,
nó là tất cả những gì con người đã sản sinh ra
để đối phó với những thách thức của cuộc sống,
để xác định vị trí và tương quan của mình với
thế giới vô hình, với giới tự nhiên, với cộng
đồng xã hội, với đồng loại, v. v... Sau đó, con
người như một sinh vật thượng đẳng, một thứ «chủ
thể» được lý tưởng hoá với tất cả những đặc tính
cao quý nhất: đó là văn hoá theo nghĩa của các
nhà mô phạm. Bởi vì từ thân phận tầm thường, con
người luôn luôn nhìn lên một vị trí cao đẹp hơn;
do đó, văn hoá, dù trong bối cảnh nào, cũng sẽ
mãi mãi là một tiến trình tự đấu tranh, tự đánh
giá, tự gạn lọc: gìn giữ, vất bỏ, cải đổi, thu
nhận, truyền đạt...
Nhưng chấp nhận văn hoá làm đường ranh giữa con
người với súc vật là tự đặt ngay cho mình hai bài
toán khó. Ðầu tiên, cái khả năng «siêu hiện»
(«émergence»: xuất hiện ở một mức độ cao hơn)
trên mọi giống loài của con người để tạo tác ra văn
hoá này đến từ đâu, và tác động ra sao? Những
nét văn hoá phổ quát tìm thấy trong mọi xã hội
(như luật ngăn cấm loạn luân chẳng hạn) đến từ
tự nhiên (nghĩa là từ não hoặc từ gien), từ nhu
cầu xã hội, hay từ tác động qua lại của cả hai?
Sau đó, nếu nhân loại là một, làm sao có thể
giải thích, hay biện minh cho những bất đồng,
hoặc nhiều khi tương phản về đạo lý, kiến thức,
xã hội… quá hiển nhiên trong nhiều lối sống cực
kỳ khác biệt trên thế giới? Giải đáp cho cặp câu
đố trên đã luân phiên chiếm lĩnh sân khấu lịch
sử của nhân chủng học qua suốt 200 năm tồn tại
(5).
Trước hết, có lẽ nhân chủng học đã thực sự bắt đầu
vào thế kỷ 18, khi nhà tự nhiên học Buffon cho rằng
loài người xuất phát từ một nguồn gốc duy nhất,
song đã tự phân nhánh dưới ảnh hưởng của nhiều vùng
khí hậu khác nhau. Với trào lưu «Khai Sáng» trong
cùng thế kỷ, loài người không những chỉ có cùng gốc
rễ mà còn chia sẻ với nhau một định mệnh chung là
sự «tiến bộ». Do đó, tất cả mọi khác biệt về
văn hoá thực chất chỉ là những chênh lệch trên bậc
thang tiến hoá, tương tự như trong học thuyết
của Charles Darwin về giới tự nhiên (tương tự thôi,
bởi vì ở Darwin, không có giả định tiến bộ mà chỉ có
một sự phân hoá ngày càng phức tạp). Ðứng từ đỉnh
Tây Phương văn minh cực lạc này nhìn xuống, tất cả
các nền văn hoá khác đều chỉ được phép mang một
trong ba nhãn hiệu: «truyền thống», «sơ khai»,
hoặc tệ hơn cả là «mọi rợ ».
Tự trang bị bằng «thuyết tiến hoá»
(«evolutionism»), từ thế kỷ 19 các nhà nhân
chủng học thi nhau phát hiện bao nét «mới lạ» qua
loại bút ký, trần thuật của các giới thương khách,
thực dân và thám hiểm: nào là «chế độ mẫu hệ»
(«matriarchy» - Johannes Bachofen), «chuyên chế phụ
quyền» («patriarchal despotism» - Henri S. Maine),
nào là tục «tạp hôn sơ khai» và «hôn chế dị tộc»
(«primitive promiscuity», «exogamy» - John
MacLennan), tục «sùng bái vật tổ» («totémism» -
James G. Frazer); nhưng nổi tiếng hơn cả là khái
niệm «não trạng sơ khai» («mentalité
primitive») của Lucien Lévy-Bruhl. Khởi đầu là
người nghiên cứu về đạo lý và chính trị, sự
nghiệp nhân chủng học của tác giả đột phát vì
những khó khăn vấp phải khi ông phiên dịch sang
Pháp ngữ một số tác giả và tác phẩm… Trung Hoa.
Từ 1910, ông xây dựng một học thuyết khá đồ sộ
chung quanh quan điểm là có một thứ não trạng
hoàn toàn đối lập với đầu óc thuần lý Tây
Phương, cho đến khoảng 1935, khi ông bắt buộc
phải thú nhận rằng giả thuyết của mình là hoàn
toàn không thể bảo vệ được. Ngược lại,
cũng chính nhờ sự phê phán đích đáng những suy
diễn quá giản lược trong việc áp dụng chủ thuyết
Darwin vào xã hội con người ở thuyết tiến hoá mà
ngành nhân chủng học trong thế kỷ 20 đã có thể
tự lột xác.
Suốt hai thập niên 1930-1950, «chức năng luận»
(«fonctionnalism») dần dần lấn át thuyết tiến
hoá tại Anh Quốc. Trường phái mới này thực hiện
những cuộc nghiên cứu thực địa, không quan tâm mấy
đến lịch sử, và từ chối xếp các nền văn hoá trên
cùng một bậc thang tiến hoá. Ðối với Bronislaw
Malinowski, thay vì là dấu vết của sự tiến hoá,
mỗi yếu tố nhân văn trước hết đáp ứng một nhu cầu
tập thể, nghĩa là đảm nhận một chức năng
nào đấy trong hệ thống xã hội (như một cơ quan trong
thân người), và do đó, nó chỉ có thể được hiểu trong
tương quan với toàn bộ hệ thống. Theo lối phân tích
của các tác giả đồng quan điểm này, chức năng tạo
ra định chế xã hội và mọi kiến trúc văn hoá thượng
tầng khác. Alfred R. Radcliffe-Brown nghiên cứu
các nhu cầu và chức năng ấy dưới góc cạnh tái sản
xuất các quan hệ xã hội, và đánh giá mỗi đơn vị
văn hoá như một giải đáp, độc đáo và chặt
chẽ, cho cùng một số thách đố phổ quát của loài
người.
Ở Mỹ, «văn hoá luận» («culturalism») cũng
thắng thế từ thập niên 1930. Khuynh hướng này xem
văn hoá như một siêu thực thể biệt lập với
mọi cá nhân và quan hệ xã hội, một thứ di sản
truyền từ đời này sang đời khác với những đổi thay
thường không mấy đáng kể, nghĩa là một thứ bản chất
thứ hai quy định «cá tính cơ bản» («basic
personnality») của mỗi thành viên trong xã hội
(«văn hoá là di truyền xã hội», Ralph Linton,
1936). Người đứng đầu trường phái, Franz Boas, cũng
được xem là cha đẻ của «chủ nghĩa tương đối» trong
nhân chủng học, khi ông khẳng định rằng không một
nền văn hoá nào tiến hoá hơn cái khác, mỗi nền
văn hoá là một chỉnh thể độc đáo mà phong cách
riêng được thể hiện qua ngôn ngữ, tín ngưỡng,
tập tục, phong cách, nghệ thuật, v. v…
Từ thập niên 1950, «cấu trúc luận»
(«structuralism») cũng thao túng các ngành học
thuật tại Pháp. Áp dụng những thành tựu của ngôn ngữ
học vào các hệ thống biểu hiệu (systèmes
symboliques), Lévi-Strauss cho rằng các sản phẩm
văn hoá dù khác biệt đến đâu cũng đều được xây dựng
theo một số quy luật chung, dựa trên những cấu trúc
trí tuệ trừu tượng phổ quát của con người (như
đối lập, giao hoán, hoán vị, phân loại…). Mặc dầu
hai tựa đề phảng phất giống nhau, tác phẩm «Tư
Tưởng Hoang Dã» («La Pensée Sauvage»,
1962) của ông hoàn toàn phủ định «Não Trạng Sơ
Khai» («La Mentalité Primitive»,
1922) của Lévy-Bruhl: khoa học Tây Phương và pháp
thuật Phi Châu là hai loại «kiến thức» song song chứ
không phải nối tiếp, chúng khác nhau về hiệu lực
song vẫn sử dụng cùng một số thao tác trí tuệ dựa
trên những đồ thức (schèmes) phổ quát của tư duy con
người. Do đó, các nền văn hoá khác biệt chỉ là
những biến tấu trên cùng một chủ đề, và đều đáng
kính trọng như nhau, bởi vì không có một tiêu chuẩn
hợp nhất nào cho phép ta kết luận rằng cái này là
cao hơn cái kia về mọi mặt, để biện minh cho việc
sắp xếp chúng trên một bậc thang tiến bộ duy nhất
cả. Ngoài «cấu trúc» («structure»), nhiều tác
giả Pháp cùng môn phái còn sử dụng đồng thời hai
khái niệm khác là «cấu trúc hoá»
(«structuration») và «tái cấu trúc»
(«restructuration») để nhấn mạnh trên tính năng
động của các hiện tượng và sự uyển chuyển của
phương pháp nghiên cứu.
Mặt khác, các lý thuyết dựa trên sinh học,
gọi chung là «chủ nghĩa Darwin xã hội»
(«Darwinisme social», cũng ào ạt quay lại từ
thập niên 1970 ở Mỹ, với nhiều quan điểm mới. Các
nguyên tắc «chọn lọc (đào thải) tự nhiên» và
«tiến hoá» vẫn còn được xem như loại sơ đồ
trừu tượng thích hợp cho việc hình dung ra tính năng
động của các nền văn hoá, nhưng văn hoá không còn là
phó sản phẩm đơn thuần của những điều kiện sinh lý
nữa mà tồn tại như một lãnh vực có vận động riêng.
Theo Edward O. Wilson, quy luật chọn lọc tự nhiên
hỗ trợ các gien đã mang sẵn một tính năng nào đó
tiếp nhận thêm những nét văn hoá tương ứng, rồi các
bộ phận văn hoá được triển khai từ vựa di truyền bẩm
thụ này ảnh hưởng trở lại trên các gien, cứ thế
gien bẩm năng và nét văn hoá tương tác tạo ra một
thứ gien tinh thần trong quá trình tiến hoá. Nhà tập
tính học (éthologist) Richard Dawkins xem nền văn
hoá của mỗi nhóm người như một tập hợp những đơn vị
mà ông gọi là «mem» («memes») hay «gen
văn hoá» («culturegenes») - tức là những ý tưởng
sơ đẳng của một nền văn hoá (như ý tưởng Thượng
Ðế, ý tưởng lửa, v. v…); các mem có thể liên kết
với nhau tạo ra những phức hợp để tăng sinh lực
trong cuộc cạnh tranh sống còn (Allah + lửa địa
ngục =… Thánh Chiến?). Mem được gieo truyền từ
não này sang não khác chủ yếu thông qua phép mô
phỏng; sự sao phỏng đôi khi có cải biến, và các
mem biến tính sẽ hoặc biến mất hoặc nẩy nở theo
quy luật tiến hoá để tăng cường hay cản trở tính
năng động của toàn bộ hệ thống.
Nhưng quan trọng nhất vào cuối thế kỷ 20 là chủ
nghĩa «tương đối văn hoá hậu hiện đại»
(«post-modern cultural relativism»)trong các
ngành khoa học xã hội nói chung - phản đề cực đoan
trước một thứ học thuyết lấy Tây Phương làm trung
tâm vẫn chưa chịu cáo chung. Tiếp nối văn hoá luận
Mỹ trong ý nghĩ (khá phổ biến từ giữa thế kỷ 20) là
nhà khoa học không thể nào xếp hạng các nền văn hoá,
bởi vì không thể dùng giá trị của bất cứ một tập hợp
văn hoá nào để đánh giá các tập hợp khác, nhiều tác
giả đã nhảy từ phán đoán giá trị sang phán đoán thực
tại, khi khẳng định rằng mỗi nền văn hoá tương
ứng với một thế giới quan hoàn toàn biệt lập -
nghĩa là, do cả ngôn ngữ (mỗi thứ tiếng tự nó cũng
đã là một thế giới quan biệt lập), phương thức tư
duy («não trạng sơ khai», «não trạng lý tính») lẫn
hệ thống giá trị (cái «thiện Phương Ðông», cái «đẹp
Tây Phương») đều sai khác, giữa các nền văn hoá
không thể nào có sự hiệp thông, hiểu biết, thông cảm
với nhau, mà chỉ vĩnh viễn có sự vô thông ước.
Nhưng nếu quả thật là không có cơ sở gì để đối
chiếu hay so sánh các tập hợp văn hoá với nhau,
thì cũng không làm gì có một bộ môn nhân chủng
học hay văn hoá học đáng gọi là khoa học, mà chỉ
có những biểu văn vô giá trị, bởi vì vừa bất
tương hợp vừa có thể sai bét từ đầu đến cuối. Sự
cảm thông sẽ là một ngoại lệ, hay một trường hợp
cá biệt của ngộ nhận nếu thích nói tếu - và quy
luật ngộ nhận phổ quát có thể dẫn đến cái gì
khác, ngoài sân si, khinh miệt, oán thù, và
chiến tranh, y hệt như cái biểu đề mà chủ nghĩa
tương đối văn hoá được đặt ra để phủ nhận?
Nếu lời nói đầu trong tuyên ngôn ra đời của cơ quan
văn hoá Liên Hiệp Quốc Unesco là đúng –«chiến
tranh bắt nguồn từ tâm trí con người» (…), và từ
«sự thiếu cảm thông giữa các dân tộc»-, thì
chủ nghĩa tương đối văn hoá hậu hiện đại đang vô
tình góp phần xây nền cho các cuộc thánh chiến
sắp tới.
3) «KHOA HỌC VỀ CÁC XÃ HỘI NHÌN TỪ BÊN NGOÀI»:
NHỮNG ẢO GIÁC VÀ TRỰC GIÁC CỦA NHÂN CHỦNG HỌC
Trên chợ trời kiến thức, nhân chủng học thường phất
phơ giữa một nhãn hiệu thực tế -«khoa học về
các xã hội nhìn từ bên ngoài» -, và
hai đánh giá trái ngược. Ðồng tình tích cực: cái
nhìn từ bên ngoài là một bảo đảm khoa học, «vì người
trong cuộc thường không đủ khách quan để tự tìm hiểu
mình một cách đúng đắn». Nghi vấn tiêu cực: «làm sao
người ngoài có thể hiểu được những phong tục, tín
ngưỡng, tình cảm thâm sâu của một dân tộc mà họ
không phải là thành viên?», kiểu nghiên cứu này là
đầu mối của mọi ngộ nhận! Dù sao, trước sự thiếu
vắng của một đội ngũ chuyên gia xuất thân từ các
nước Nam bán cầu, nhân chủng học quốc tế vẫn chủ yếu
là một khoa học Tây Phương, với tất cả những thành
tựu chân xác cũng như các huyền thoại, ngụy thuyết
của nó.
Trước hết, những ảo giác. Ở đây, nhiều học
thuyết và khái niệm đã trở thành văn chương huyền ảo
để cuối cùng, sau một thời gian ngự trị, bỗng «cuốn
theo chiều gió» trong chớp mắt: bên cạnh não trạng
sơ khai nói trên, câu chuyện vật tổ là một điển hình
khác. Cũng không thiếu gì những chuyện cười ra nước
mắt, xứng đáng được ghi lại trong các pho tiếu lâm
của bất cứ dân tộc nào. Ðiều đáng lưu ý là hầu như
tất cả mọi ảo giác này đều xuất phát từ định kiến
đi tìm một sự đối lập triệt để, tuyệt đối nào đó
giữa nền văn minh Tây Phương với các hệ thống văn
hoá khác.
Ðược miêu tả phần lớn trong loại bút ký của giới
thương gia và thám hiểm vào cuối thế kỷ 18, hiện
tượng «vật tổ» («totem») được John F.
MacLennan liên hệ với tổ chức thị tộc, tục thờ cúng
linh vật, những ngăn cấm giới tính và kiêng kỵ thực
phẩm, rồi lý thuyết hoá từ năm 1865 (trong một đề
mục nổi tiếng ở «Chamber's Encyclopedia»)
như một giai đoạn phổ quát của xã hội loài người.
Trở thành định chế nền tảng của tôn giáo và xã hội,
đây là đối tượng nghiên cứu của hầu hết những tên
tuổi lớn trong môn học. Ngoài «Vật Tổ và Cấm
Kỵ» («Totem und Tabu», 1912)
của Sigmund Freud -nơi mặc cảm Oedipe chào đời, đồng
thời là một bi kịch hùng tráng ngang ngửa với những
kịch bản trứ danh nhất của Shakespeare-, còn có
«Tín Ngưỡng Vật Tổ và Hôn Chế Dị Tộc» («Totemism
And Exogamy», 1910) của James Frazer và
«Những Hình Thái Sơ Ðẳng Của Ðời Sống Tôn Giáo»
(«Les Formes Elémentaires De La Vie
Religieuse», 1912) của Emile Durkheim. Nhưng
từ thập niên 1930, thuyết tín ngưỡng vật tổ bắt đầu
tan rã: các nhà nhân chủng học lớp sau dần dà chứng
minh được rằng vật tổ là một hiện tượng đa dạng và
đa nghĩa, không luôn luôn có những liên hệ mà
MacLennan giả thiết ở trên. Trong «Tín Ngưỡng
Vật Tổ Ngày Nay» («Le Totémisme
Aujourd’hui», 1962) Claude Lévi-Strauss chỉ
giữ lại yếu tố chính: sự lấy tên động vật, thực vật
hay hiện tượng tự nhiên để đặt cho thị tộc, và xem
đấy như là cách một thị tộc xác định sự tồn tại biệt
lập của mình đối diện với các thị tộc khác; sự phân
cắt xã hội thành từng vật tổ thị tộc như vậy, theo
Lévi-Strauss, chỉ biểu hiện một đặc tính của trí óc
con người: nhu cầu tư duy về thế giới chung quanh
bằng cách sắp xếp nó theo những phạm trù lý trí.
Khi người Bororos, một sắc dân trong vùng Amazonie
tự hào họ là những con Araras (một giống két to
nhiều màu), nhà dân tộc học Ðức Karl Von den Steinen
lúc đầu không muốn tin, nhưng rốt cuộc rồi cũng phải
công nhận rằng khi nói như thế, họ không hề ám chỉ
đến kiếp trước hay kiếp sau, hoặc đang làm văn nghệ,
mà khẳng định họ thực sự là những con araras
trong hiện tại. Câu chuyện kỳ quái này có một sự
nghiệp khoa học khá đồ sộ, và đã làm không chỉ các
nhà nhân chủng học tiếng tăm (ngoài Lévy-Bruhl, còn
có Emile Durkheim, Marcel Mauss, Clifford Geertz) mà
cả các giới bác học khác (nhà tâm lý giáo dục Lev
Vygotsky, triết gia Ernst Cassirer) cũng phải bận
tâm bình luận lai rai suốt từ năm 1897. Ðể vỡ lẽ,
nhà nhân chủng học Christopher Crocker trở lại tận
nơi để điều tra, và công bố các chi tiết sau vào năm
1977: 1) trong xã hội Bororos, chỉ có đàn ông tự
nhận mình là araras, một thứ két do đàn bà nuôi dạy;
2) quan hệ gia tộc ở đây được tổ chức theo mẫu hệ,
và người chồng phải về sống bên nhà vợ. Phải cần đến
80 năm để hiểu một phúng dụ mà các lão tổ Bororos
dùng để chế diễu thân phận nam nhi của mình! «Não
trạng sơ khai» hoàn toàn trái ngược với «lý tính
Tây Phương» , song lại khá gần gũi với «óc hài hước
British»? Theo Nicolas Journet, người kể lại câu
chuyện lý thú này, còn có cả ngàn trang như vậy
trong biết bao sách bác học (5, tr. 164).
Ðiều may mắn là không chỉ có ảo giác. Dù nhìn từ
bên ngoài, đây là cái nhìn của đồng loại. Và trừ
phi giản lược nhân loại vào một tập hợp dã thú đi
bằng hai chân, có ngôn ngữ và lý trí, song vẫn chỉ
biết sống nhờ bản năng và di truyền, không thiết cả
tư duy lẫn sáng tạo, hay trao đổi và học hỏi…, thì
khái niệm «nhân loại» bắt buộc phải có một nội
dung văn hoá (như cùng chia sẻ một số giá trị
chẳng hạn). Tất nhiên, các nền văn hoá đều khác
nhau, song có thật là khác đến độ trở thành «vô
thông ước», khi con người cùng có chung một cơ cấu
sinh lý, một cấu trúc trí não, cùng phải sống thành
cộng đồng? Ở đây, mỗi trường phái nhân chủng học
thật ra đều dựa trên một số trực giác khả thủ, dù
nhiều khi đã khai thác chúng quá lố theo một hướng
nào đó.
Ngay cả ở thuyết tiến hoá. Ngày nay, những điều
có thể được xem như đã bị phủ nhận là sự áp đặt các
vùng Tây Âu - Bắc Mỹ như khuôn mẫu văn hoá, là quan
niệm lịch sử đơn tuyến, là chủ nghĩa khoa học
(sự tin tưởng rằng khoa học có thể giải quyết mọi
vấn đề, rằng tiến bộ khoa học sẽ kéo các lãnh vực
khác cùng tiến theo) - nghĩa là hệ tư tưởng lấy
Tây Phương làm trung tâm. Nhưng sự từ
chối sắp xếp các nền văn hoá trên cùng một bậc thang
tiến hoá (vì không có tiêu chuẩn hợp nhất nào cho
phép thiết lập một trật tự toàn bộ như thế), không
có nghĩa là trong một lãnh vực nào đó và dưới một
góc cạnh nào đó, người ta không thể so sánh các giải
đáp của hai đơn vị văn hoá trên cùng một vấn đề liên
hệ. Có thể xem khoa học và pháp thuật là bình đẳng
về nhân phẩm, vì chúng cùng sử dụng một số thao tác
trí tuệ dựa trên những đồ thức phổ quát của tư duy
con người, nhưng chắc chắn không thể đặt chúng ngang
hàng về mặt hiệu lực trong việc tạo tác tiện nghi
vật chất cho xã hội. Bài bác thuyết tiến hoá xã
hội và chủ nghĩa tiến bộ không bắt buộc phải đồng
nghĩa với sự tự bịt mắt trước những bước tiến có
thật vô cùng hiển nhiên trong một số lãnh vực hạn
định.
Dù các quan điểm mới của loại học thuyết mang tên
«Darwin xã hội» nói ở phần trên chưa hội đủ tính
thuyết phục, cái trực giác đáng lưu giữ ở đây là vai
trò của hạ tầng sinh lý trong việc xây dựng thượng
tầng văn hoá. Trừ phi chủ xướng rằng con người khắp
năm châu không thuộc về cùng một giống loài, khác
biệt về văn hoá chỉ có thể biến thiên trên cùng một
cơ sở sinh lý, một cấu trúc trí não. Về quá
trình học tập chẳng hạn, các khoa học nhận thức ngày
nay đều cho rằng trí não con người không tài nào
tiếp thu nổi lượng thông tin khổng lồ phải vận dụng
nếu không được thiên nhiên chuẩn bị trước. Theo Noam
Chomsky, trẻ em không thể học ngôn ngữ nếu không có
chương trình tương ứng lập sẵn trong não; điều này
có nghĩa là, dù cấu trúc của Hoa ngữ và Pháp ngữ
chẳng hạn khác nhau đến đâu, các ngôn ngữ tự nhiên
đều cùng thuộc về một loại. Qua nhiều cuộc nghiên
cứu thực nghiệm, tâm lý học nhận thức cũng chứng
minh rằng ngay trẻ thơ, dù không cùng văn hoá song
nếu được dạy dỗ đứng đắn, cũng có thể thu nhận những
ý niệm căn bản (như nhân quả, thời gian, vật thể,
sinh vật, quan hệ, v. v…) một cách dễ dàng và nhanh
chóng do được chuẩn bị sẵn. Như vậy, những khác biệt
về nhận thức giữa các nền văn hoá chắc chắn là có,
nhưng thực ra chúng chỉ là những biến thiên từ một
tiến trình học tập phổ quát mà chương trình đã được
lập sẵn trong não.
Từ định nghĩa văn hoá như một hệ thống ký hiệu do
con người tạo tác và sử dụng để hiệp thông với nhau,
mặt thái quá của chủ nghĩa tương đối văn hoá có lẽ
đã xuất phát từ việc vừa quay lại lấy ngôn ngữ làm
nền tảng cho văn hoá, vừa xem mỗi ngôn ngữ như một
thế giới quan biệt lập. Ở đây, giả thuyết
Sapir-Whorf (Edward Sapir và Benjamin L. Whorf)
thường được viện dẫn làm cơ sở, với các luận điểm
sau: 1) mỗi ngôn ngữ là một cách thức mô tả thế
giới khác nhau (hành động, vận động, không gian,
thời gian, v. v…); 2) mỗi nền văn hoá đều bị quy
định bởi «phần hạ tầng» của ngôn ngữ qua đó nó
được thể hiện hàng ngày, và phần này chính là nơi
chôn giấu những cách thức tư duy của ngôn ngữ
mà Whorf gọi là «ẩn mô» (cryptotypes); 3) do
đó, những người sử dụng ngôn ngữ khác nhau sẽ không
tư duy về thế giới và không nhận thức không gian,
thời gian, v. v… giống nhau. Nói cách khác, cấu
trúc văn phạm và từ vựng của ngôn ngữ quy định vô
cùng chặt chẽ phương cách con người nhận thức và tư
duy (6). Thường được viện dẫn để bênh vực
giả thuyết Sapir-Whorf là những cuộc nghiên cứu về
nhận thức màu sắc trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc
khác nhau: nói chung, sự phân loại màu sắc rất co
giãn và dường như không theo một quy luật nào cả.
Nhưng năm 1969, một cuộc điều tra thực địa của Brent
Berlin và Paul Kay đã đưa ra kết quả trái ngược: lần
này, sự phân loại màu sắc trong mọi ngôn ngữ đều
tuân theo những quy luật đồng nhất (dù thuộc nền văn
hoá nào, người được thăm dò cũng nhìn nhận trắng,
đen, đỏ, vàng như những màu nguyên, và loại bỏ nâu,
tím chẳng hạn). Do đó, có thể xem là chính di sản
sinh lý chung của con người đã quy định sự nhận thức
và phân loại nói chung, và màu sắc nói riêng, độc
lập với những biến thiên văn hoá. Từ thập niên 1970,
loại luận điểm bẩm sinh (mọi khuôn khổ tư duy của
con người đều bị quy định bởi các cơ chế thần kinh
tâm lý căn bản và phổ quát) ngày càng thắng thế, nhờ
những công trình của Jean Piaget bên tâm lý học
(những giai đoạn bắt buộc của sự phát triển tư duy
lôgic), và của Noam Chomsky trong ngôn ngữ học (cấu
trúc ngôn ngữ bề sâu). Tuy trường phái bẩm sinh chưa
đưa ra được chứng cớ thuyết phục về những cấu trúc
ngữ nghĩa phổ quát nằm trong mọi ngôn ngữ tự nhiên,
giả thuyết Sapir-Whorf có lẽ cũng đã hết hiệu lực.
Muốn tiếp tục tác động, ngày nay chủ nghĩa tương đối
văn hoá cần phải tìm ra những điểm tựa khác.
Ngoài cơ sở sinh lý chung, con người còn là sinh vật
sống trong xã hội. Dù bị phê phán rất đúng là thiếu
kích thước lịch sử, chức năng luận đã đền bù bằng
một số trực giác thích đáng cho việc nghiên cứu hệ
thống ký hiệu gọi là văn hoá, bằng cặp khái niệm
«nhu cầu» - «chức năng». Mọi nền văn
hoá đều có thể được xem như một giải đáp có tổ chức
của xã hội trước những nhu cầu tập thể cơ bản.
Ngoài loại nhu cầu vật chất sơ đẳng (lương thực,
quần áo, nhà cửa…) còn có những nhu cầu tinh thần
(hiểu biết, hành xử, tiêu khiển…); do đó, xã hội nào
cũng phải có ở thượng tầng một số tiêu chuẩn để phân
biệt đúng/sai (ở đâu cũng có một số hiểu biết sơ
đẳng), phải/trái (ở đâu cũng có một số ngăn cấm),
khoái lạc/bực bội (ở đâu cũng có một số hình thức
nghệ thuật). Mặt khác, từ bó buộc tiếp xúc với bên
ngoài, mọi xã hội đều có nhu cầu đổi mới (những xã
hội tự khép kín hoặc đã bị tiêu hủy, hoặc đang trên
đường diệt vong); và do đó, cũng phải có tiêu chuẩn
để hiệp thông, gạn lọc (gìn giữ, vất bỏ, thu nhận…)
trước những yếu tố ngoại lai. Nói cách khác, xã hội
nào cũng phải có một số giá trị cơ bản, được biểu
hiện bởi các nét văn hoá hoặc định chế mà chức năng
là hướng dẫn mọi thành viên xã hội theo định hướng
chung, trong hai tiến trình quyết định khả năng sống
còn là hấp thụ nền văn hoá của tổ tiên để lại
(enculturation) và biến dung văn hoá (acculturation)
do sự cọ xát với các loại giải đáp tập thể khác.
4) NHÌN LẠI CHỦ NGHĨA TƯƠNG ÐỐI VĂN HÓA
Trong sự cọ xát, vấn đề căn bản là phản ứng trước
những khác biệt văn hoá. Thuyết tiến hoá ở thế kỷ 19
bày tỏ thái độ trịch thượng của Tây Phương trước
thách thức này, và chủ nghĩa tương đối văn hoá
ngày nay, trong vai trò phản đềcủa nó buổi đầu, muốn
biểu lộ một thái độ trái ngược, ít ra là trên lý
thuyết. Ðặt các hệ thống văn hoá trên bậc thang tiến
bộ của khoa học - một sản phẩm của lý trí - thuyết
tiến hoá đã vô tình áp đặt quy phạm của Tây Phương
cho toàn thể các đơn vị văn hoá khác trên thế giới.
Ngay cả chủ nghĩa tương đối văn hoá cũng có thể được
xem như đã manh nha từ yêu cầu khách quan của khoa
học: từ nay, các nhà nhân chủng học không thể tiếp
tục chỉ dựa trên những giá trị tinh thần của Âu Mỹ
để nghiên cứu các xã hội khác, mà còn phải khảo sát
loại đối tượng này thông qua hệ thống giá trị và
những quy phạm tập thể của họ. Nhưng để luận điểm về
phương pháp này của văn hoá luận trong nhân chủng
học Hoa Kỳ ở thập kỷ 1920-1930, nói cho cùng khá hợp
lý và đáng bàn cãi, có cơ hội lột xác thành một
hệ tư tưởng hoàn toàn cực đoan và mang khuynh hướng
hư vô chủ nghĩa vào cuối thế kỷ 20, cần phải có
một bối cảnh quốc tế đặc biệt nghiêm trọng.
Một mặt, các nền văn minh ngoài Tây Phương chợt thức
giấc sau nhiều thế kỷ mê ngủ, mang theo khao khát
vươn dần lên vai trò chủ thể của lịch sử; mặt khác,
sau hai cuộc thế chiến và không khí chiến tranh lạnh
kế tiếp, Tây Phương trải qua một cuộc tổng khủng
hoảng giá trị trầm trọng. Hai loại chế độ toàn
trị, một hữu (chế độ Quốc Xã, kẻ đã gây ra cuộc thế
chiến và diệt chủng khoa học nhất của loài người),
và một tả (chế độ Cộng Sản, kẻ đã tạo ra bộ máy đàn
áp cũng tinh vi nhất lịch sử, bên cạnh nhiều cuộc
tàn sát tập thể khổng lồ trong suốt thế kỷ 20), cùng
đánh dấu sự phá sản về mặt đạo lý của nền văn
minh Tây Phương, đồng thời lột trần tính chất huyễn
hoặc của «siêu tự sự» tiến bộ đặt trên sự phát triển
của khoa học và lý trí. Rồi cuộc khủng hoảng tinh
thần ngày càng lún sâu và khuếch rộng hơn nữa, khi
ngay chính lý trí, cái giá trị mấu chốt của
Tây Phương từ thế kỷ Khai Sáng, cũng chao đảo -
nghĩa là khi gần như tất cả mọi bộ môn khoa học đều
thi nhau rơi vào tình trạng khủng hoảng nền móng lâu
dài.
Chính trong bối cảnh này mà chủ nghĩa tương đối văn
hoá đã trở thành một thứ hệ tư tưởng phổ biến vào
cuối thế kỷ 20. Tất cả đều bị tương đối hoá, đôi khi
còn gọi là «giải lập» (déconstruction), thực chất là
bạch hoá, từ hiện thực (hiện thực là một kiến
trúc của ngôn ngữ, nghĩa là của xã hội), chân lý
(chân lý là cái mà một xã hội hay một cộng đồng tin
là đúng), đến lý trí (mỗi xã hội đều có những
phương thức tư duy riêng biệt) và giá trị nhân
văn (mọi giá trị đều là chọn lựa của một xã hội
đặc thù, không có những giá trị nhân loại phổ quát).
Không có một hiện thực, nhưng có bao nhiêu ngôn ngữ
thì có bấy nhiêu hiện thực. Không có một chân lý,
chỉ có những ý kiến hay tín niệm. Không có một lý
trí duy nhất, mà mỗi xã hội đều có phương thức tư
duy riêng. Còn các giá trị nhân văn thì vô cùng đa
tạp, song chỉ có ý nghĩa và hiệu lực trong lãnh địa
của một hệ thống văn hoá, và không thể di chuyển
sang, hay bị áp đặt lên một đơn vị khác (sự tôn
trọng nhân quyền là một giá trị Tây Phương, không có
chỗ đứng trong hệ thống giá trị Châu Á chẳng hạn).
Tóm lại, nhìn dưới khiá cạnh phân tích, chủ nghĩa
tương đối văn hoá có thể được biểu hiện qua ba vế
sau: 1) Mỗi yếu tố trong một nền văn hoá chỉ có thể
được đánh giá thông qua các quy phạm của đơn vị văn
hoá đó; 2) Không có những quy phạm trung lập hoặc
liên văn hoá để đánh giá các nền văn hoá khác nhau,
hay những yếu tố khác nhau bên trong một đơn vị văn
hoá; 3) Vì không có loại thông ước ấy, không một nền
văn hoá nào có thể được xem là hoàn hảo hơn hoặc
tiến bộ hơn một hệ thống văn hoá khác. Nói cách
khác, mỗi đơn vị văn hoá là một thứ «đơn tử khoá
kín không cửa sổ» («self-enclosed windowless
monad») (7). Ở đây, chủ nghĩa tương đối văn hoá
hậu hiện đại gặp lại Rudyard Kipling - nhà văn, nhà
thơ, nhà tư tưởng của Ðế Quốc Anh khoảng cuối thế kỷ
19 - đầu thế kỷ 20. «Ðông là Ðông, Tây là Tây,
Ðông Tây không bao giờ gặp nhau».
Phải đánh giá chủ nghĩa tương đối văn hoá như thế
nào? Phải chăng đây là một giá trị phổ quát của nhân
loại? Chắc chắn là không, vì chủ nghĩa tương đối văn
hoá phủ nhận loại giá trị phổ quát ấy. Như vậy,
nó chỉ có thể là một giá trị đặc thù của nền văn hoá
Tây Phương; song trong trường hợp này, theo
chính quan điểm của chủ nghĩa tương đối văn hoá,
nó không thể tự áp đặt hay được áp dụng trên bất cứ
một đơn vị văn hoá nào khác,mà chỉ có hiệu lực
bên trong hệ thống đã sản sinh ra nó. Và
ngay cả trong nôi sinh của mình, chủ nghĩa tương đối
văn hoá cũng không thể tự xưng là chân lý, bởi
vì nó cũng phủ nhận luôn cả sự phân biệt đúng/sai,
mà chỉ có thể được xem là một quan điểm hay tín
niệm, hoàn toàn bình đẳng với hàng trăm, hàng nghìn
quan điểm hay tín niệm cùng loại. Nói cách khác,
đánh giá từ quan điểm phản tỉnh của chính nó, chủ
nghĩa tương đối văn hoá chỉ là một sản phẩm của loại
ngôn ngữ Ấn Âu, và chỉ phù hợp với phương thức tư
duy của các xã hội và các dân tộc Âu Mỹ vào thời
tổng khủng hoảng - nói tóm lại, một thứ giá trị văn
hoá «cuối thế kỷ» của Tây Phương đương đại.
Ðiều kiện để chủ nghĩa tương đối văn hoá được công
nhận khắp nơi là nó phải khoác loại áo mão cao cấp
hơn, hoặc như chân lý, hoặc như một giá trị phổ quát
toàn nhân loại - nghĩa là tự phủ nhận tính tương
đối của mình. Mặt khác, nó chỉ thực sự có nghĩa
trong một thế giới được cấu tạo bởi những ốc đảo văn
hoá có thể được nhận diện và phân biệt một cách đại
khái chấp nhận được - nghĩa là dựa trên giả định là
có những đơn vị văn hoá tách bạch, rõ nét; đây là
một khung cảnh ngày càng hiếm thấy, nếu không muốn
nói là đang tan biến. Ngày nay, mọi hệ thống văn hoá
đều đan chéo và xâm nhập vào nhau, do sự di dân và
trộn lẫn ngày càng nhiều của các sắc dân khác văn
hoá ở khắp nơi trên địa cầu. Và nếu cảnh tượng này
thường làm nảy nở những khác biệt và tranh chấp
quyền lợi, cả vật chất lẫn tinh thần, nó cũng đồng
thời xác định rằng sự vô thông ước giữa các hệ
thống ngôn ngữ và văn hoá chỉ là một giả định thái
quá, bởi vì muốn bất đồng thì cũng phải dựa trên
cơ sở là có trao đổi, và muốn trao đổi thì chí ít
cũng phải hiểu nhau nói cái gì! Nếu quả thật là sự
kiện hai hệ thống màu sắc khác nhau trong ngôn ngữ
hàm nghĩa rằng, trong một chừng mực nào đó, chính
khái niệm sắc màu cũng không hoàn toàn trùng hợp
giữa hai ngôn ngữ, thì ít ra trong cả hai ngôn ngữ,
người ta cũng phải công nhận rằng đấy là những hệ
thống màu sắc, nghĩa là cùng thuộc về một lãnh vực.
Ngoài tính tự phản bác (self-refuting) ở mức độ tổng
thể, chủ nghĩa tương đối văn hoá còn dẫn đến sự vô
hiệu ở mọi mức độ sinh hoạt. Trong lãnh vực hành
động chẳng hạn, con người sẽ hoàn toàn bó tay
trước yêu cầu phải đưa ra một phán đoán đạo lý phổ
quát, nếu quả thật là: 1) Một hành động chỉ có
thể được đánh giá là phải hay trái đối với các quy
tắc đạo lý của một cá nhân hay một tập hợp, một xã
hội hay một đơn vị văn hoá nào đó; và 2) Không có
những tiêu chuẩn hay mẫu mực khách quan, vô tư,
không độc đoán, liên cá nhân, liên tập hợp, liên xã
hội và liên văn hoá… để đánh giá những quy tắc đạo
lý thuộc các hệ thống văn hoá khác nhau. Ðược quan
niệm như loại chủ thuyết có thể hướng dẫn con người
đến một thái độ bao dung (tolerance) hơn trong cuộc
sống, trên thực tế nó cũng có thể được sử dụng, hoặc
để khước từ mọi hành động trách nhiệm, hoặc ngay cả
nhằm biện minh cho bất kỳ tội ác nào - nghĩa là một
thái độ đúng hơn nên gọi là«buông thả»(sự
nhắm mắt cho phép tất cả - «permissiveness»).
Thử giả định một thế giới mà trật tự công cộng được
xây dựng trên chủ nghĩa tương đối văn hoá, với hai
xã hội A và B theo hai tôn giáo khác nhau chẳng hạn.
Giả định thêm rằng theo tín ngưỡng của A, việc bành
trướng đức tin sang các nước láng giềng là một bổn
phận của mọi tín đồ công dân, và quy phạm này ăn
khớp chặt chẽ với mọi nét văn hoá khác của A. Khi
xâm lăng B để áp đặt tôn giáo của mình, A chỉ làm
một việc «morally correct» (vì A chỉ hành động theo
một quy tắc văn hoá của mình), và do đó, nếu B còn
có quyền phản kháng (dù B cũng chỉ nhằm bênh vực giá
trị văn hoá riêng của mình), tất cả mọi quốc gia
khác đều phải khoanh tay đứng nhìn cảnh «cá lớn nuốt
cá bé», vì hoàn toàn không thể dựa trên một cơ sở
nào để can thiệp. Thí dụ khá đơn giản trên của một
nhà xã hội học không hoàn toàn chỉ là chuyện tưởng
tượng, nếu chúng ta nhìn lại các giai đoạn lịch sử
như thời «Conquistadors», «Holocaust» hay chế độ
thực dân, và ngay cả thế giới đương đại. Ðiều khác
biệt là trước kia, con người còn có thể nhân danh
những giá trị phổ quát của nhân loại để kết án tội
ác, trong khi ngày nay, với câu hỏi «Người ta có
thể biện minh cho tất cả chăng?», một thí sinh
tú tài Pháp năm 1995 có thể trả lời: «Khi tàn sát
hàng triệu người, Hitler đã làm đúng, theo quan điểm
của ông ta», tuy rằng «đối với chúng ta, hành động
này là không thể bênh vực được»! (8, tr. 170).
Trong lãnh vực nhận thức, với sự tương đối hoá lý
trí, khoa học rất có nguy cơ biến mất như một
tiêu chuẩn lý tính phổ quát, nếu quả thật: 1)
Những quy luật suy luận chỉ có thể được xem là đúng
hay hợp lý bên trong mỗi nền văn hoá; 2) Không có
tiêu chuẩn khách quan, không thiên vị, không độc
đoán, liên văn hoá… để đánh giá cái gọi là «lý tính»
trong mỗi đơn vị văn hoá. Ðược khai sinh như loại
thuốc giải độc trước bệnh sùng bái khoa học, bằng
cách vạch trần, một mặt, một số hạn chế nội tại của
khoa học, mặt khác, vai trò của những yếu tố văn hoá
xã hội trong việc nghiên cứu, sự tương đối hoá lý
trí đã dần dần biến triết lý nhận thức thành một thứ
xã hội học nhận thức cực đoan. Dưới ảnh hưởng
của Hegel, Karl Marx, rồi sau đó của Karl Mannheim,
ngành học sau có thể xem như đã thực sự thành hình
khi Robert K. Merton đưa ra chủ trương mà Larry
Laudan về sau gọi là «đảm nhiệm phi lý-tính»
(«arationality assumption»): chỉ khi nào không
thể giải thích được một quan điểm hay một học thuyết
nào đó trên cơ sở giá trị thuần lý của nó, thì lúc
ấy nhà xã hội học mới dùng đến những nhân tố xã hội
khác như chủng tộc, quốc tịch, giai cấp, văn hoá
(9)… Nhưng ngày nay, nếu cái lý trí phổ quát của con
người cũng nổ tung, nghĩa là nếu quả thực có một lý
tính Hoa Kỳ, một lý tính Trung Hoa, một lý tính Irak
(cũng như trước đây đã từng có triết học tư sản,
toán học vô sản, vật lý học Do Thái, sinh lý học
Ðức!) hoàn toàn khác nhau chẳng hạn, thì sự thận
trọng trong việc áp dụng quan điểm xã hội học cũng
biến mất; tất cả đều chỉ có thể và phải được giải
thích bằng loại lý do xã hội, văn hoá!
Thật ra, bên cạnh sự thất bại của «não trạng sơ
khai», các nhà tâm lý học và nhân chủng học cũng
chưa hề tìm thấy chứng cớ quyết định nào về sự
tồn tại của một thứ lý tính hoàn toàn khác với cái
vẫn được gọi là «lý tính con người» (dù nó được
triển khai sâu rộng nhất ở Phương Tây), hay một xã
hội hoàn toàn thiếu vắng tư duy lý tính. Bởi vì,
nghĩ cho cùng, các quy tắc của loại tư duy này chỉ
đơn giản nói là con người có thể tổng quát hoá từ sự
quan sát thực tại (quy nạp), và hành động trên cơ sở
tư duy của mình (diễn dịch). Nghiên cứu tương quan
giữa khoa học hiện đại và tư tưởng Phi Châu, Robin
Horton (10) phân biệt hai loại kiến thức. Loại
«kiến thức sơ cấp» tồn tại trong mọi đơn vị văn
hoá; một mặt, được xây dựng trên khả năng phổ quát
là thiết lập những quan hệ nhân quả đơn giản hoặc
phỏng chừng giữa các hiện tượng, nó chỉ sử dụng một
ít phạm trù cơ bản (như trước/sau, người/vật chẳng
hạn, đủ để tạo ra huyền thoại, để suy nghĩ, hiểu
biết, và thực hiện một số công việc hàng ngày); mặt
khác, nó có khuynh hướng bảo thủ và ưa tìm đồng
thuận. Chỉ một số nền văn hoá tiến đến loại «kiến
thức cấp hai»; loại này biết dùng những lý do
tiềm ẩn để vừa giải thích, vừa tiên đoán thế giới
chung quanh một cách có hệ thống hơn, đồng thời có
khuynh hướng tìm những kinh nghiệm mới. Và tất
nhiên, mọi xã hội đều có năng lực phát triển kiến
thức một cách tiệm tiến, từ cấp thấp lên cấp cao.
Vế thứ hai trong lãnh vực nhận thức - hiện thực
- cũng là đối tượng của một sự tương đối hoá, «giải
lập» khác. Dựa trên, một mặt, giả thuyết Sapir-Whorf
đã nói ở trên, mặt khác, quan điểm của Thomas Kuhn
về «điển mẫu» (paradigm) trong khoa học, nhiều tác
giả cho rằng : 1) Cái gọi là hiện thực chỉ là một
kiến trúc từ những tương quan với giai cấp xã hội,
ngôn ngữ, thế giới quan, lý thuyết, của mỗi cá nhân;
2) Không có những tiêu chuẩn khách quan, vô tư,
không độc đoán để tiếp cận cái gọi là hiện thực
xuyên qua giai cấp, ngôn ngữ, thế giới quan, lý
thuyết của người nhận thức. Từ thế kỷ 18, Kant đã
bác bỏ khái niệm hiện thực tự thân (dù nếu có, con
ngưòi cũng không thể nào biết được), mà chỉ công
nhận một hiện thực được tiếp cận qua những trực giác
(không gian, thời gian) và phạm trù tiên thiên (bản
thể, toàn thể, nhân quả, tất yếu, v. v…) của chủ thể
nhận thức; song ít ra ở đây, các trung gian tiên
thiên ấy vẫn còn là những cấu trúc phổ quát chung
cho cả loài người. Ở thế kỷ 19, Nietzsche đi thêm
một bước nữa khi ông cho rằng không có sự kiện mà
chỉ có sự suy diễn (nghĩa là mỗi nhận thức sự kiện
tự nó đã là một sự suy diễn). Tiếp nối quan điểm
trên theo hướng hoàn toàn cực đoan, một số tác giả
ngày nay xem cái gọi là hiện thực như một sản
phẩm của ngôn ngữ, và xem mỗi ngôn ngữ như
một thế giới quan (Sapir-Whorf), hayđôi
khi còn khắt khe hơn, một thứ lý thuyết khoa học
(Paul Feyerabend).
Như vậy, chủ nghĩa tương đối ở đây không phải chỉ
phủ nhận là có một hiện thực, hay một hiện thực với
nhiều cách tiếp cận khác nhau, mà khẳng định là
có nhiều hiện thực hoàn toàn biệt lập phát sinh từ
ngôn ngữ. Và vì không một tiêu chuẩn nào có thể
cho phép so sánh, đánh giá hay phán định về những
hiện thực bất đồng này, tất cả đều bình đẳng.
Tất cả vấn đề là không thể nào đồng hoá ngôn ngữ với
một thế giới quan hay một lý thuyết được. Ðánh
đồng ngôn ngữ với một thế giới quan, tựu trung, là
hàn dính cái hàm nghĩa (connotation) với cái biểu
nghĩa (dénotation) của một từ. Ðúng là từ
chuyển động gợi ra những yếu tố văn hoá rất khác
nhau giữa một sắc dân du cư và một giống dân suốt
đời không xê dịch, do những hàm nghĩa của nó. Nhưng
không ai cấm cản hai cá nhân thuộc hai nền văn hoá
nói trên hiểu nhau, nếu họ thoả thuận chỉ giới hạn
câu chuyện vào phần biểu nghĩa của từ - xê dịch
từ điểm này sang điểm khác -, như vẫn được định
nghĩa trong các loại từ điển. Và sự tồn tại của loại
từ điển song hay đa ngữ chính là bằng cớ không thể
chối cãi rằng xưa nay con người vẫn hiệp thông thành
công trên cơ sở ấy. Mặt khác, đánh đồng ngôn ngữ
với lý thuyết, tựu trung là đánh đồng từ với khái
niệm khoa học. Ðúng là khái niệm chuyển động
trong vật lý của Aristote và khái niệm cùng tên
trong vật lý của Galilei-Newton không còn là một
nữa, và chúng ta không thể nào hiểu vật lý của thế
kỷ 17 qua một khái niệm của vật lý cổ Hy Lạp, bởi vì
mỗi lý thuyết mở ra một hình ảnh khác nhau về hiện
thực, trong khi mỗi khái niệm lại là một mảnh hữu cơ
của lý thuyết. Nhưng hiển nhiên là không có từ
chuyển động trong bất kỳ ngôn ngữ tự nhiên nào,
nhất là khi chỉ giới hạn vào phần biểu ngữ, lại có
quan hệ hữu cơ chặt chẽ tương tự với toàn bộ hệ
thống từ vựng và ngữ nghĩa mà nó là một đơn vị hết
cả!
Tính phi lý của khẳng định «có nhiều hiện thực biệt
lập bình đẳng» hiện rõ khi chúng ta phải trả lời
những câu hỏi khá đơn giản nhưng lại đầy dẫy trong
các bộ môn khoa học, như các cuộc diệt chủng của Ðức
Quốc Xã hay Khmers Ðỏ trong sử học chẳng hạn. Và cho
đến nay, phương pháp để giải quyết các nghi vấn này
là đối chiếu chúng với những chứng cớ như hình ảnh,
tài liệu, v. v… thu thập được, chứ không phải là
mang đại diện của phe này hay phe kia ra… phỏng vấn,
hoặc mời tập thể sử gia hội họp … biểu quyết! Vì sao
một sự phi lý như thế có thể khoác áo học thuyết?
Một trong những câu trả lời có thể là ý kiến sau của
Frederick Will: «Sự công nhận là mọi hiểu biết
của chúng ta về thế giới bên ngoài đều được tiếp thu
qua thực tiễn nghiên cứu đã khiến một vài triết gia
kết luận rằng loại ngoại vật được chúng ta nhận biết
đã do ngay chính quá trình nghiên cứu sản xuất ra,
và do đó, chẳng khác gì những giả tượng (artefacts)
mà cả sự tồn tại lẫn tính chất đều tùy thuộc, một
cách nào đó, vào ngay chính thực tiễn nghiên cứu
(…). Thật ra, thực tiễn nhận thức chỉ được thiết
kế để phát hiện và mổ xẻ ngoại vật chứ không thể sản
xuất ra chúng» (11).
Việc tương đối hoá hiện thực dẫn đến sự tương đối
hoá chân lý. Trước thời «khủng hoảng nền
móng» của các môn học nòng cốt, nhận thức luận hiện
đại định nghĩa chân lý là sự thích ứng hay phù hợp
giữa a với R, trong đó
a là mệnh đề đang có yêu cầu được công
nhận là đúng, và R là cái được xem là
hiện thực (thế giới bên ngoài theo nghĩa rộng).
Trong toán học, một mệnh đề được xem là đúng, nếu nó
kết hợp chặt chẽ, mạch lạc với hệ thống những mệnh
đề toán học đã được chứng minh; đấy là «thuyết
mạch lạc về chân lý» («coherence theory of truth»).
Trong vật lý, một mệnh đề được xem là đúng nếu nó
tương ứng với quy luật của thế giới bên ngoài, nghĩa
là với những hiện tượng mà nhà khoa học đã tiên đoán
dựa trên các quy luật ấy; đó là «thuyết tương ứng
về chân lý» («correspondance theory of truth»).
Và bất chấp cuộc khủng hoảng kéo dài, toán học cũng
như vật lý học và các bộ môn khác vẫn tiếp tục phát
triển, dù trên cơ sở không còn nền móng chắc chắn.
Vào khoảng 1907, lạm dụng quan điểm của Charles
Sanders Pierce về ý nghĩa của các từ khoa học (ý
nghĩa của một từ khoa học là toàn bộ những hậu quả
thực tiễn của nó; mọi từ không dẫn đến một hậu
quả thực tiễn nào đều phải bị xem là vô nghĩa hoặc
rỗng tuếch), William James nhận định: Theo nguyên
tắc thực tiễn, nếu giả thuyết Thượng Ðế có thể
«chạy» (work, marcher) một cách thoả
đáng theo nghĩa rộng nhất, thì nó «đúng» (12).
Thật ra, đây là một sự suy diễn quá lố tư tưởng của
C. S. Pierce (khiến ngay bản thân tác giả này cũng
kinh hoảng, phải vội vã đặt ngay ra từ
«pragmaticism» để chỉ quan điểm của mình, nhằm tránh
bị đồng hoá với chủ nghĩa «pragmatism» ở W. James!).
Bởi vì, nếu giả thuyết Thượng Ðế «chạy» theo một
nghĩa nào đó (tốt cho xã hội chẳng hạn), nó hoàn
toàn không thể «chạy» theo nghĩa khoa học (đưa ra
những tiên đoán có thể kiểm chứng). William James
lẫn lộn hai mệnh đề: «Ðúng là Thượng Ðế hiện hữu»,
và «Tin rằng Thượng Ðế hiện hữu là điều có ích cho
xã hội và nên làm». «Lý thuyết thực tiễn về chân
lý» («pragmatic theory of truth»), như vậy, là
một bước xuống cấp so với hai quan điểm trước.
Ngày nay, sau khi tự tạo ra tình trạng vô số hiện
thực vừa bình đẳng vừa «vô thông ước» cùng tồn tại,
liệu chủ nghĩa tương đối văn hoá sẽ giải quyết ra
sao vấn đề chân lý trong các khoa học? Nó chỉ có
thể, hoặc chối bỏ hẳn sự phân biệt đúng/sai (nghĩa
là xem «mặt trời quay chung quanh trái đất» hay
«trái đất quay chung quanh mặt trời » như hai tín
niệm có giá trị ngang nhau chẳng hạn), hoặc đơn giản
chấp nhận là đúng «bất cứ điều gì mà một người hay
một nhóm người tin là đúng». Liệu cái được chào đón
vô cùng rầm rộ và long trọng là «lý thuyết đồng
thuận về chân lý» («consensus theory of truth»)
này sẽ có khả năng đưa khoa học tiến tới chăng? Ðiều
hiển nhiên trước mắt là trong mọi ngành học thuật,
nhất là các khoa học xã hội và nhân văn, sẽ đầy dẫy
những mệnh đề hoàn toàn mâu thuẫn mà vô phương giải
quyết. Một điều chắc chắn nữa: những Copernic,
Galilei, Darwin, Einstein… nghĩa là loại nhân tài đã
đẩy con người lên một nấc quyết định trên bậc thang
kiến thức, ngày nay sẽ là thiểu số tuyệt đối, và
chắc chắn sẽ thất bại trong xã hội hậu hiện đại, vì
không tài nào hội đủ đồng thuận trên những ý kiến
hoàn toàn «dị giáo» của mình.
«Về nhận thức, chủ nghĩa tương đối văn hoá là một
điều ngu xuẩn; về đạo lý, nó là một bi kịch» (13,
tr. 550). Làm sao một bi kịch phi lý lại có thể trở
thành hệ tư tưởng chủ đạo trong một nền văn minh
đang dẫn đầu thế giới trên nhiều mặt? Người ta có
thể đưa ra nhiều giải thích, nhưng lý do quan trọng
hơn cả vẫn là cuộc khủng hoảng giá trị, nhất là cuộc
khủng hoảng lý trí và khoa học của Tây Phương gần
như suốt thế kỷ qua, và sự lây lan của nó sang các
nền văn hoá khác (14). Chỉ khi nào con người tìm lại
được cho hai chữ «nhân loại» một nội dung văn hoá -
nghĩa là những giá trị phổ quát được xây dựng
trên một nền tảng tương đối đứng được dù không hoàn
toàn chắc chắn - thì cuộc khủng hoảng
tinh thần trên quy mô toàn cầu này mới thật sự cáo
chung,
Tất nhiên, chủ trương này sẽ không thuyết phục nổi
những đầu óc bi quan. Nhưng vấn đề đặt ra cho con
người ngày nay chính là phải chọn lựa giữa: a)
hoặc giảm thiểu một số đòi hỏi trí thức không thể
nào thoả mãn nổi, hầu xây dựng lại hệ thống giá trị
toàn nhân loại như vừa nói ở trên, dù phải không
ngừng xoá đi lập lại các thử nghiệm còn bấp bênh; b)
hoặc vất bỏ tất cả những thành tựu đã đạt được trong
mọi lãnh vực cho đến ngày nay, để ngụp lặn trong chủ
nghĩa hư vô, rồi khoanh tay than thở bất lực trước
bao thách đố đang ào ạt tràn đến mỗi ngày. Sự
kiện là từ vài năm nay, lý luận khoa học cũng như
chính trị và đạo lý học… đã đổi mới cách đặt vấn đề
và đang đổi mới ngôn ngữ, để bắt đầu lại những cuộc
phiêu lưu tư tưởng trong rất nhiều tác phẩm đáng lưu
ý, cho phép chúng ta hy vọng sẽ nhìn thấy ánh sáng ở
cuối đường hầm sớm hơn mong đợi.
___________________
CHÚ THÍCH:
(01) Samuel P. Huntington, Le Choc Des
Civilisations, Commentaire = ISSN 0180-8214, số
66, 1994 (Nguyên tác: The Clash Of Civilizations,
Foreign Affairs = ISSN 0148-8937, 1993) và
(01bis) Samuel P. Huntington, Le Choc Des
Civilisations, Paris, Odile Jacob, 1997.
(02) Ronald F. Inglehart, Le Choc Des
Civilisations Ou Modernisation Culturelle Du Monde,
Le Débat, số 105, 1999. Bài báo dựa trên cuộc thăm
dò dư luận nói trên, được thực hiện lần đầu ở Âu
Châu, sau nới rộng ra Bắc Mỹ rồi khắp thế giới, qua
3 đợt thực hiện (1981-1982, 1990-1991, 1995-1997),
trên hơn 60 nước (73% dân số toàn cầu).
(03) Văn minh và văn hoá có thể được dùng như hai từ
đồng nghĩa (ở Huntington và trong bài này), song
cũng có thể được phân biệt. Oswald Spengler xem văn
minh là giai đoạn phát triển cuối cùng của một nền
văn hoá. Một số tác giả khác (Alfred Weber, Robert
M. McIver) đối lập văn minh với văn hoá như hai phần
của một «hệ thống biểu hiệu» («symbolic systems»):
văn minh được dùng để chỉ phần thực tiễn, phần
phương tiện để kiểm soát thiên nhiên và điều kiện
vật chất, do đó, bao gồm cả khoa học và kỹ thuật;
văn hoá chỉ phần tinh thần, giá trị, quy phạm, lý
tưởng…, do đó, bao gồm tôn giáo, triết lý, văn học,
nghệ thuật.
(Xem : Alfred L. Kroeber & Clyde Kluckhohn,
Culture: A Critical Review Of Concepts And
Defnitions, New York, Vintage Books, cop. 1952)
(04) Ðạo giáo được dùng ở đây như một danh từ chung
để chỉ tất cả những thế giới quan nào - từ tôn giáo
hữu thần cho đến chủ nghĩa vô thần - bao gồm một
phần lý thuyết có thể giảng dạy, học hỏi (giáo) và
một con đường thực tiễn để tu tập, hành động trong
xã hội (đạo). Theo Từ Ðiển Tiếng Việt của
Viện Ngôn Ngữ, Uỷ Ban Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, Nxb
KHXH, 1988.
(05) La Culture: De l’Universel Au Particulier,
coordonné par Nicolas Journet, Auxerre, Ed. Sciences
Humaines, 2002. Tác phẩm đầy đủ, cập nhật, và dễ đọc
về ngôn ngữ, rất hữu ích cho những độc giả không
chuyên môn.
(06) Le Langage: Nature, Histoire et Usage,
coordonné par Jean-Francois Dortier, Auxerre, Ed.
Sciences Humaines, 2001. Tác phẩm đầy đủ, cập nhật,
và dễ đọc về lịch sử các lý thuyết nhân chủng học,
rất hữu ích cho những độc giả không chuyên môn.
(07) Richard J. Bernstein, Incommensurability And
Otherness Revisited, 1991. Trong: Culture And
Modernity: East-West Philosophic Perspectives,
ed. by Eliot Deutsch, Honolulu, University Of Hawaii
Press, 1991.
(08) Raymond Boudon, Relativisme Et Modernité,
Revue Européenne Des Sciences Sociales = ISSN
0048-8046, 1996, số 106, tr. 169-192.
(09) Larry Laudan, Progress And Its Problems:
Towards A Theory Of Scientific Growth, Berkeley,
University of California Press, 1977. Trích dẫn bởi
Shelby D. Hunt, Modern Marketing Theory,
Cincinnati, South-Western, 1991, tr. 310.
(10) Robin Horton, Tradition And Modernity
Revisited. Trong: M. Hollis & S. Lukes,
Rationality And Relativism, London, Blackwell,
1982.
(11) Frederick L. Will, Reason, Social Practice
And Scientific Realism, Philosophy Of Science,
số 48, 1981, p. 1-18. Trích dẫn bởi Shelby D. Hunt,
Modern Marketing Theory, Cincinnati,
South-Western, 1991, tr. 320.
(12) William James, Pragmatism,
New York, Harper Brothers, 1907. Trích dẫn bởi
Shelby D. Hunt, Modern Marketing Theory, Cincinnati,
South-Western, 1991, tr. 299.
(13) Ernest Gellner, La Mascarade Relativiste,
Commentaire = 0180-8214, số 75, 1996 , tr. 543-550.
(14) Shelby D. Hunt, Modern Marketing Theory,
Cincinnati, South-Western Publ., 1991. Phần 2 của
tác phẩm tự nó là một giáo trình trong sáng về triết
lý khoa học, đã giúp cho chúng tôi nhiều ví dụ, luận
cứ, và trích dẫn để phê phán chủ nghĩa tương đối văn
hoá.
Trích từ http://amvc.free.fr/
|