Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc Gia
trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế,
họat động ngành an ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong vòng chưa đầy 3
năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại chức 32 ngày.
Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng
Sản, một vài tay chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống
đường phá rối. An ninh trật tự hoàn toàn suy sụp.
Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung Ương
quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám
Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn chỉnh lại những hoạt
động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa phương đầy biến động này, đồng
thời bổ nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát
Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm
1963 và là người đầu tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian
hỗn loạn quá dài. Ðể mau chóng ổn định nhân-sự cũng như họat động, Ông cho
lệnh di chuyển Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng
trong một tháng để thu xếp gia-đình.
Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn định
việc nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá Long, lúc ấy vừa
được bổ nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, là còn loay
hoay chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm
xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống ai:
Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng Thành Phố,
Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành của một Công
Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không điện không nước.
Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai ngọn đèn
dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn Manchon. Ông từ
chối nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không chịu, bắt họ đem đi trả
lại.
Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở sở. Một
hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân Ðoàn, tôi kể Ông
nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc đầu nói: “...tính của
Long là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó
là một người rất tốt, thanh liêm và cương trực, đông con nhà nghèo...”. Từ
lúc đó cho đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường
như có điều tính toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau,
tôi ghé nhà Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông
Long đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi
nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai sai tới. Tôi biết ngay là do
sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết Ông không ra mặt tôi cũng làm
thinh luôn.
Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà
Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông gật đầu, mỉn cười
nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui vì đã giúp được
thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính Ông quảng đại,
kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần
cho ai biết.
Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc cũng
không có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand Hotel trên đường
Bạch Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường dùng bữa vớí nhiều
viên chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những lúc không mời ai,
Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp, quen biết
nhiều người và luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ
với tôi, bàn về đủ mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không
dính dấp gì tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện
Trung Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt
điện nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông Giám đốc
Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn văn Long:
“...Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả (tiếng thông dụng miền
Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy) mới gia-nhập Ngành An ninh thời Tây. Giả
nổi tiếng là siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương bổng không đến
nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng lộc phi
nghĩa nên thời nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963
Giả cũng có một căn nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố
Huế. Nhà này có từ nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh
Ông Diệm, Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông
điều tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng chức không lương tiền hàng
tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để đong gạo cho gia đình...
...Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở, lại càng
không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn răng chịu đựng,
không hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người khác. Ðiều
này giải thích được tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người bắt
điện nước cho gia đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn....
... Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có khá
nhiều cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có khi còn quyết
liệt từ chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật hẹp với đồng lương của
một công chức.
... Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau khi Chính
Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng Ban Công Tác Ðặc
nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như của nhóm Cần Lao. Nhiều
người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ. Nhưng trái với mọi suy
đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm,
không thành kiến, cũng như không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới
chạy chọt xin xỏ đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya
mớí lạch cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình đã theo đạo Công Giáo, nhà
thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế.. Nhà Long cữa đóng then cài. Long
không tiếp bất cứ ai.
...Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến Hải, đóng
dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh Quảng Trị. Nhận việc
chưa bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu , Kế Toán đưa cho Giả một phong
bì đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, như thông lệ từ trước, đây là
số tiền bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí
giao tế. Giả đỏ mặt, trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng phéng
chuyện tiền nong lem nhem với Long...”
Kể đến đây Ông Giám Ðốc cườì thành tiếng và nói đùa: “...Nếu Long chịu nhận
vàì ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải cắm dùi đường Duy
Tân. Nên nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được lệnh di chuyển từ Quảng
Trị vào Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày trước ngày sau phải ở bụi ở đường
thì thế gian chỉ có một Nguyễn văn Long mà thôi, không có người thứ hai. Bổ
nhiệm Long vào chức An Ninh Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng cũng có
nhiều anh khó chịu không vui đấy...”
Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung , Ông cho biết vụ ấy không hẳn là có
thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công việc của Phan
Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp ra Bắc hoạt
động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn đề nội
chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp lực từ
Cộng Sản trong nhóm tranh đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì
Ðông cũng bị giết.
Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông tại Sân
Vận Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi, Long từ chối. Long
nói:
“...chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và có quá
nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi, không nên
buộc... Ông Giám Ðốc kết luận:...Long khắt khe sắt thép với chính mình nhưng
khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới
giam giữ mình...”
Năm 1970 , tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng để ra
Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu một cơn bão lụt
Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như trút nước.
Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố ngập nước quá đầu
gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh
mông. Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này
là một giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả,
không một bóng cây. Từ tầm xa nhìn tới , toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ
còn thấy lác đác ít nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật
từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như
Giang Ðoàn và trưng dụng thêm một số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản
dân chúng vào khu an toàn, lúc ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng
và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.
Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở vào một
khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ lúc nào. Cả
gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang ngồi trên một cái
chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà, không chịu đi
đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi
không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc
Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt điện nước cho Long.
Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện với
Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi không sao
đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải viện dẫn lý do an
ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng bào. Cuối cùng Ông mới
chịu vào bờ.
Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi điện thoại
cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh bơ: Nhà chỉ có mấy
tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại. Tuần này tôi xin nghỉ
mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay.Tôi bái phục cái thái độ bình
tâm giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi
cho biết. Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda,
luồn lách ra Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.
Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo gồm mọi
thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều nguồn gốc khác
nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia đình đổ về từ những
vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và giây phơi áo quần chằng chịt.
Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng
Sản cài người vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp
đi mua vật liệu bên Quận Ba bị đặt Plastic chết banh xác trên gần Chợ Cồn
năm nào. Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố.
Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho Ông Long
cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4 chỗ. Tôi lái xe đưa
Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại không quyết định, viện
dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay
là Ông vô ở chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa
mai. Sự thực khi nói câu đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho
gia đình Chỉ Huy Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố,
sát tường rào Trường Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông.
Ông chịu liền nhưng còn bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải chuyện bông
đùa, tôi đưa Ông tới một trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn
cho Ông một số cây ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là
chuyện thật và bắt tay tôi vui vẻ, nói lời cám ơn.
Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng vợ cả
gần chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2 tuần là xong,
điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ đã đành, phần tôi
cũng vui không ít.
Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi
ra mới biết: thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một ít ván gắn vào
mặt tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp từ một bãi phế
thải ở đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong phía ngoài
khá tươm tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng của
Ông. Dọn vào nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm
Chánh Sở Tư Pháp, tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở
bên cạnh nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát:
Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có cả cặp
sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm một đứa cháu mồ
côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ. Chưa hết. Nhà
còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo làm lợi, cho
đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người
không tin, đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy
Trưởng Cảnh Sát mà lai có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ
hoàn cảnh gia-đình, cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long,
tôi không phản đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con heo. Ði
học về, tụi nhỏ chạy sang xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau
lớn. Thấy các con ưa thích, tôi cũng vui. Bà Long lại càng vui hơn.
Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa nói chuyện
gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các con làm trọng. Ông
thường dặn con: dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được ba mớ chữ. Câu Ông
thưòng nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu
phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay
chân lao động.
Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và thường
dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp sách, khi thì mua
bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất. Ông Long có mấy
con đã trưởng thành. Hai anh đi không quân, một thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa
đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu
về phép, nhà tôi thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút
ít tiền cho các cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như
thế chỉ có các con và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã
hiểu tính Ông Long rất tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người
thân.
Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần, đi chung
với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa cho thêm một
người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng Tín làm căn nhà
đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng là một nhà
phong thủy cho biết hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí phong thủy
tuyệt hảo, che chắn hết mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu
chém lén sau lưng. Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi không
biết nhiều về phong thủy, cũng không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử
tế khi có cơ hội để giúp cho hai người bạn mà tôi rất thương yêu và mến
phục.
Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin ân huệ
cho mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần như cam chịu.
Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước đến nay và ao ước được
ở đây mãi mãi.. Niềm ao ước bình thường giản dị ấy không được bao lâu thì
Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng ba 75. Tai trời ách nước đổ sập xuống, chúng
tôi tan tác mỗi người một nơi.
Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại đây dùng
tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển khơi, tôi gặp Ông
Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu cùng Ông xuôi Nam.
Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một ngã. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát
thân lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được tin Long tự sát. Tôi bàng
hoàng xúc động, thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi thế
kia. Từ đó tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức
của Long:
Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự sát
trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở Quốc Hội, sắc phục
và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng không có báo nào nói
xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một
xó xỉnh nào.
Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào nhà
thương Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo Long có thẻ
căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ theo địa chỉ đó
mà báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa
mới dọn vào ở chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ
ký của Thiếu Tá Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút
suy nghĩ sao mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm
xưa lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ ký
của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng lại chính
nhờ nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây có phải chỉ là một diễn tiến
tình cờ hay là một tính toán cẩn thận của Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý
hơn.
Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không có tiền
vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận xác. Tới SàiGòn
ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai tên Ðào và người em
gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall. Tại dây nhân
viên Bệnh Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ
vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm
rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các
con cảm-động và ngạc nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục
và xe tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn
toàn miễn phí. Thi hài được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà
Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn giáo. Có Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là
cái chết công khai và lẩm liệt của một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập
tức đã có người trân trọng. Ít năm sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn
tang trắng một vùng, đầy đủ vợ và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro
ký thác tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.
* * *
Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều Tướng
Lãnh, Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân- viên Dân Chính đã tự sát tại
nhiều nơi và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên chí khí bất khuất không
đầu hàng, không để cho thân rơi vào tay giặc. Nhưng cái chết của Trung Tá
Nguyễn văn Long mới được cả thế giới biết đến mau nhất, gây xúc động mạnh
nhất. Long đã chọn cách thế, giờ giấc cho cái chết có mục đích tại một địa
điểm không thể có nơi nào thích hợp hơn. Trước Tòa Nhà Quốc Hội, dưới chân
Tượng Ðài Chiến Sĩ là nơi biểu tương Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam.
Ông đã nằm xuống đó để chấm dứt nhịp đập trái tim Ông. Ông dâng hiến máu
tươi và mạch sống cho Tổ Quốc. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả thế giới
cùng công nhận Long đã bình tĩnh sửa soạn cho cái chết từng chi-tiết. Long
mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề, thẻ căn cước cài trong túi áo. Trước lúc bắn
vào đầu, Long đứng nghiêm, chào kính Tượng Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ
một phát súng dứt khoát và chính xác, Long anh dũng đền ơn nước.
Ðã một thời sống gần và làm việc chung, tôi thương mến Long lúc sinh thời,
kính phục Long khi đã chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái chết của Long là một
cái chết bất tử.

Máu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ.

Ở tấm hình này, chiếc mũ đã bị ai đó lấy mất.

Hình tuẫn tiết của anh hùng Nguyễn Văn Long, trung tá Cảnh Sát Quốc Gia
Việt Nam Cộng Hoà trong ngày 30-4-1975 dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục
Chiến đối diện trụ sở Hạ Nghị Viên VNCH.