Monique Canto-Sperber;
Đỗ Kim Thêm
dịch
Giới thiệu của người dịch: Hoạt động khủng bố ngày càng lan rộng, nó sẽ còn gây
nhiều nguy hiểm cho nhân loại. Các chính quyền cũng như
các tổ chức quốc tế và các tôn giáo dường như không đủ
khả năng giải quyết vấn đề. Trước hiện tình quốc tế, có
quan niệm bi quan cho rằng trong tuơng lai một thế giới
đại đồng với một nền hoà bình vĩnh cửu sẽ không bao giờ
đạt được và chiến tranh là tai họa không tránh khỏi.
Nhưng làm sao chúng ta có thể tìm ra những phương sách
chính trị, đạo đức và tri thức để đối phó vấn đề. Hơn
bao giờ hết chúng ta cần bàn đến tương quan giữa đạo đức
quốc tế và cuộc chiến tương lai. Đâu là cơ sở đạo lý cho
cuộc chiến, thế nào là một cuộc chiến vì chính nghĩa là
một đề tài đạo đức đang được thảo luận trong giới trí
thức tại Pháp. Nhằm chống chiến tranh khủng bố hiện nay,
Monique Canto-Sperber đã đề ra một lý thuyết mới về một
cuộc chiến vì chính nghĩa trong tác phẩm Le Bien, La
Guerre et la Terreur, Paris, Plon 2005.
Monique Canto-Sperber là triết gia Pháp,
chuyên gia nghiên cứu hiện làm việc tại Trung tâm Quốc
gia Nghiên cứu Khoa học (Centre Nationale de la
Recherche Scientifique). Bà cũng là thành viên trong Ủy
ban Quốc Gia về Đạo đức (Comité National de l´Éthique).
Các tác phẩm mới của bà là Les
Règles de
la Liberté,
Paris, Plon, 2003
và Le Bien, La Guerre et la
Terreur,
Paris, Plon 2005.
Bản dịch Việt ngữ sau đây một đoạn trích
trong tác phẩm Le Bien, La
Guerre et la Terreur, được
tạp chí Esprit
đăng lại trong số tháng hai 2005, từ trang 204 đến trang
212. Nội dung của bản dịch nhằm giới thiệu hai quan điểm
của hai thuyết chủ hoà và chủ chiến trong quá khứ. Phái
chủ hoà cho rằng chiến tranh là điều vô đạo đức, không
thể chấp nhận được, trong khi phái chủ chiến nghĩ là
không có chuyện đạo đức trong chiến tranh, tất cả mọi
chuyện đều được phép. Nhưng cả thuyết chủ hoà lẫn chủ
chiến sẽ không là những quan điểm thuyết phục dùng để
suy luận về những giới hạn của bạo lực trong hoàn cảnh
hiện nay.
Vấn đề đạo lý chiến tranh đã được đặt ra
từ thời thượng cổ và thường được đặt tên dưới dạng học
thuyết chiến tranh có chính nghĩa. Khái niệm này từ lâu
đã là nguồn cung cấp những lập luận để sử dụng vũ lực.
Khi suy lý về căn gốc của vấn đề người ta tin rằng có
thể thảo luận được ý niệm chính nghĩa trong hai khía
cạnh: mục tiêu chiến tranh và phương tiện sử dụng. Khái
niệm về chiến tranh vì chính nghĩa thường quan hệ chặt
chẽ với một nền đạo lý khả chấp cho việc sử dụng bạo
lực.
Khái niệm này đưa ra hai vấn đề: một
mặt, trong một vài trường hợp nào đó, có những lập luận
cho rằng chiến tranh là chính đáng; chiến tranh, do đó,
có thể biện minh được về mặt đạo đức (Jus ad bellum,
quyền gây chiến); mặt khác, nó đưa ra một phương cách
đúng đắn trong chiến tranh (jus in bello, quyền
trong chiến tranh).
Ý tưởng liên hệ đến suy tư về đạo lý của
chiến tranh không hề coi chiến tranh như là chuyện đương
nhiên. Trái lại, đối với những người bảo vệ cho lý tuởng
của một cuộc chiến vì chính nghĩa thì chiến tranh là một
điều ác, nhưng lại là điều ít ác hơn, thông thường người
ta không tránh được và không thể kết án nó một cách dễ
dàng. Chiến tranh vì chính nghĩa vừa là một điều ác,
nhưng cũng vừa là một phương tiện để chữa trị điều ác.
Nhưng tư duy về một cuộc chiến có chính nghĩa có thể
giúp chúng ta giải quyết được sự căng thẳng giữa hai
nghiã vụ: nghiã vụ thứ nhất có ý tiêu cực, đó là chúng
ta không nên làm những điều ác với ý đồ, và nghiã vụ thứ
hai có ý tích cực, đó là chúng ta cần phải hành động để
tránh điều ác xảy ra hay có thể phát triển xấu hơn. Nó
cũng giải quyết sự căng thẳng bằng cách đề ra những giới
hạn về lập luận cổ vũ cho chiến tranh trong những mục
tiêu kỳ lạ cũng như những phương tiện sử dụng: tại sao
lại là lập luận này mà không phải là lập luận kia, thời
điểm này mà không phải là thời điểm trước kia, bằng
phương cách này mà không phải là một phương cách khác
v.v. Trong lối diễn đạt „chiến tranh vì chính nghiã“ thì
sự đề cập đến từ “chính nghiã” hàm chứa một đòi hỏi
trước tiên về một điều phân biệt giữa những cách lập
luận và tiến hành chiến tranh.
Chiến tranh có chính nghĩa theo quan
điểm phái chủ hoà
Khái niệm về chiến tranh có chính nghĩa
đề cập đến tính đạo đức giữa hai phái chủ hoà và chủ
chiến. Phái chủ hoà luôn cho rằng chiến tranh là điều vô
đạo, không thể chấp nhận được, trong khi phái chủ chiến
tuyên bố rằng không có chuyện đạo đức trong chiến tranh,
tất cả mọi chuyện đều được phép. Những người theo cả hai
phái cùng gặp nhau trong trong một niềm tin chung: khi
súng đạn lên tiếng thì không còn chính nghĩa. Nhưng họ
đã rút hai hai kết luận đối nghịch nhau. Đối với phe chủ
hoà thì tất cả mọi cuộc chiến tranh đều không có chính
nghĩa, không bao giờ nên gây chiến, đối với phe chủ
chiến thì không có một cuộc chiến nào là vì chính nghĩa
hay phi chính nghĩa, chiến tranh là chiến tranh thế
thôi. Khái niệm chính nghĩa gây sự đối kháng lẫn nhau.
Những người ủng hộ cho chiến tranh vì
chính nghĩa không phải là những người chủ hoà. Người chủ
hoà thường xem chiến tranh không bao giờ là điều tốt
đẹp, nói khác đi, chiến tranh là một điều ác cần từ bỏ
trong tất cả mọi trường hợp. Theo họ, lời cảnh báo đơn
thuần xem chiến tranh là gì cũng đủ biện minh cho việc
kết án chiến tranh. Chiến tranh đồng nghiã với chết chóc
và phá hoại. Người khác lại coi chiến tranh như một kẻ
thù, vì bạo lực tràn lan khắp nơi với nhiều vi phạm đủ
mọi hình thái.
Chiến tranh đưa tới những vi phạm buộc ta phải luôn giấu
kín, cho dù ta muốn điều tốt đẹp đi nữa. Phe chủ hoà
không chịu thảo luận về những lợi điểm cho chiến tranh
mang lại hoặc so sánh những điều tệ hại do cuộc chiến
gây ra và những tệ hại có thể tránh được. Do đó, những
nhận xét về chính nghĩa hay tiết giảm các phương tiện
gây chiến đối với họ có vẻ là vô vọng. Không hề có chính
nghĩa cũng không hề có một phương cách đúng đắn nào
trong việc gây chiến. Trên nguyên tắc, tất cả mọi cuộc
chiến đều là xấu xa và gây tội ác. Chiến tranh có chính
nghĩa cũng chỉ là một cuộc chiến tranh mà thôi.
Lập luận thứ hai của phe chủ hoà đưa ra
dựa trên một niềm tin cho là chiến tranh không hề cải
thiện được tình hình thế giới. Bạo lực không đưa tới
điều thiện, bởi vì bạo lực chỉ gây tác hại thêm những gì
mà nó tạo ra. Những cuộc nội chiến đã để lại những bạo
lực mang sắc thái địa phương qua những mặt nạ mang danh
hoà giải như là một loại di sản. Những cuộc chiến nhằm
bảo vệ dân chúng, cho dù có những hậu quả có lợi đi nữa,
chỉ xây dựng bạo lực một cách lâu dài.
Phe chủ hoà đưa ra một phán đoán về một
giá trị (chiến tranh là một điều ác), dựa trên một niềm
tin (chiến tranh chỉ gây ra điều ác) và một điều cấm
đoán (không nên gây chiến). Họ thể hiện một trạng thái
tâm linh đối diện với cuộc đời. Họ xác nhận rằng thế
giới này là xấu xa, nhưng từ chối sử dụng bạo lực để cải
thiện thế giới hoặc ngăn chận thế giới thành địa ngục.
Một thái độ như thế không hẳn đưa tới một sự thụ động
một cách tất yếu. Thái độ này có thể kết hợp với những
phương thức hành động hữu hiệu như đã minh chứng qua vô
số những phong trào động viên dân chúng chủ hoà.
Dù với những dấn thân đầy cao thượng,
tuy vậy, phe chủ hoà có quan điểm sai lầm và thiếu mạch
lạc. Họ sai lầm khi cho rằng chiến tranh luôn luôn là
điều xấu xa nhất. Trong trường hợp bị tấn công hay những
đe doạ nghiêm trọng tới sinh mạng của mình hay người
khác, thì sự tự bảo vệ mình không phải là một điều xấu
hơn là để bị giết chết, và nhất là người khác bị giết
chết trước mặt mình. Trên nguyên tắc, lên án mọi hành vi
bạo lực về mặt đạo đức, những hành vi có thể tiêu diệt
hoặc tàn sát người khác, đó chính là việc thẩm định về
giá trị đạo đức của con ngưòi trước một khả năng có nên
từ bỏ bạo lực hay không. Nhưng nếu tôi bị giết chết rồi,
thì tôi không còn cơ hội hành động về đạo đức nữa. Hậu
quả của việc này là tôi không còn khả năng quyết định tự
vệ nữa. Có phải chăng cái giá mà tôi phải trả cho một
quan điểm đạo đức như thế mà người ta buộc tôi phải tuân
thủ, chính là làm mất đi một phương tiện hành động nhằm
tự bảo vệ, nó tương phản những điều người ta quy định.
Nếu cho rằng thà mất tất cả những khả năng hành động
trong tinh thần bất bạo động, vẫn hơn là hành động tự vệ
bằng bạo lực, đây là một lập luận không thuyết phục.
Mặt khác, lịch sử đã minh chứng một số
trường hợp khác: một nền hoà bình dài lâu đạt được sau
khi chiến tranh kết liễu, khi mà việc hoà giải có kết
quả, ngay cả khi cần đến những cấu trúc giả tạo về mặt
pháp lý và giải quyết được các vấn đề thuộc về hoài niệm
quá khứ. Việc công bố đại xá tại Nhã Điển vào năm 403
trước Công nguyên nhằm chấm dứt nội chiến giữa hai phe
độc tài và dân chủ là một thí dụ. Từ đó, người ta phải
kể đến nhiều thí dụ khác về sự tái lập hoà bình.
Nếu chủ trương rằng chiến tranh luôn luôn chỉ gây thêm
bạo lực và chết chóc, lập luận này không chính xác lắm.
Sau rốt, phe chủ hoà dường như có một
quan điểm miễn cưỡng trong tình hình thế giới hiện nay.
Trên nguyên tắc, việc chống đối một cuộc chiến tranh xâm
lược là một quan điểm dễ dãi về mặt đạo đức. Khi một
cuộc chiến tranh như thế xảy ra, thì sự đồng thuận để
kết án và trừng phạt khá phổ biến, như trong trường hợp
Iraq tấn công Kuwait. Những cuộc chiến loại này không
phải là một đề tài phức tạp về đạo đức, nhưng trong mọi
trường hợp thì nó hầu như đã không còn nữa trong thế
giới Tây phương. Nhưng bù lại, đã có những cuộc chiến
đặt ra những trường hợp đáng nghi ngờ về mặt đạo đức.
Đôi khi có những cuộc chiến mà động cơ thúc đẩy là nhằm
cứu vãn trươc những thiên tai vì lý do nhân đạo. Đó là
những cuộc chiến mà các nước này phải giết một phần dân
chúng của mình, hoặc bị xâu xé vì nội chiến hay vì dung
chứa các tên khủng bố. Trong các hình thái chiến tranh
này, nếu ta không can thiệp hay từ bỏ tiến hành chiến
tranh vì lý do chiến tranh là điều ác, thì rõ ràng ta để
cái ác phát triển thêm và tình hình sẽ tồi tệ hơn, hoặc
là chỉ làm cho thiện và ác lẫn lộn. Điều ác tạo ra một
sự can thiệp, sự can thiệp này lại tạo ra tàn sát hay
nội chiến, tất cả đều liên hệ nhau, vì luôn luôn có khổ
đau và chết chóc. Phe chủ hoà hiện nay dù lập lờ trước
mọi hình thái can thiệp có vũ trang, lại mặc thị chấp
nhận điều này. Trong khi họ kêu gào: “Không được phép
can thiệp, không dùng bạo lực thêm nữa trước bạo lực“ họ
nghĩ rằng hai loại bạo lực này giống nhau. Với khẩu hiệu
này họ giả đò không biết đến việc cầu cứu bạo lực khi
cần có thể gây tác dụng làm giảm đi bạo lực lan tràn.
Trong khi phê phán phe chủ hoà về mặt
đạo đức, ta không thể tự giới hạn ca ngợi các nghị quyết
về việc không vi phạm các bạo hành. Ta cũng cần phải
nhận xét về những giá trị đạo đức của việc từ bỏ hành
động, bỏ qua sự can thiệp và từ chối giúp đỡ. Khi người
ta giết hại lẫn nhau, tôi sẽ không làm gì hết ngoài
chuyện kết án điều này là ác. Ta cũng biết một câu nói
nổi tiếng của Peguy về những người Công giáo: „Họ có
những bàn tay tinh khiết, nhưng họ không có bàn tay.“ Có
rất nhiều tình huống mà bất bạo động không phải là một
sự chọn lựa đạo đức. Đó chính là lý do tại sao mà ngay
cả giá trị đạo đức của phái chủ hoà là điều đáng tranh
luận.
Thực ra, thuyết chủ hoà ở một vị thế
không vững trong bối cảnh quốc tế. Thế giới đều đồng ý
rằng chiến tranh là một điều ác và chỉ gây ra tai hoạ.
Nhưng nếu xác quyết rằng chiến tranh luôn luôn là một
điều ác cùng cực thì quả là một điều phi lý. Phần đông
những người hiện nay tự cho mình là chủ hoà cũng chỉ là
những người còn sót lại trong số những người chủ hoà
theo quan điểm cổ truyền. Khi họ thú nhận ngoài môi rằng
nếu chiến tranh là một điều không tránh được, thì nó là
một điều ác lại có thể chấp nhận được. Họ chỉ uớc đoán
rằng trong đa số tình hình thực tế có những điều kiện
làm cho chiến tranh có thể chấp nhận được lại không hội
đủ. Trong những biện pháp mà họ cân nhắc là không loại
trừ trên nguyên tắc những điều kiện như thế xảy ra. Họ
không là những người theo phái chủ hoà theo ý nghĩa
nghiêm chỉnh nhất, đúng hơn, họ là môn đệ của một khái
niệm rất giới hạn về một cuộc chiến tranh vì chính nghĩa.
Còn những người tự nhận là chủ hoà vì họ
cổ vũ các giải pháp bằng thương thuyết, bằng đường lối
ngoại giao hoặc bằng cách cần phải thử nghiệm tất cả mọi
phương thức cho phép tránh được chiến tranh, thì họ cũng
chẳng phải là những người chủ hoà hơn những ngưòi khác
Nhằm tránh chiến tranh, tất cả chúng ta ai cũng mong uớc
đạt đến một giải pháp bằng hoà ước. Nhưng điểm khác là ở
chỗ đối với một người chủ hoà chân chính thì phương cách
ngoại giao nhằm tóm tắt những gì có thể thực thi được,
trong khi một người không chủ hoà lại cho rằng giải pháp
ngoại giao có hữu hiệu hay không, việc này còn tùy thuộc
vào khả năng áp dụng bạo lực hay đe doạ dùng bạo lưc.
Một người chủ hoà chân chính phải lo đối đầu toàn diện
với một chính sách ngăn ngừa, nhưng thật ra phải hành
động bằng cách đe doạ là sẽ gây chiến tranh như thật
nhằm tránh chiến tranh. Lịch sử đã cho chúng ta nhiều
thí dụ mà sự đe doạ chiến tranh là một phương thức duy
nhất không gây ra chiến tranh. Vấn đề duy nhất nhằm phân
biệt giữa người chủ hoà và ngưòi không chủ hoà là tìm
hiểu xem họ phải làm gì trong khi giải pháp thương
thuyết thất bại: tiếp tục thương thuyết khi không còn ai
để đàm phán hay chỉ cầu cứu đến vũ lực?
Cũng nên xem phe chủ hoà như biểu hiện
lòng khoan dung. Khoan dung là một đức tính khi mà ta
chấp nhận không hề kết án những gì mà ta không đồng ý.
Nhưng tính khoan dung mất đi ý nghiã đạo đức trong khi
khoan dung đưa tới phải chịu đựng những gì xấu xa. Người
ta có nên chủ trương cần phải hành động đúng đắn trong
khi lại phải chịu những điều thực ra là xấu xa ấy chăng?
Thuyết chủ hoà chỉ có một thái độ đạo đức nhất quán cho
đến khi nào nó tạo ra một chuyển hướng trong hành động.
Trong khi thuyết này đưa ra quan điểm thuộc về nguyên
tắc, thì thuyết này lại trở nên thiếu thuần nhất trong
thực tế. Thuyết này coi việc không cần tới chiến tranh
như luôn luôn là một việc ưu tiên, cho đến chừng nào mà
điều này có thể đạt được. Nhưng khi từ chối chiến tranh
trong mọi trưòng hợp một cách quyết liệt như vậy, đó
chính là việc làm sụp đổ ngay đến những giá trị làm nền
tảng cho sự từ chối đó. Có nên chủ trương hành động một
cách khôn khéo trong khi người ta để cho bạo lực tự lộng
hành chăng? Nguyên tắc của thuyết chủ hoà cho thấy rõ
tính cách bất khả thi của những nguyên tắc tuyệt đối
trong thế giới ngày nay.
Chiến tranh có chính nghĩa theo quan
điểm phái chủ chiến
Khái niệm về chiến tranh có chính nghĩa
luôn đối nghịch với tư tưởng thường được mệnh danh là
chủ chiến, mà theo quan điểm này trong chiến tranh tất
cả đều được phép. Phái chủ chiến dường như bảo vệ một
quan điểm khá đơn giản: inter arma silent
leges (khi súng đạn lên tiếng nói thì luật pháp phải
im). Khi có chiến tranh thì không còn những luật lệ hay
những tiêu chuẩn về công lý cho phép người ta xác định
những lập luận hợp pháp để cầu viện đến chiến tranh và
những phương tiện khả chấp để tiến hành chiến tranh. Tất
cả đều có thể bị vi phạm và phải chịu đựng vì chiến
tranh. Họ sử dụng bạo lực mà không hề nhìn thấy gì đạo
đức, và đúng họ là đạo đức giả khi chủ trương gây một
cuộc chiến vì chính nghĩa. Ngay từ thuở sơ khai của lịch
sử nhân loại, trong phe chủ chiến có nhiều niềm tin khác
nhau đã gợi ý cho họ gây chiến, cần nên phân biệt các
luận điểm này.
Quan điểm cực đoan nhất cho rằng chiến
tranh tự nó tạo nên một hình thức của chính nghĩa. Chiến
tranh là động lực của lịch sử. Nó tuyển lựa ra xem thành
phố, dân tộc hay nền văn minh nào đáng được sinh tồn.
Chiến tranh cũng tạo cơ hội cho cá nhân đem lại những
thành tựu nhằm siêu việt hoá nhân loại. Chiến tranh cũng
là những trường hợp chủ yếu nhằm quy tụ dân chúng lại
làm thành một dân tộc. Khi đem những động cơ hay phương
tiện làm thành những giới hạn nhằm áp đặt cho chiến
tranh để ngăn cản những công trình tương tự của lịch sử,
thì những cuộc chiến đó không có chính nghĩa. Người ta
nhận ra quan điểm này trong lí thuyết của Hegel. Joseph
de Maistre đã biện minh quan điểm này rất rõ nét.
Tuy thế, điểm yếu của lập luận này là dựa trên định đề
về một ý nghiã tổng quất của lịch sử nhân loại. Một định
đề như thế là một đề tài cần được tranh luận, bởi vì con
người luôn có thể sai lầm, do những đặc tính giới hạn và
bất định. Thật ra, đây cũng giống như những lợi điểm của
một “lịch sử nhiều ồn ào và cuồng nộ do tên khờ kể lại“
hơn là về những thành tựu liên tục trong một ý nghĩa
trừu tượng. Khi tách rời định đề này ra, thì ý niệm về
chiến tranh như một công trình công lý của lịch sử và
một biểu hiện nền đạo đức tối cao như là một yếu tính
mất đi vẻ thật của nó.
Một quan điểm khác lại cho rằng chiến
tranh là một sự tất yếu tự nhiên nằm sẵn trong đức tính
cơ bản của con người và đất nước. Chiến tranh bằt nguồn
từ những tham vọng và quyền lợi của con người. Muốn giới
hạn chiến tranh điều này giống như xin con rắn đừng
chích nọc đọc. Khi bàn đến quy luật xung đột của con
ngưòi là chuyện muôn đời, Thucydide đã lập luận như sau:
„Người
ta không hề có bất kỳ một do dự nào để thay đổi từ chiến
tranh sang hoà bình. Đối với kẻ khôn ngoan thì hiển
nhiên họ luôn giữ thái độ im lặng, khi mà ngưòi ta không
gây thiệt hại gì cho họ. Nhưng đối với những kẻ có lòng,
khi quyền lợi của họ bị thiệt hại, họ sẽ không chiụ hoà
mà chấp nhận chiến tranh. Nhưng khi điều kiện thuận lợi
thì họ từ bỏ chiến để chấp nhận hoà.“
Muốn áp đặt một nền đạo đức theo bản
chất tự nhiên là một mơ ước vô nghĩa. Quy luật tự nhiên
đặt ra ai có quy quyền tối cao là người đó chỉ huy, bất
cần tới luật lệ.
„Khi mà ta thống trị được kẻ khác
theo quy luật tự nhiên của con người thì ta thường tự
biểu lộ rằng mình có chính nghĩa hơn là chấp nhận một
quyền lực mà ngưòi ta quy định... trong tận cùng thì
cách lập luận này không hề có giá trị thuyết phục và
đáng được ca ngợi.“
Hai trích dẫn trên rất cần thiết nhằm
tránh những hiểu lầm quan điểm này. Không đặt vấn đề đạo
đức cốt để sử dụng bạo lực chỉ có nghĩa là tuyệt nhiên
không cân nhắc và phân biệt các phương sách trước khi
cần cầu viện chiến tranh. Thuyết tự nhiên về chiến tranh
thì không hề có chiến tranh nào là chính nghĩa hay không
chính nghĩa, mà chỉ có chiến tranh ngu xuẩn và chiến
tranh có cân nhắc. Sự cân nhắc hay những tính toán xác
đáng về những quyền lợi lâu dài thường đưa tới những
hành động hướng dẫn đạo đức. Nói rộng hơn, khi ta cho
rằng chiến tranh không thể tránh được, sự thật này không
ngăn cản được ta suy nghĩ tìm ra những phương tiện tốt
hơn trong hành động, đặc biệt là giới hạn những tổn hại
dân sự không cần thiết.
Thuyết tự nhiên cho là chiến tranh là
hiển nhiên, mà người ta dùng nó khi cần để làm một luận
đề kiểm chứng: chiến tranh là một điều không tránh được
và người ta gây chiến khi người ta có thể thắng được.
Khi lập luận này trở thành quy luật và cho rằng người ta
phải tiến hành chiến tranh bằng mọi phương tiện, thì
điều này cần đưọc bàn cãi. Ngay khi chấp nhận có những
cuộc chiến không thể biện minh được hay biện minh mà
không thuyết phục được, thì người ta cần phải đào sâu
vào các phân tích giống như những tư duy về đạo đức, đây
là chuyện không thể tránh được
Những âu lo cân nhắc, đặc biệt về kinh
tế, buộc người ta phải coi chiến tranh với tất cả mọi
hình thái hoạt động là không có giá trị gì hết; chỉ một
vài loại hoạt động nào đó là có thể được ưa chuộng hơn
và những hình thái khác phải đưọc coi là ngoại lệ.
Không, người ta không thể chỉ gây chiến vì những lo âu
duy lý. Những cưỡng chế bắt nguồn từ những cân nhắc cẩn
trọng không dựa trên những lập luận đạo đức, nhưng nó có
những hậu quả tương tự tạo ra lo âu đạo đức của chiến
tranh. Nhượng bộ về điểm này có nghĩa là từ bỏ quan điểm
chiến tranh của thuyết tự nhiên, đối nghịch với ý tưởng
về một cuộc chiến vì chính nghĩa. Trong một cuộc bàn cãi
nổi tiếng về thân phận của những cư dân vùng Mytiliène,
Thucydide nhắc lại những lập luận của Diodote. Ông biện
hộ cho việc đại xá với những lập luận về sự cân nhắc
cũng hàm chứa những lập luận khác của Cleon, người theo
phái tiêu diệt. Khi Cleon phản đối sự trả thù dân
Mytiliene không màng đến luật lệ, thì Diodode cho rằng
không cần thiết phải thảo luận bằng lập luận về sự cân
nhằc trong những quyết nghị.
„Tôi có thể
minh chứng rằng những cư dân của Mytiliène là hoàn toàn
phạm tội mà không hề khiếu nại gì về cái chết cuả họ,
điều này không phải là quan tâm của chúng tôi.“
Nỗi lo âu về sự cẩn trọng đưa tới sự
phân biệt; điều này cũng giống như cân nhắc trong đạo
đức giữa những hành vi có thể và không thể biện minh
được.
Trong một cuốn sách nhan đề là Le
Nomos de la terre, phát hành năm 1950, Carl Schmitt
định nghĩa một hình thức khác lạ về tính cách trung dung
về mặt đạo đức của chiến tranh.
Theo ông, chiến tranh dựa trên một trật tự thế giới có
cội rễ từ Châu Âu (Jus Publicum Europeanum). Bắt
nguồn từ chủ quyền tối thượng của Âu châu, trật tự này
thành hình trong không gian đích thực. Trật tự này do
kết quả từ những chiếm đóng đất đai, nói khác đi, là
những chia cắt không gian và lãnh thổ, mà nó tạo nên
nguồn gốc của tình trạng thực tế Âu châu. Họ tự định
nghĩa về chính nghĩa cho chiến tranh khi họ so với tự
quyền đi chiếm đất đai của mình, cũng như họ cho rằng
trong cuộc chiến tranh của hai phe đối nghịch, khi ai là
kẻ chiếm đất đầu tiên thì người đó có chính nghĩa. Theo
Schmitt, nếu với nội dung này để định nghĩa chính nghĩa
thì chỉ là định danh cho một cuộc chiến nhằm tái lập một
trật tư do Âu châu lập ra, cho dù cuộc chiến này nhằm
chống lại một kẻ thù có chính danh và giải pháp của nó
có ra sao đi nữa. Trong ý nghĩa này, chính nghĩa chiến
tranh đặt ra một cưỡng chế thuần về mặt hình thức. Nó
không tùy thuộc vào căn cơ của chính nghĩa. Ngay khi kẻ
thù có chính danh, thì tất cả mọi lập luận để gây chiến
đều tốt và bất cứ ai trong phe họ cũng không thể coi là
kẻ thù vi phạm hình sự. Phân tích đạo đức về những cơ sở
lập luận để gây chiến, những trường hợp gây chiến và
những mục tiêu theo đuổi trong trưòng hợp này đều thiếu
ý nghĩa của nó.
Khái niệm chính nghĩa chiến tranh thuần
về hình thức tạo nên hậu quả là đạo đức của chiến tranh
mang tính trung dung. Cuộc chiến có chính nghĩa về mặt
hình thức theo quan điểm cuả Schmitt đối nghịch với ý
nghĩa chiến tranh có chính nghiã theo thời trung cổ,
được phê phán theo quan điểm đạo đức của giáo hội đặt ra
nhằm giải quyết vấn đề chính nghĩa. Nhưng quan điểm này
đối nghịch với những cuộc chiến vì chính nghĩa của thế
kỷ XX, khi mà luật quốc tế được sử dụng như là một „chủ
thuyết thượng tôn luật pháp không biên giới“, tách rời
khỏi mọi gốc rễ từ Châu Âu, điều này đem đến hậu quả là
phân biệt giữa nguyên nhân chính đáng và sai lầm của
cuộc chiến và hình sự hoá hành vi của kẻ thù. Schmitt
cũng nhận ra trong các tổ chức quốc tế hình thành từ sau
1945 có một sự phục hồi quan điểm thần học về chiến
tranh với những lập luận quanh co bằng những phương cách
giả tạo nhân danh luật pháp. Chống lại hai quan điểm
này, một của thời trung cổ và một theo chủ thuyết quốc
tế về chính nghĩa cho chiến tranh, Schmitt muốn đề ra ý
tưởng trung dung trong một cuộc chiến. Ông cho là vấn đề
chiến tranh chỉ được biện minh bằng đạo đức, khi nào kết
luận được rằng kẻ thù có chính danh hay không. Theo
Schmitt, chiến tranh có chính nghĩa theo ý nghĩa cổ
truyền có một cấu trúc hình thức hoàn toàn khác biệt.
Ở đây ta không thể phê bình chi tiết tất
cả các quan điểm này. Tôi sẽ đề cập đến ba quan điểm mà
đối với tôi dường như có thể thảo luận được. Về quan
điểm lịch sử, hai ý niệm về chiến tranh có chính nghĩa
mà Schmitt đề ra, một dựa trên thần học, một dựa trên
thuần hình thức, cả hai liên tục tồn tại cho đến cuối
thế kỷ XVIII. Ý tưởng về một học thuyết luật học của
chiến tranh xuất hiện từ lúc khởi đầu thời trung cổ,
không phải vào thế kỷ XVI. Về ý niệm về chiến tranh có
chính nghĩa vào thời trung cổ, ý niệm này kéo dài đến
trước thời kỳ Khai sáng.
Chiến tranh cách mạng vào cuối thế kỷ XVIII được tiến
hành một phần bắt nguồn từ quan điểm coi đối phương như
những kẻ phạm tội hình sự, mà Schmitt coi là chỉ thể
hiện vào thế kỷ XX.
Hơn nữa, trên bình diện ý niệm mà xét,
một quan niệm về chiến tranh đứng trung dung về mặt đạo
đức như thế liên hệ chặt chẽ đến nguyên tắc chủ quyền
dựa trên sự chiếm đoạt đất đai. Hoặc là ngưòi ta thấy
một quan điểm tương tự về một cuộc chiến trung dung được
Thucyidide trình bày khá cặn kẽ, ngoại trừ quan niệm về
Jus Publicum Europeanum. Đây là chỗ đáng nghi ngờ về ý
tưởng tính trung dung của đạo đức trong cuộc chiến, điều
mà Schmitt cố áp đặt là một luận đề liên hệ đến sự nảy
sinh một trật tự chung cho Châu Âu và coi đây như là một
loại trật tự độc quyền.
Tóm lại, định nghĩa về chiến tranh vì
chính nghĩa như thế bắt nguồn từ luật Châu Âu. Định
nghĩa này quy định tất cả những quốc gia tham chiến đều
có một nền văn hoá và luật lệ chung, ngay cả „công pháp
Châu Âu“. Điều này cho thấy chiến tranh chỉ có thể trung
dung về mặt đạo đức trong điều kiện minh thị rằng những
quốc gia trước hết có những cam kết chung. Ngưòi ta xa
rời hẳn quan điểm tính trung dung cực đoan theo
Thucydide.
Đặc điểm đáng tranh luận trong luận đề
do Schmitt đưa ra là ông ta chỉ chú tâm đến những giới
hạn đạo đức tạo nên giá trị cho chiến tranh, những giới
hạn này chỉ có thể bắt nguồn từ quan điểm thần học mà
giáo hội áp đặt lên trên nhà nước, hoặc là một loại luật
quốc tế không còn lảnh thổ và hiển nhiên không bàn đến
tính cách chính danh. Những giới hạn hay cưỡng chế này
đề ra những quy cách áp dụng trong chiến tranh mà nó
thường bắt nguồn từ những ý niệm về chủ quyền. Nó duy
trì lý tưởng sống động về một chiến tranh có chính nghĩa
trong lòng một hệ thống Châu Âu, một lý tưởng không chỉ
tự giới hạn trong sự kiểm chứng về sự chính danh của kẻ
thù.
Ý tưởng về chiến tranh có chính nghĩa
Nếu một nền hoà bình vĩnh cữu có thể
được tạo lập, những suy lý về chiến tranh có chính nghĩa
trở nên vô ích. Các quốc gia thuộc Liên hiệp Châu Âu
dường như đang đi vào trong tình trạng quyết định cho
hoà bình. Lí thuyết về chiến tranh có chính nghĩa tại
Châu Âu có vẻ như được đặt ra nhằm quảng bá để trị liệu
những điều ác mà nó không còn có nữa. Tuy thế, một mô
thức của Châu Âu áp đặt lên những nơi khác trên thế giới
là một điều khó có thể quan niệm được. Nhu cầu suy lý về
tính đạo đức của chiến tranh vẫn còn đó. Hơn nữa, hy
vọng rằng chiến tranh sẽ kết liễu tuyệt nhiên không loại
trừ được khả năng chiến tranh không còn là một phương
tiện dẫn tới hòa bình. Chiến tranh nuôi dưỡng hy vọng
hoà bình và dần dần trở thành cần thiết, cũng như Kant
đã xác nhận điều này, nó giải quyết các xung đột. Chính
vì lập luận này, những suy lý về đạo đức của chiến tranh
có thể đóng góp tạo nên những điều kiện mà chiến tranh
sẽ trở thành vô ích.
Sự hiện diện của luật quốc tế nhằm giới
hạn đến việc cầu viện bằng chiến tranh và quy định trong
trường hợp nào chiến tranh là hợp pháp tuyệt nhiên không
hề xoá đi vấn đề chiến tranh vì chính nghĩa. Khi một tòa
án quốc tế tuyên bố chiến tranh là hợp pháp hay phi
pháp, sư kiện này không thể tránh khỏi việc tự hỏi về
tính cách hợp pháp hay bất hợp pháp trong sự sử dụng vũ
lực. Trong mối quan hệ với phê phán về mặt pháp lý thì
tôi đã nhấn mạnh đến tính cách độc lập cao hơn của những
phê phán về mặt đạo đức. Một cuộc chiến không được luật
quốc tế cho phép cũng như không hội đủ điều kiện của
luật quốc tế, có thể là một cuộc chiến có chính nghĩa,
điều này có thể xảy ra, như trong trưòng hợp can thiệp
tại Kosovo. Người ta không thể loại trừ được những
trường hợp rất ít mà cuộc chiến có khả năng xảy ra,
nhưng không có nghĩa là không thể có được nữa, cũng như
trường hợp một cuộc chiến được quốc tế đồng tình, thì
cũng không được coi nó là một cuộc chiến tranh có chính
nghĩa.
Sự hiện hữu của bạo lực trên thế giới
không là một đề tài mà ngưòi ta sẽ tự do bảo vệ hay phản
bác. Trước hết, nó là đối tượng cần kiểm nghiệm: Bạo lực
đã có và sẽ còn mãi. Khi cho rằng cần né tránh chiến
tranh, chủ thuyết chủ hoà không hề đưa tới sự xoá bỏ bạo
lực, đúng hơn đây là nó chỉ nhắm vào một suy nghĩ bảo
thủ. Còn về quan niệm chiến tranh theo phái tự nhiên tất
nhiên cần đưa tới suy tưởng về mặt đạo lý. Cả thuyết chủ
hoà lẫn chủ chiến không là những quan điểm dùng để suy
luận về những giới hạn của bạo lực. Có như vậy sự suy lý
về chiến tranh, đặc biệt là cân nhắc phân biệt giữa
những lập luận hợp pháp phải làm, là điều không tránh
được.
Nguồn:
Monique Canto-Sperber, La
guerre juste, une notion impertinente? Esprit,
Février, 2005,
pp. 204-212.