1.
KIẾN TRÚC
CỦA TRUNG
QUỐC
Người Trung
Quốc sử dụng
đủ loại vật
liệu xây
dựng như gỗ,
đá, gạch,
ngói, đất
bùn, và kim
loại. Từ
thời xa xưa,
họ chủ yếu
dùng gỗ để
xây nhà ở và
kỹ thuật
thiết kế và
xử lý các
kết cấu gỗ
của họ thực
là tài tình.
Tại di chỉ
Hà Mẫu Độ
tỉnh Chiết
Giang, người
ta đã khai
quật được
những mảnh
gỗ bắt mộng
vào nhau, và
chúng được
giám định là
xuất hiện
trên 6500
năm.
 |
Mái ngói
men (lưu
ly ngoã)
đặc
trưng
của
Trung
Quốc
|
Đời Hạ,
Thương, Chu,
đã xuất hiện
kết cấu kiến
trúc xây nhà
xung quanh
và sân ở
giữa. Kỹ
thuật đầm
đất và kết
cấu gỗ đã
phát triển
cao nhờ các
công
cụ bằng
đồng, bằng
sắt đã xuất
hiện. Kinh
đô lấy cung
điện nhiều
bậc thềm làm
chính, xung
quanh có
tường thành
bằng đất
nện. Đời Tần
và đời Hán,
do sự thống
nhất đất
nước và giao
thông thuận
lợi hơn, kỹ
thuật xây
dựng phát
triển do sự
giao lưu
giữa các địa
phương. Giới
thống trị đã
xây dựng rất
nhiều đền
đài, lăng
mộ, thành
trì, công
trình thuỷ
lợi, v.v...
Đời Tấn và
Nam Bắc
Triều, kỹ
thuật xây
dựng dung
hợp các cách
thức của các
dân tộc, và
cả nước
ngoài nữa.
Đạo giáo và
Phật giáo
phát triển,
cho nên các
kiến trúc
tôn giáo mới
mẻ xuất
hiện. Đời
Đường, kiến
trúc đạt đến
sự tinh vi
và thuần
thục rất
cao. Việc
chế tạo ngói
tráng men (lưu
ly ngoã)
đã xuất hiện
từ đời Nam
Bắc Triều
nay có tiến
bộ hơn ở đời
Đường và
được sử dụng
rộng rãi
hơn. Đời
Tống là thời
kỳ chuyển
biến của kỹ
thuật xây
dựng. Phong
cách kiến
trúc trang
trọng và
giản dị của
đời Đường
chuyển sang
phong cách
hoa mỹ cầu
kỳ vào đời
Tống. Vào
đời này bắt
đầu xuất
hiện tác
phẩm
Doanh Tạo
Pháp Thức
của Lý Giới.
Đây là sách
giáo khoa về
kỹ thuật xây
dựng, trình
bày toàn bộ
quá trình
xây dựng, từ
thao tác đo
đạc tính
toán nền
móng, tính
toán vật
liệu, thiết
kế, thi
công, trang
trí, v.v...
Sang đời
Minh và
Thanh, nghề
làm gạch
phát triển,
và gạch được
sử dụng rất
nhiều trong
các công
trình xây
dựng, từ nhà
ở của dân
đến đền đài,
cung điện,
thành quách,
cầu đường,
v.v...
Kiến
trúc bên
trong Tử Cấm
Thành:
 |
 |
 |
Một góc
bên
trong Tử
Cấm
Thành
|
Lan can
đá chạm
trổ |
Sư tử đá
và mái
cung
điện |
2.
VẠN LÝ
TRƯỜNG THÀNH
«Bất đáo
Trường Thành
phi hảo hán»
là câu nói
cửa miệng
của người
Trung Quốc.
Vạn lý
Trường Thành
(tức Trường
Thành) là
công trình
kiến trúc vĩ
đại nhất, là
một trong
những biểu
tượng mạnh
mẽ nhất của
Trung Quốc,
và là niềm
tự hào của
dân tộc này.
Trường Thành
bắt đầu từ
ải quan Gia
Dụ (Cam Túc)
ở phía tây,
uốn khúc
chập chùng
chạy sang
phía đông
đến ải quan
Sơn Hải (Hà
Bắc). Trường
Thành đã
xuất hiện
trước khi
Tần Thủy
Hoàng thống
nhất Trung
Quốc. Nó
nguyên là
các bức
tường của
các nước
thời Chiến
Quốc dùng
ngăn giặc.
Trong trận
chiến cổ
đại, quân
dội dựa vào
kỵ binh, bộ
binh, và
chiến xa
(ngựa kéo).
Do đó các
tường thành
này rất quan
trọng để
ngăn chặn
quân địch.
Trước khi
Tần thống
nhất Trung
Quốc, tường
thành của
nước Tần bắt
đầu từ Lâm
Triệu (huyện
Mân, Cam Túc
ngày nay) ở
phía tây,
chạy qua Cố
Nguyên ở
đông bắc và
đến Hoàng
Hà. Tường
thành của
nước Triệu
từ Cao Quyết
(huyện Lâm
Hà, Nội Mông
ngày nay)
chạy đến đất
Đại (huyện
Úy, Hà Bắc
ngày nay).
Và tường
thành của
nước Yên từ
Tạo Dương
(Độc Thạch,
Sơn Hà Bắc
ngày nay)
chạy đến
Liêu Đông.
Sau khi Tần
Thủy Hoàng
thống nhất 6
nước năm 221
tcn, ông cho
gia cố các
tường thành
cũ và xây
nối liền
chúng với
nhau.
Năm 221 tcn,
vừa mới
thống nhất
Trung Quốc,
Tần Thuỷ
Hoàng Đế sai
tướng Mông
Điềm kéo
quân đánh
Hung Nô,
chiếm cứ
vùng Hà Nam.
Để ngừa Hung
Nô tiến
xuống phía
nam, vua Tần
sai xây dựng
thêm và gia
cố ba tường
thành cũ
(của Tần,
Triệu, và
Yên). Việc
này cũng do
tướng Mông
Điềm chỉ huy
coi sóc
trong mười
năm, huy
động rất
nhiều công
sức lao động
của quân
lính, dân
chúng, và
phạm nhân.
Ngoài việc
nối liền ba
tường thành
cũ, vua Tần
cho mở rộng
thêm về
hướng bắc.
Những triều
đại về sau
(trừ đời
Thanh) đều
góp phần gia
cố tu bổ
thêm Trường
Thành.
 |
Vạn lý
Trường
Thành |
Đời Hán,
Trường Thành
được nối dài
sang phía
tây đến ải
quan Ngọc
Môn, để
phòng bị
giặc từ phía
Tây Vực. Dọc
theo Trường
Thành có
nhiều trại
quân và
nhiều tháp
canh gọi là
phong hoả
đài. Chế
độ biên
phòng này
rất nghiêm
nhặt. Nếu
thấy giặc,
ban ngày thì
đốt khói,
ban đêm thì
đốt lửa báo
tin cho
nhau, từ xa
mấy trăm dặm
quân cứu
viện có thể
đến ngay
được.
Đời Nam Bắc
Triều, vua
Tuyên Vũ Đế
của Bắc Nguỵ
cho xây thêm
một đoạn
thành 1000
km từ phía
tây sang
đông, tức là
từ Ngũ
Nguyên
(thuộc Nội
Mông ngày
nay) đến
Xích Thành
(thuộc Hà
Bắc ngày
nay). Đời
Bắc Tề cũng
tu sửa
Trường
Thành, đặt
thêm các
trạm biên
phòng nơi
xung yếu.
Đời Tùy huy
động trăm
vạn nhân
công tu bổ
Trường Thành
để chống rợ
Đột Quyết.
Sau khi
triều đại
Nguyên sụp
đổ, biên
giới phía
bắc không an
ninh, phía
đông bắc có
giặc Nữ Chân
quấy phá, do
đó triều
đình nhà
Minh đã tu
bổ Trường
Thành một
cách qui mô
để ngăn ngừa
giặc tràn
xuống phía
nam. Việc tu
bổ này tiến
hành suốt
100 năm.
Trường Thành
đời Minh dài
6 ngàn km,
chạy dài từ
ải quan Gia
Dụ đến Áp
Lục giang.
Dọc theo
Trường
Thành, triều
đình nhà
Minh đặt 9
trại quân
đồn trú tại
Cam Túc, Cố
Nguyên, Ninh
Hạ, Diên
Tuy, Thái
Nguyên, Đại
Đồng, Tuyên
Phủ, Bào
Châu, và
Liêu Đông.
Đến đời
Thanh, vì
giai cấp
thống trị là
người Mãn
Châu, tức là
đối tượng
từng bị
Trường Thành
cản trở
trong các
triều đại
trước, do đó
họ không
quan tâm tu
bổ Trường
Thành.
3 .
HOÀNG
CUNG
Cung điện là
nơi vua giải
quyết việc
nước cũng
như cư ngụ.
Mỗi cung
điện của vua
đều tượng
trưng cho
vương quyền.
Tất cả các
toà nhà (đôi
khi cả trăm
căn) đều
được thiết
kế và xây
dựng sao cho
phản ánh
được cái uy
quyền tối
cao đó. Thời
cổ đại, cung
điện luôn là
trung tâm
của thủ đô.
Qua phát
hiện khảo
cổ, người ta
thấy cung
điện đầu đời
Thương được
xây dựng
trên gò đất
và gồm tám
gian, kết
cấu khung
gỗ, bên
ngoài có
tường bao
bọc. Cung
điện gồm có
đường
(nơi họp
triều) và
thất
(nơi ở). Di
chỉ Ân khư
(tại An
Dương) cho
thấy cung
điện đời
Ân-Thương
(tức cuối
đời Thương)
gồm ba khu:
khu phía bắc
là nơi cư
ngụ của
vương thất;
khu giữa là
khu trung
tâm với qui
mô lớn, làm
tông miếu và
hành chính;
và khu phía
nam là nơi
cúng tế. Ba
khu xếp theo
một trục đối
xứng, theo
thiết kế gọi
là «tiền
điện, hậu
tẩm»
(phía trước
là cung
điện, phía
sau là phòng
thất để ở).
Do đó có thể
thấy đây là
tiền thân
của các
hoàng cung
về sau. Đời
Chu, bố cục
của hoàng
cung là
«tiền triều,
hậu tẩm, tả
tổ, hữu tắc»
(phía trước
làm nơi họp
triều, phía
sau làm nơi
nghỉ ngơi,
phía trái
thờ tổ tiên
tức tông
miếu, phía
phải thờ xã
tắc). Đa số
khu hoàng
cung đều có
tường thành
vây bọc, gọi
là «thành
cung»
(cung điện
có thành bao
bọc).
Hoàng
cung đời Tần
và đời Hán
cũng theo
phong cách
tiền điện
hậu tẩm,
các cung
điện phân bố
rải rác, nối
với nhau
bằng các
đường nhỏ.
Hoàng cung
Tây Hán ở
Trường An
lấy cung
Vị Ương của
vua làm
chính, gọi
là tiền
điện.
Hoàng cung
Đông Hán ở
Lạc Dương
lấy Thái Cực
Điện làm
tiền điện.
Hoàng cung
đời Nguỵ,
Tấn, và Nam
Bắc Triều
cũng noi
theo đời
Đông Hán,
lấy Thái Cực
Điện làm
tiền điện,
nhưng áp
dụng bố cục
tam triều,
xếp trên
trục dọc nam
bắc: đại
triều, nhật
triều, và
thường
triều.
Đại triều
là cổng
chính (Thừa
Thiên Môn);
nhật triều
là Thái
Cực Điện,
và
thường triều
là Lưỡng
Nghi Điện.
Hoàng cung
đời Đường ở
Trường An
tuân thủ bố
cục tam
triều và
tiền
triều hậu
tẩm, tả tổ
hữu xã.
Phía sau
hoàng cung
là vườn hoa,
bên trái là
Dịch Đình,
bên phải là
Đông Cung
(nơi thái tử
ở); phía nam
hoàng thành
có cơ quan
cấm vệ, nhà
Thái Miếu
(thờ tổ
tiên) và nhà
Thái Xã (thờ
xã tắc).
Kiến trúc
hoàng cung
Tống, Liêu,
Kim cũng bắt
chước đời
Đường.
Hoàng cung
đời Thanh
trên trục
nam bắc với
cấu trúc «ngũ
môn tam điện»
(năm cửa, ba
cung điện)
gồm lần
lượt: Thiên
An Môn (cửa
chính hoàng
thành), Đoan
Môn, Ngọ
Môn, Thái
Hoà Môn,
Thái Hoà
Điện, Trung
Hoà Điện,
Càn Thanh
Môn, Càn
Thanh Cung.
Từ Thiên An
Môn đến Ngọ
Môn là khu
ngoại
triều;
Thái Hoà Môn
và Thái Hoà
Điện là khu
nội triều;
Càn Thanh
Môn đến Càn
Thanh Cung
là khu
yên triều
(hay tẩm).
Trung Hoà
Điện là nơi
vua chuẩn bị
cử hành đại
triều. Bảo
Hoà Điện là
nơi thiết
đãi yến
tiệc. Ngoài
ra còn các
nơi ở của
vua (Càn
Thanh Cung),
hoàng hậu
(Khôn Ninh
Cung), phi
tần cung nữ
(6 cung ở
phía đông và
tây), hoàng
tử (ngũ sở).
4 .
PHẬT TỰ VÀ
ĐẠO
QUÁN
Chùa chiền
(phật tự)
Trung Quốc
xuất hiện từ
khi Phật
giáo du nhập
vào đất nước
này. Ban đầu
Hán Minh Đế
(cai trị
58-75) cho
xây riêng
một toà nhà
ở Lạc Dương
để hai cao
tăng Ca Diếp
Ma Đằng và
Trúc Pháp
Lan làm chỗ
cư ngụ và
tàng trữ
kinh Phật.
Vì kinh phật
ban đầu được
chở bằng
ngựa trắng
chở sang,
nên chùa
được đặt tên
là Bạch Mã
tự.
 |
 |
Đại Nhạn Tháp tại Tây An xây dựng năm 652 (đời Đường) |
Bạch Tự
(tức
Vĩnh An
Tự) tại
Bắc Kinh
với kiến
trúc
Phật
giáo Tây
Tạng,
xây dựng
năm
1651,
đổi tên
là Vĩnh
An Tự
năm 1741
(đời Vua
Càn
Long),
trùng tu
vào các
năm 1743
và 1751.
|
Khi Phật
giáo phát
triển, các
chùa mọc lên
rất
nhiều, bố
cục kiến
trúc chùa
còn ảnh
hưởng theo
kiểu kiến
trúc qua các
dinh phủ
quan lại đời
Hán (một số
quan lại đã
hiến nhà làm
chùa). Theo
cấu trúc
này, cổng
vào nằm trên
trục nam
bắc, cách
một khoảng
sân lại có
toà điện,
xung quanh
là hành
lang. Bố cục
thông thường
của quần thể
này là: Cổng
chính có ba
cửa nhỏ.
Bước qua
cổng thì
thấy ngay
một điện thứ
nhất (Thiên
Vương Điện,
có gác
chuông hai
bên). Kế đó
là lớp điện
chính (Đại
Hùng Bảo
Điện), gồm
đại điện thờ
chư phật;
sau đại điện
là pháp
đường để
thuyết pháp
giảng kinh.
Hai bên pháp
đường là
trai đường
và thiền
đường. Nơi ở
của phương
trượng (sư
trụ trì),
nhà kho, nhà
bếp, nhà
tắm, và nhà
tiếp khách
thì thiết kế
xung quanh.
 |
Lục Hoà
Tháp ở
Hàng
Châu,
xây dựng
năm 971
(đời
Tống) |
Quần thể
kiến trúc
chùa theo
kiểu Ấn Độ
còn có tháp
đá. Kiểu
kiến trúc
này du nhập
vào Trung
Quốc qua ngả
Trung Á. Khi
tháp xuất
hiện tại
Trung Quốc
(có lẽ cuối
đời Hán),
thì tháp có
dáng cao và
thon thả.
Tháp có
khoang rỗng
để đặt tượng
phật. Khi
tháp được
bản địa hoá
thì nó thay
đổi kiểu
dáng, có
nhiều tầng
lầu, vừa có
thể để tượng
phật vừa có
thể đứng
ngắm cảnh.
Các tháp
thông thường
có 7 tầng
(cũng có khi
9 hay 11
tầng) xây
dựng trên
nền cao, các
tầng dưới
thì cao và
to, các tầng
trên thì thu
nhỏ dần.
Tháp đời Nam
Bắc Triều có
tầng trệt
cao rộng,
các tầng
trên rất
thấp là khít
nhau. Tháp
đời Đường
bằng gạch
hay gỗ, phổ
biến là tháp
hình vuông,
lục giác, và
bát giác.
Tháp bát
giác thịnh
hành sau đời
Đường. Đời
Tống, tháp
bằng gạch và
xây đặc
ruột. Sang
đời Nguyên
do Phật giáo
Tây Tạng hay
Lạt Ma giáo
thịnh hành,
tháp Lạt Ma
giáo xuất
hiện cũng
nhiều; kể cả
trong đời
Minh và đời
Thanh cũng
vậy.
Các đạo quán
có rất nhiều
khắp nơi của
Trung Quốc.
Quan trọng
nhất là
Bạch Vân
Quán tại
Bắc Kinh.
Bạch Vân
Quán ở phiá
ngoài cửa
tây của Bắc
Kinh, là tổ
đình của
Toàn Chân
phái, nổi
tiếng là
«Thiên hạ đệ
nhất tùng
lâm». Tên
ban đầu của
nơi này là
Thiên Trường
Quán, xây
dựng năm 722
theo sắc
lệnh của
Đường Huyền
Tông. Đời
Kim, giặc
Khiết Đan
phương bắc
kéo xuống
phương nam
đánh phá,
Thiên Trường
Quán bị hủy
hoại nặng
nề. Năm 1167
Kim Thế Tông
sắc lênh
trùng tu,
đặt tên lại
là Thập
Phương Đại
Thiên Trường
Quán. Năm
1202, đạo
quán bị đốt
cháy, Kim
Chương Tông
ban sắc lệnh
trùng tu năm
1203, đổi
tên là Thái
Cực Điện,
rồi lại đổi
thành Thái
Cực Cung.
 |
Sơn môn
của Bạch
Vân Quán
|
Đời Nguyên,
đạo quán nổi
danh kể từ
Khưu Xứ Cơ
được Thành
Cát Tư Hãn
quý trọng.
Khưu Xứ Cơ
về trụ trì
Thái Cực
Cung năm
1224. Nguyên
Thái Tổ ban
sắc lệnh tu
sửa nơi này
và đổi tên
thành Trường
Xuân Cung.
Cuối đời
Nguyên,
Trường Xuân
Cung cũng bị
hư hoại
trong chiến
tranh. Vào
những năm
Vĩnh Lạc
(1403-1424),
vua Minh
Thành Tổ ban
sắc
 |
Trong
khuôn
viên của
Bạch Vân
Quán |
lệnh
trùng tu, và
đổi tên nơi
này thành
Bạch Vân
Quán năm
1443. Quần
thể Bạch Vân
Quán gồm Bài
Lâu (lầu gỗ
cao 7 tầng
để quan sát
tinh tú),
Linh Quan
Điện (thờ
thần hộ pháp
của Đạo giáo
là Vương
Linh Quan),
Ngọc Hoàng
Điện (thờ
Ngọc Hoàng
Thượng Đế),
Lão Luật
Đường (tức
Thất Chân
Điện, thờ
Toàn Chân
Thất Tử),
Khưu Tổ Điện
(kiến trúc
trung tâm
của Bạch Vân
Quán, thờ
Khưu Xứ Cơ),
Tam Thanh
Các, Tứ Ngự
Điện (thờ
chư thần của
Đạo giáo).
Những điện
đường này
xây dựng
không cùng
thời gian,
bên trong có
tượng thờ và
hình ảnh
trang trí
tùy theo mục
đích thờ
phụng.
5. KIẾN
TRÚC CHO
KIẾP
SAU
Việc mai
táng là một
trong những
nét cơ bản
của văn minh
Trung Quốc.
Những gì
khai quật
được ở lăng
mộ vua chuá
đời Thương ở
An Dương và
lăng mộ Tần
Thuỷ Hoàng
Đế ở Lâm
Đồng (Tây
An) khiến
người ta
phải kinh
ngạc. Trước
khi Phật
giáo truyền
vào Trung
Quốc, người
Trung Quốc
không có
quan niệm về
tái sinh,
luân hồi, và
kiếp sau. Họ
quan niệm
sau khi chết
linh hồn sẽ
«sống» ở cõi
âm. Quan
niệm này
khiến họ
phải tuỳ
táng những
đồ vật cho
người quá cố
hưởng thụ
như thể
người đó còn
sống ở cõi
dương. Những
vật tùy táng
này gọi là
minh khí.
Mặc dù kiến
trúc cổ đại
trên mặt đất
thường là
kết cấu gỗ,
kiến trúc
cho các mộ
thất thì
bằng đất,
gạch, và đá.
Những gia
đình giàu có
xây các ngôi
mộ nhỏ bé
hơn các ngôi
mộ vua chuá,
nhưng cũng
có đủ cả các
đồ minh
khí (vật
tùy táng) y
hệt như
những vật mà
người quá cố
đã dùng lúc
sinh tiền.
 |
 |
Bên
trong
một lăng
mộ |
Cổng đá
và thần
đạo dẫn
vào Thập
Tam Lăng
đời
Minh,
xây năm
1540,
cao 14
mét,
rộng 19
mét |
Bắc Kinh trở
thành kinh
đô dưới các
triều đại
Nguyên,
Minh, Thanh.
Các vua chuá
đời Nguyên
vốn là dân
tộc du mục,
cho nên họ
không xây
những lăng
mộ vĩ đại và
huy hoàng
tráng lệ như
các vua đời
Minh và đời
Thanh. Sự
khác biệt
này xuất
phát từ quan
điểm khác
nhau về cái
chết. Dân du
mục sống
trên thảo
nguyên, họ
cho rằng họ
sinh ra từ
đất. Cho nên
họ chấp nhận
cái chết đơn
giản: người
chết được
đặt vào thân
cây nam
mộc
khoét rỗng,
rồi sau đó
được chôn
dưới đất cỏ.
Chẳng bao
lâu sau đó
cỏ mọc lấp
đầy, xoá đi
dấu vết của
ngôi mộ.
Ngược lại,
các vua đời
Minh và đời
Thanh tin
vào kiếp sau
– một đời
sống khác
sau khi chết
– cho nên
người chết
sẽ «sống»
một cuộc
sống tương
tự như trên
dương thế.
Do đó họ xây
những lăng
mộ vĩ đại.
Thập Tam
Lăng là
quần thể
lăng mộ 13
vua đời Minh
(1368-1644),
cách Bắc
Kinh 50 km
về phía tây
bắc. Thập
Tam Lăng
được xây
dựng từ năm
1409 cho đến
1644, rộng
trên 40 km
vuông với
tường thành
bao bọc dài
40 km. Mỗi
lăng mộ toạ
lạc trên một
gò cao và
nối với lăng
mộ khác bằng
lối đi gọi
là «thần
đạo». Hai
bên thần đạo
có hai hàng
tượng lính
gác, lạc đà,
voi, và quái
thú bằng đá
để canh giữ
lăng. Cổng
đá vào lăng
xây năm
1540, cao 14
mét, và rộng
19 mét.
6. NGHỆ
THUẬT HOA
VIÊN
VƯỜN
CẢNH
Người Trung
Quốc xem hoa
viên là một
chủng loại
nghệ thuật
nghiêm túc
không kém gì
thư pháp và
hội hoạ. Sự
thiết kế hoa
viên thể
hiện sáng
tạo nghệ
thuật trong
không gian
ba chiều của
thiên nhiên,
có hoa cảnh,
cây cỏ, hồ
nước, núi
non, v.v...
nhằm đạt sự
quân bình
hài hoà của
tâm hồn con
người với
thiên nhiên.
Hoa viên
Trung Quốc
gồm ba chủng
loại: vườn
rừng (lâm
viên), hoa
viên của đế
vương, và
hoa viên của
tư nhân.
 |
Lối vào
hoa viên
với
khung
cửa tròn
(nguyệt
môn)
tiêu
biểu –
Hai chữ
Hán bên
trên là
«nhập
thắng»
(đi vào
thắng
cảnh) |
 |
Hình
tượng
rồng
điêu
khắc
trên các
công
trình
kiến
trúc |
Từ thời xa
xưa, người
Trung Quốc
đã xem hoa
viên là một
bộ phận
thuộc quần
thể kiến
trúc. Từ đời
Thương và
Tây Chu,
giới quý tộc
đã dựa theo
địa thế
thiên nhiên
mà lập những
vườn trại
(gọi là
hữu hay
hữu uyển)
để nuôi động
vật, làm nơi
vui chơi săn
bắn, giải
trí; tức là
một lâm
viên
(vườn rừng).
Quan chăm
sóc hữu uyển
gọi là
hữu nhân.
Khi vua quan
rời cung
điện để vào
vui chơi săn
bắn trong đó
thì gọi là
hữu du.
Hầu hết các
lâm viên của
đế vương đều
xây dựng ở
miền bắc
Trung Quốc,
do đó chúng
thường được
gọi là «Bắc
viên»
(vườn phía
bắc). Bắc
viên lâu đời
nhất phải kể
đến hoa viên
của
Tần Thuỷ
Hoàng Đế,
xây dựng bên
ngoài kinh
đô Hàm
Dương. Tương
truyền hoa
viên có chu
vi 150 km,
rộng 300
mẫu, có hồ
nhân tạo, và
cung A Phòng
được xây
dựng nơi
đây. Đến đời
Hán, vua Cao
Tổ xây cung
điện và hồ
nơi đây. Rồi
vua Vũ Đế
xây thêm một
cung điện và
hồ Côn Minh.
Đời Tuỳ và
Đường, vườn
thượng uyển
phát triển
nhiều. Tuỳ
Dạng Đế xây
Hỉ Viên, chu
vi 100 km.
Hồ trong Hỉ
Viên chu vi
5 km. Đời
Thanh, trong
Tử Cấm Thành
có bốn hoa
viên. Trong
hoàng thành
có 3 cái hồ.
Ở khu ngoại
thành phía
tây Tử Cấm
Thành có năm
hoa viên,
nổi tiếng
nhất là Viên
Minh Viên.
Một hoa viên
để nghỉ mát
vào mùa hè
được xây
dựng tại
Thành Đô chu
vi trên 300
km.
Những
lâm viên đế
vương tại
Bắc Kinh
chiếm địa vị
quan trọng
trong lịch
sử lâm viên
Trung Quốc.
Từ đời Liêu
và Kim về
sau, Bắc
Kinh trở
thành Kinh
Đô, do đó
việc kiến
thiết lâm
viên bắt đầu
có qui mô
lớn. Đời Kim
xuất hiện
Tây Uyển,
Đồng Lạc
Uyển, Thái
Dịch Trì,
Quảng Lạc
Viên, Phương
Viên, Bắc
Uyển, v.v...
đồng thời
kiến tạo ly
cung và vườn
cấm, lớn
nhất là Vạn
Ninh Cung
(nay là một
phần thuộc
công viên
Bắc Hải). Ở
ngoại thành,
triều đình
cho xây dựng
Ngọc Tuyền
Sơn, Phù
Dung Điện,
Hương Sơn
Hành Cung.
Đời Nguyên
chú trọng
phát triển
Vạn Tuế Sơn
(nay là Cảnh
Sơn) và Thái
Dịch Trì
(Bắc Hải).
Trong hoàng
cung có Hậu
Uyển (nay là
cố cung Ngự
Hoa Viên),
bốn mặt
ngoài cung
điện có Đông
Uyển, Tây
Uyển, Bắc
Quả Viên,
Nam Hoa
Viên, Ngọc
Hi Cung.
Vùng ngoại
thành có Lạp
Trường (để
săn bắn),
Thượng Lâm
Uyển, Tụ Yến
Đài. Đời
Minh xây
dựng vườn
hoa nơi đàn
cúng tế như
Hoàn Khâu
Đàn (nay là
Thiên Đàn),
Phương Đàm
Đàn (nay là
Địa Đàn),
Nhật Đàn,
Nguyệt Đàn,
Tiên Nông
Đàn, Xã Tắc
Đàn. Đời
Thanh, lâm
viên của đế
vương phát
triển mạnh
với cách nói
«Tam sơn,
Ngũ viên»
(ba núi năm
vườn) tức là
Ngọc Tuyền
Sơn với Tĩnh
Nghi Viên,
Hương Sơn
với Tĩnh
Nghi Viên
(trùng tên
vườn), và
Vạn Thọ Sơn
với Thanh Y
Viên, Sướng
Xuân Viên,
và Viên Minh
Viên.
Trong các
hoa viên đời
Thanh, nghệ
thuật trang
trí rất cao.
Nổi bật là
Viên Minh
Viên, chủ
yếu có hồ và
núi, được
thiên hạ ca
ngợi là
«vườn của
muôn vườn».
Đáng tiếc
liên quân
Anh-Pháp đã
huỷ hoại
Viên Minh
Viên năm
1860.
 |
Tị Thử
Sơn
Trang
|
Tị Thử
Sơn Trang
(nghĩa đen
là «trang
trại trên
núi để tránh
nóng») là
một lâm viên
danh tiếng
của đế vương
hiện tồn,
toạ lạc ở
huyện Thừa
Đức, tỉnh Hà
Bắc. Nguyên
tên của nó
là Nhiệt Hà
Hành Cung,
còn người
đời hay gọi
là Thừa Đức
Ly Cung (hành
cung hay
ly cung
là cung điện
dành cho vua
nghỉ ngơi
khi xuất
du). Sơn
Trang được
xây dựng từ
năm 1703 đến
1792, trải
dài ba đời
vua Khang
Hi, Ung
Chính, Càn
Long. Diện
tích gấp đôi
Di Hoà Viên
và gấp tám
lần công
viên Bắc
Hải. Sơn
Trang gồm
hai bộ phận
lớn: khu
cung điện và
khu vườn
cảnh. Khu
cung điện
bao gồm bốn
kiến trúc có
phong cách
cổ phác và
điển nhã:
Chính Cung,
Đông Cung,
Tùng Hạc
Trai, và Vạn
Hác Tùng
Phong. Khu
vườn cảnh
bao gồm hồ,
núi, đất
bằng. Sơn
Trang có
nhiều lâu
đài điện
các, am,
miếu, chùa,
đạo quán,
v.v...
Sơn Trang
còn là nơi
vua cùng
quan lại hội
ý việc nước,
nên có thể
gọi là một
trung tâm
chính trị
thứ hai.
Quần thể
kiến trúc
tôn giáo
trong Sơn
Trang qui tụ
các giòng
nghệ thuật
kiến trúc
của các dân
tộc Mãn,
Hán, Mông,
Tạng rất đặc
sắc. Năm
1994, Tổ
chức Văn hoá
Khoa học
Giáo dục của
Liên Hiệp
Quốc
(UNESCO) đã
liệt Tị Thử
Sơn Trang
vào danh
sách di sản
văn hoá của
thế giới.
 |
Di Hoà
Viên với
Vạn Thọ
Sơn và
hồ Côn
Minh |
 |
Một
trong vô
số cây
cầu
trong Di
Hoà Viên |
Trong các
hoa viên của
đế vương của
Trung Quốc,
Di
Hoà Viên
cũng danh
tiếng như Tử
Cấm Thành.
Cách Bắc
Kinh 15 km
về phía tây
bắc, Di Hoà
Viên thật sự
nổi tiếng về
nghệ thuật
hoa viên
truyền thống
của Trung
Quốc. Di Hoà
Viên (nghĩa
đen là «vườn
nuôi dưỡng
sự ôn hoà»)
đến nay vẫn
còn được bảo
tồn tốt tại
Bắc Kinh.
Di Hoà Viên
xuất hiện
đến nay trên
800 năm. Đầu
đời Tấn,
cung vua tên
là Kim Sơn
Cung được
xây dựng tại
khu vực mà
nay là Di
Hoà Viên.
Năm 1750,
vua Càn Long
xây hoa
Thanh Y Viên
tại khu vực
này để mừng
sinh nhật mẹ
ông. Trong
chiến tranh
Nha Phiến,
năm 1860
liên quân
Anh-Pháp bắn
phá hoa viên
này. 28 năm
sau, Từ Hi
Thái Hậu lấy
ngân quỹ (để
hiện đại hoá
hải quân) mà
trùng tu hoa
viên trong
10 năm và
đặt tên là
Di Hoà Viên.
Năm 1900,
trong loạn
Quyền Phỉ,
liên quân 8
nước lại phá
hoại hoa
viên lần
nữa. Khi Từ
Hi hồi cung
tại Bắc Kinh
năm 1903, bà
cho đại
trùng tu hoa
viên. Hai
cảnh nổi bật
ở Di Hoà
Viên là Vạn
Thọ Sơn và
hồ Côn Minh.
Hoa viên
rộng 294
mẫu, trong
đó diện tích
hồ chiếm 220
mẫu. Vườn
chia làm ba
khu vực:
khu hành
chính (chủ
yếu là Nhân
Thọ Điện -
nơi Từ Hi
tiếp các
quan lại và
giải quyết
quốc sự),
khu nghỉ
ngơi (gồm
các điện và
vườn hoa),
và khu phong
cảnh.
 |
 |
 |
Điện
Thái Hoà
và điện
thờ
trong Di
Hoà Viên |
Thuyền
đá trên
hồ Côn
Minh |
Nói chung,
đặc điểm của
các hoa viên
của đế vương
là:
1. Qui mô
lớn, chiếm
diện tích
rộng. Thí dụ
Thanh Y Viên
đời Thanh
chiếm gần
300 mẫu.
2. Phong
cách kiến
trúc đa
dạng, cảnh
sắc muôn vẻ.
Bao gồm
phong cách
hoa viên
tiểu xảo của
phương nam
(đặc trưng
của Sư Tử
Lâm ở Tô
Châu) và nét
hùng tráng
của kết cấu
các kiểu
tháp dân tộc
thiểu số
(như Bạch
Tháp kiểu
Tây Tạng ở
Bắc Hải),
thậm chí còn
hấp thu
phong cách
nghệ thuật
phục hưng Âu
Châu (như ở
Viên Minh
Viên).
3. Hoa viên
có đa chức
năng. Hoa
viên là nơi
đế vương có
thể xử lý
việc hành
chánh, hội
kiến riêng
với quan
lại, nghỉ
ngơi, vui
chơi giải
trí, cúng
tế, săn bắn,
v.v...
Các hoa viên
của tư nhân
(chủ yếu là
giới thượng
lưu) xuất
hiện khá
nhiều. Có
thể kể đến
Võng Sư
Viên,
xây năm 1174
(đời Tống)
tại Tô Châu,
tiêu biểu
cho thể loại
nhà-vườn
(tức là nhà
kết hợp hoa
viên).
Võng sư
trong Hán
ngữ là người
chài lưới
(ngư phủ).
Tên hoa viên
gợi nhớ nhân
vật ngư phủ
đã từng gặp
gỡ thi nhân
Khuất Nguyên
(khoảng
340-278
tcn), nghĩa
là chủ nhân
có tâm sự
ngao ngán
tình đời,
muốn tiêu
dao, vui thú
điền viên
như một ngư
phủ. Thế kỷ
18, Võng Sư
Viên được
trùng tu như
là nơi hưu
trí của một
vị quan.
Võng Sư Viên
gồm ba khu
vực: phía
đông là nhà
nghỉ ngơi,
phía tây là
vườn hoa nhỏ
với thư
phòng của
chủ nhân, và
phần chính
yếu là vườn
lớn với đủ
loại kỳ hoa
dị thảo.
Một nét đặc
trưng của
hoa viên
Trung Quốc
là một nhà
thủy tạ bên
bờ nước. Một
nửa kiến
trúc ở trên
bờ, một nửa
kiến trúc
lấn ra hồ
nước và đứng
trên các cây
cột. Một nét
đặc trưng
khác là hành
lang có mái
che, giúp
người ta có
thể thưởng
ngoạn hoa
viên ngay cả
khi trời mưa
hay đổ
tuyết. Từ
nhà thuỷ tạ
hay hành
lang có mái
che nhìn ra,
người ta có
cảm giác như
ngắm một bức
tranh qua
một cái
khung. Khung
cũng có thể
là cửa sổ
nhà thủy tạ
thiết kế
hình vuông,
tròn, trái
xoan, lá
sen, v.v...
Những nét
đặc sắc khác
có thể tìm
thấy qua
từng chi
tiết. Chẳng
hạn lối đi
lát gạch hay
đá. Những
hình trang
trí hay các
bộ phận kiến
trúc hình
vuông và
tròn có ý
nghĩa sâu
sắc «trời
tròn đất
vuông»
(thiên viên
địa phương).
Những biểu
tượng con
dơi là điềm
hạnh phúc.
Năm con dơi
trang trí
theo hình
tròn là «ngũ
phúc lâm môn»
– năm điều
phúc đến
nhà: thọ
(sống
lâu), phú
(giàu
có),
khang ninh
(khoẻ mạnh
bình an),
du hiếu đức
(chuộng
đạo đức),
khảo chung
mệnh
(hưởng trọn
mệnh trời).
Những tranh
vẽ tùng hạc
trang trí
trong các
toà nhà
thuộc quần
thể này cũng
ngụ ý sống
lâu (tùng
hạc diên
niên).
Mai lan cúc
trúc – dù là
trong tranh
vẽ treo
trong nhà
hoặc chen
vai giữa
những kỳ hoa
dị thảo khác
trong vườn –
là biểu
tượng cho
tiết tháo
của người
quân tử. Như
vậy quần thể
kiến trúc
hoa viên là
sự kết hợp
giữa thiên
nhiên, triết
lý, văn hoá,
nghệ thuật
rất cao, rất
sâu sắc.
Các nghệ
nhân Trung
Quốc đúc kết
nghệ thuật
hoa viên
thành năm
điểm:
1. Thiết kế
phải thuận
theo địa thế
tự nhiên, bố
cục linh
hoạt. Trong
quần thể
phải có giả
sơn, cây
cảnh, hoa
cỏ, hồ ao,
thủy tạ,
hành lang,
cầu bắc
ngang dòng
nước, lối đi
quanh co,
tường vách.
2. Thiết kế
phải có tính
lưỡng nguyên
(hay âm
dương),
nghĩa là
trong cái
nhỏ ẩn tàng
cái lớn,
trong cái hư
chất chứa
cái thực,
một khu đất
phải tạo
được nhiều
mảng phong
cảnh. Thí dụ
như vườn tuy
nhỏ nhưng
phải tạo các
lối đi quanh
co, cầu bắc
phải có
nhiều nhịp,
những tường
vách giả sơn
ao hồ đan
xen v.v...
Hết cảnh này
thì mở ra
cảnh mới,
khiến người
dạo chơi cảm
giác như
quang cảnh
mênh mông.
3. Lối đi
phải quanh
co thâm u
dưới hàng
cây um tùm,
lúc ẩn lúc
hiện, loanh
quanh một
khe nước
chảy, gợi
nên tâm
trạng trầm
mặc nơi
khách du.
Thí dụ lối
đi có thể bị
khuất sau
một tường
vách hay giả
sơn, nhưng
rồi hiện rõ
phía sau đó.
Đó là thủ
pháp tạo sự
ẩn hiện.
4. Tạo được
nhiều không
gian. Không
gian được
chia ra bởi
tường vách,
nhà cửa,
sân, vườn,
khe nước, ao
hồ, giả sơn,
v.v... Nhưng
chúng phải
tạo được cảm
giác lưu
thông,
thoáng đãng.
5. Thiết kế
phải gợi
được khung
cảnh nên
thơ, trữ
tình, kết
hợp văn học
với hội họa
và thư pháp.
Trong phòng
thất có
hoành phi,
câu đối, các
tác phẩm thư
pháp và hội
họa. Vách
nhà thủy tạ
đề thơ,
v.v...●
TƯ LIỆU THAM
KHẢO CHÍNH
1. E.L.
Shaughnessy,
China,
Oxford,
2000.
2. Wolfram
Eberhard, A
History of
China,
University
of
California
Press, 1977.
3. Jacques
Gernet, A
History of
Chinese
Civilisation,
Cambridge
University
Press, 1987.
(Bản dịch
tiếng Anh
của J.R.
Foster).
4. Một số
trang Web
của Trung
Quốc về đề
tài này. Các
hình ảnh vay
mượn từ các
trang web
này. |