Hiện nay có rất
nhiều sách viết và dịch về Kinh Dịch. Các bạn trẻ
lật vài trang xem qua thấy chưa
hiểu gì cả, vì vậy, ít bạn
chịu khó đọc kinh Dịch. Ngược lại, có bạn đọc ít
nhiều sách về Kinh Dịch lại chuyên đem chuyện này ra
để loè bè bạn và dự đoán lung tung về số phận từng
con người.
Thật ra Kinh Dịch là cái gì vậy?
Kinh Dịch có
từ bao giờ, đến nay vẫn chẳng ai hay, bởi vì từ đời
vua Phục Hy tương truyền đã bắt đầu có Kinh Dịch
rồi, mà ông vua huyền thoại này xuất hiện cách đây
hàng nghìn năm hay hàng vạn năm thì hiện vẫn chưa có
gì chứng minh được. Tri qua hàng nghìn năm, không
biết bao nhiêu vị thánh hiền đã bổ sung, đã lý giải,
mở rộng, đào sâu để cho Kinh Dịch trở thành một tác
phẩm vừa lạ lùng, vừa uyên thâm, vừa mênh mông, vừa
cụ thể, bao hàm muôn lý, không gì không có, đọc
nhiều cũng được, đọc ít cũng hay, bởi vì chỉ đôi câu
đã đủ làm thành một đạo lý rồi. Đời nhà Tống, khi
viết về Kinh Dịch học giả Trình Di đã phải thốt lên:
“ Thánh nhân lo đời sau như thế có thể gọi là tột
bậc”.
Không phải không
có lý khi cụ Phan Bội Châu coi Kinh Dịch “Là nhân
sinh quan và vũ trụ quan của nhân loại”. Cụ Phan cho
rằng đúng như tinh thần Kinh Dịch: “Bình đẳng, đại
đồng là chân tính, là hạnh phúc của nhân sinh”,
“Tinh thần có quy củ trật tự đạo đức là lẽ công bình
của mỗi người”.
Những tư duy
Khổng học như “Không sợ dân nghèo mà chỉ sợ phân
chia không đều” (sách Luận ngữ), “Tính kế trăm năm
không gì bằng trồng người” (sách Hán thư) …
Kể cũng lạ
thật, người xưa cho rằng: “Trong khoảng trời đất có
gì? Chỉ hai chữ âm dương mà thôi”. Chẳng là nhân thì
là nghĩa, chẳng cứng là mềm, chẳng thừa là thiếu,
chẳng nam là nữ, chẳng trên là dưới, chẳng trong là
ngoài, chẳng thịnh là suy, chẳng nhiều là ít, chẳng
khen là chê, chẳng tiến là lùi, chẳng mặn là nhạt,
chẳng nhanh là chậm, chẳng xấu là tốt, chẳng to là
nhỏ, chẳng trước là sau, chẳng rủi là may.
Hoá ra lâu nay
ta quá say sưa với triết học Tây phương mà ít chú ý
đến triết học Đông phương, trong khi đó thì người dân
thường tuy ít học nhưng lại thường tin tưởng và làm
theo vô số những lời dạy của thánh hiền. Sự biến
động ghê gớm của các nước phương Tây với đầy những
mâu thuẫn nội sinh đồng thời với sự hưng thịnh đột
xuất của không ít quốc gia châu Á, kể cả sự phục hồi
nhanh chóng sau khi xảy ra tình trạng khủng hoảng
tài chính, kinh tế…đã làm cho cả nhân loại không thể
không chú ý nhiều hơn đến triết học Đông phương. Văn
minh châu Á trở nên hấp dẫn đối với hàng tỉ người
dân bình thường ở phương Tây. Kinh Dịch là một trong
những thần kỳ của triết học và văn minh Đông phương.
Trong hoạt động
của con người rõ ràng là âm dương luôn luôn biến
động, song thường vẫn giữ được những sự tự điều
chỉnh của cơ thể, nếu không ắt hẳn sẽ sinh ra ốm
đau, bệnh tật.
Trong hoạt động
xã hội, cái thế của nó là Dịch, cái lý của nó là
Đạo, cái dụng của nó là Thần, âm dương khép ngỏ là
Dịch, một khép một ngỏ là Biến. Ở đời, dương thường
thừa, âm thường thiếu, chính vì không bằng nhau nên
đã sinh và sẽ sinh muôn vàn biến đổi. Đạo trong gầm
trời này chỉ là Thiện-ác, nhưng cái thời, cái cơ bản
của mỗi lúc một khác, không phải lúc nào cũng giống
nhau. Phải hiểu rõ ràng các phép tu, tề, trị, bình
thì mới quản lý được xã hội.
Cổ nhân dạy
rằng: “Bất học Dịch khả dĩ thức tạo hoá chi đoạn”
(Không học Dịch làm gì rõ được đầu mối của tạo hoá).
Ngược lại: “Dịch thông tắc vật lý tự thông” (Dịch mà
thông thì sự lý trong vạn vật khắc thông).
Ngũ hành có
Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ.
Bát quái có
Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Thiên can có
Giáp, ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
Địa chi có Tí,
Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dởu, Tuất,
Hợi.
Chu kỳ của cửu
cung là 1 (Khảm) > 2 (Khôn) > 3 (Chấn) > 4 (Tốn) > 5
(Cấn) > 6 (Càn) > 7 (Đoài) > 8 (Cấn) > 9 (Ly) > 10
(Khảm).
Ngày xưa, cổ
nhân ngẩng đầu lên quan sát bầu trời, quan sát sự
vận hành của mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, cúi
đầu xuống xem phép tắc dưới đất, xem những sự thích
nghi của muôn loài, ngẫm nghĩ ngay về cơ thể mình và
nhìn ra xa, gần từ đó làm ra các quẻ để thông suốt
đức thần minh, để điều hoà cái tình của muôn vật.
Dịch bắt nguồn
bằng các hình ảnh, nói đúng hơn là các phù hiệu, mỗi
quẻ có ba hào gồm hào âm, hào dương, ba hào
xếp thành ngôi dưới, ngôi giữa, ngôi trên (đối xứng
với đất, người và trời), quẻ đơn gọi là kinh quái,
quẻ kép gọi là biệt quái. Vì sao như vậy, thì thượng
cổ đã làm gì có văn tự. Bát quái, thái cực, hà đồ,
lạc thư… đều là hình ảnh.
Người xưa nói:
“Đông tình vô đoan, âm dương vô thủy”, còn nói: “Vật
phương sinh phương tử”. Có nghĩa là âm dương không
có cái trước cái sau, không có cái này sinh ra cái
kia, mọi vật đều vừa sinh vừa tử. Thực ra thì cũng
không thể phân biệt rạch ròi âm dương, sinh tử. Gọi
là dương khi phần dương lấn át phần âm và ngược lai,
gọi là âm khi phần âm lấn át phần dương.
Âm dương
xen kẽ nhau và hàm chứa lẫn nhau. Âm dương lúc dày
(thái), lúc mỏng (thiếu) cho nên mới có thiếu dương,
thái dương, thiếu âm, thái âm. Âm là bề trái, dương
là bề phải, âm là bề lưng, dương là bề bụng, âm là
vật chất bên ngoài, dương là tinh thần bên trong, âm
thuộc về đất, dương thuộc về trời, âm nặng nên xuống
đất, dương nhẹ nên lên cao. Gọi là âm dương (chứ
không gọi là dương âm) có cái lý của nó. Cái gì cũng
từ dưới đi lên, từ ngoài vào trong, có phần tối mới
nổi được phần sáng.
Kinh dịch thật
là thú vị nhưng cũng thật là khó. Đọc mãi không hiểu
đừng vội lấy làm lạ. Đọc lại chỉ hiểu thêm một ít.
Đọc thêm nữa lại hiểu nhiều hơn. Có nhiều sách kinh
dịch, nhưng theo thiển ý của tôi thì chỉ nên đọc
nguyên bản Kinh dịch qua bản dịch của học giả cừ
khôi Ngô Tất Tố. Đọc Kinh dịch qua sự giải thích của
người khác mất hết cả sự thiêng liêng, huyền bí, vả
lại đã chắc gì hiểu được đúng để giải thích cho
người khác.
Chính vì vậy,
các bạn trẻ đừng đọc Kinh Dịch như đọc tiểu thuyết
mà nên đọc dẫn từng đoạn, đọc vào lúc yên tĩnh, lúc
tâm hồn êm, thanh thoát. Chỉ đọc như vậy mới mong
đạo lý lưu thông, nghĩa tình bao quát. Khổng Tử đã
bảo là phải “ học Dịch” ( chứ không phải là đọc Dịch),
thật là chí lý!
Bạn đọc cứ đọc
đi và thấy hiện dần vô số điều tâm đắc.
Hãy xem vài ví
dụ:
Trong quẻ Kiều
có lời Kinh: “ Thượng hạ vô thường, phi vi tà dã,
tiến thoái vô hằng, phi ly quần dã... ”
(Lên xuống
bất thường, không làm điều xấu, tiến lui không nhất
định, đừng xa rời quần chúng ... ).
Trong quẻ
truân có lời Kinh: “ Tuy bàn hoàn chỉ hành chính dã.
Di quí hạ tiện, đại đắc dân dã ... ” (Tuy gian
truân có chí sẽ làm nên, là người hiền chịu dưới kẻ
hèn, nhưng rồi sẽ được dân tin...) .
Trong quẻ Mông
có lời Kinh: “ Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp
dã...” ( dung quẻ phạt người để giữ nghiêm pháp
luật).
Quẻ Nhu có lời
Kinh: “ Nhu, hữu phu, quang ranh, trinh, cát, lợi
thiệp đại xuyên...” (Mềm mỏng nếu có lòng tin sẽ
sáng láng, hanh thông, chính bền là tốt, có lợi cho
việc vượt sông lớn...).
Quẻ Tụng có lời
Kinh: “Tụng nguyên cát, dĩ trung chính dã...”
(Trong thì nghe không lệch, chính thì xét xử hợp
tình...).
Nếu vừa “học
Dịch” vừa học thêm chữ Hán trong lời Kinh thì càng
ích lợi và thú vị thêm biết bao. Đừng quên rằng
trong ngôn ngữ của nhân dân ta hiện nay có tới trên
60% số từ có nguồn gốc từ âm Hán. Nếu tính cũng đừng
quên rằng trên thế giới cứ 6 người thì có tới gần
hai người biết chữ Hán.
Thiết nghĩ,
trong thời buổi cái đúng, cái sai còn lẫn lộn; người
tốt, người xấu chưa tường minh; khó chung, khó riêng
còn đầy rẫy; nên nhớ rằng cái gốc của dân ta thì mãi
mãi là tốt, đường lối đi lên đã được mở. Trong điều
kiện như vậy mong sao mỗi bạn trẻ mỗi tuần có xếp
chút thời gian để bình tâm đọc (đúng hơn phải nói
là học) Kinh Dịch. Nghe lời người xưa mà ngẫm đến
chuyện ngày nay, nghe lời thiện mà tránh điều ác,
nghe lời nhân mà làm điều nghĩa...
Cuộc đời sẽ đẹp
thêm biết bao, tâm hồn mỗi người sẽ rộng mở và sáng
láng thêm biết bao, quan hệ giữa người với người sẽ
tốt lành hơn biết bao- bạn cứ kiên nhẫn đọc đi, sẽ
thấy đúng là như vậy đấy.