I. Giải-Nghĩa
1. Từ "Ất-Dậu"
Theo sách tử-vi tướng-số của Đông-Phương, tên
của mỗi năm âm-lịch là một tên kép. Chữ thứ nhất
của tên kép này là tên của một ngôi trong
Thiên-Can hay Thập-Can (Giáp, Ất, Bính, Đinh,
Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, và Quý) và chữ thứ hai
của tên kép này là tên của một ngôi trong
Địa-Chi hay Thập-Nhị-Chi (Tý, Sửu, Dần, Mão,
Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, và Hợi).
Theo cách này, tên năm Ất-Dậu là do chữ "Ất" ở
ngôi thứ hai của hàng Thiên-Can hay Thập-Can và
chữ "Dậu" ở ngôi thứ mười của hàng Địa-Chi hay
Thập-Nhị-Chi kết-hợp với nhau mà thành.
Thiên-Can và Địa-Chi kết-hợp với nhau
tượng-trưng cho sự giao-hòa của trời và đất.
Trong 60 năm âm-lịch như từ năm 1945 tới 2005
(2005-1945= 60), có 7 năm bắt đầu bằng chữ Ất
(Ất-Dậu,1945; Ất-Mùi,1955; Ất-Tỵ,1965;
Ất-Mão,1975; Ất-Sửu,1985; Ất-Hợi,1995; và
Ất-Dậu, 2005) và 6 năm có chữ Dậu (Ất-Dậu,1945;
Đinh-Dậu, 1957; Kỷ-Dậu, 1969; Tân-Dậu, 1981;
Quý-Dậu, 1993; và Ất-Dậu, 2005). Theo sự- kiện
trên, ta thấy cứ 10 năm lại có một năm bắt đầu
bằng chữ Ất, cứ 12 năm lại có một năm Dậu, và cứ
60 năm lại có một năm "Ất-Dậu."
2. Nghĩa Đích-Thực của Chữ "Dậu" :
Theo sách tử-vi và các tự-điển, chữ "Dậu" không có nghĩa là con "gà" mà chỉ
có nghĩa là tên của ngôi thứ mười trong hàng Địa-Chi như đã đề-cập ở trên.
Theo chữ Hán, "gà" được gọi là "kê" chứ không phải là "dậu." Chữ "kê" được
viết khác hẳn với chữ "Dậu." Chữ "Dậu" chỉ có 4 nghĩa là năm
Dậu, tháng Dậu, ngày Dậu, và giờ Dậu. Năm Dậu ở ngôi thứ mười của hàng
Địa-Chi. Tháng Dậu là tháng thứ tám trong mỗi năm âm-lịch (tháng Tân-Dậu).
Ngày Dậu là ngày thứ 10 trong tháng giêng (ngày Kỷ-Dậu). Giờ Dậu trong mỗi
ngày là từ 5 giờ chiều đến 7 giờ chiều. Ngoài ra, trong chữ Hán, chữ "Dậu"
còn được dùng làm "bộ chữ Dậu" để viết ở phần trái (theo tay người viết) của
các chữ như chữ "phối" (có nghĩa là kết hôn: phối ngẫu), chữ "tửu" (rượu),
và chữ "thuần" (không pha lẫn với cái khác: thuần túy), v.v. Còn chữ "giậu"
có âm gần giống chữ "dậu" nhưng nghĩa khác hẳn nhau. Chữ "giậu" có
nghĩa là "hàng rào" (hedge, fence). Tuy-nhiên, theo phong-tục của người Việt
thì mọi người đều hiểu năm "Dậu" có nghĩa là "năm gà" vì theo lời
truyền-tụng từ xưa đến ngày nay, khi Đức Phật triệu-tập đại-hội thế-giới
loài vật thì chỉ có 12 con vật tới họp. Con chuột (tý) khôn-ngoan và lanh-lẹ
nên đến được đầu-tiên, con gà (dậu) chậm-chạp đến vào hạng thứ 10, và con
heo (hợi) ủn-ỉn chậm-chạp nhất nên đến sau chót, tức là thứ 12.
3. Năm, Tháng, Ngày, và Giờ Liên-Quan Đến "Dậu":
Năm Giáp-Thân sắp chấm-dứt và năm Ất-Dậu sắp
đến. Ngày mùng 1 tháng Giêng năm Ất-Dậu là ngày
Tết ta nhằm ngày Thứ Tư mùng 9 tháng 2 năm 2005.
Tháng khởi đầu của năm âm-lịch là tháng giêng
(tháng 1) và bao giờ cũng là tháng Giáp-Dần.
Tháng tám ta là tháng Tân-Dậu. Ngày mùng 10
tháng giêng ta là ngày Kỷ-Dậu. Giờ Dậu trong mỗi
ngày như trên đã nói là từ từ 5 giờ chiều đến 7
giờ chiều (5 giờ chiều là đầu giờ Dậu, 6 giờ
chiều là giữa giờ Dậu, và 7 giờ chiều là cuối
giờ Dậu)
II. Số Tuổi
của Những Người Tuổi Dậu
Theo phong tục Việt-Nam, nếu ai sinh trong năm
Dậu thì có tuổi gọi là Tuổi Dậu, nếu sinh vào
khoảng từ 5 giờ chiều tới 7 giờ chiều thì giờ
sinh là Giờ Dậu.
Nếu lấy năm Ất-Dậu (2005) làm năm tiêu-chuẩn để
tính tuổi, ai sinh vào năm Ất-Dậu (2005) thì
được 1 tuổi ta (0 tuổi Tây), sinh vào năm
Quý-Dậu (1993) thì được 13 tuổi ta (12 tuổi
Tây), sinh vào năm Tân-Dậu (1981) thì được 25
tuổi ta (24 tuổi Tây), sinh vào năm Kỷ-Dậu
(1969) thì được 37 tuổi ta (36 tuổi Tây), sinh
vào năm Đinh-Dậu (1957) thì được 49 tuổi ta (48
tuổi Tây), sinh vào năm Ất-Dậu (1945) thì được
61 tuổi ta (60 tuổi Tây), sinh vào năm Quý-Dậu
(1933) thì được 73 tuổi ta (72 tuổi Tây), sinh
vào năm Tân-Dậu (1921) thì được 85 tuổi ta (84
tuổi Tây), sinh vào năm Kỷ-Dậu (1909) thì được
97 tuổi ta (96 tuổi Tây), và sinh vào năm
Đinh-Dậu (1897) thì được 109 tuổi ta (108 tuổi
Tây).
Theo cách tính tuổi của người Việt, chúng ta
thấy truyền-thống văn-hóa tôn-trọng nhân-vị của
người Việt ta còn được thể-hiện trong việc tính
tuổi con người. Mới sinh ra, đứa bé đã được tính
là một tuổi, điều này rất hợp-lý bởi vì từ khi
người mẹ bắt-đầu có thai đến khi sinh ra con thì
người con đã được gần một năm, tức là gồm 9
tháng 10 ngày. Ngay từ khi đứa bé còn là
bào-thai, người Việt ta, theo truyền-thống từ
đời Hùng-Vương thứ VI (Đức Hùng-Cử, 887 TCN), đã
coi cái bào-thai là một người. Theo luật-pháp và
văn-hóa Tây-phương, người ta không coi đứa trẻ
trong bụng mẹ là một người. Chính vì thế mà khi
đứa trẻ được tròn một năm sau khi sanh mới được
người Âu-Mỹ kể là một tuổi. Điều này chứng-tỏ
dân-tộc Việt đã tôn-trọng nhân-vị, nhân-quyền,
và nhân-bản từ gần 5 ngàn năm nay rồi. Người
Tây-Phương mới chỉ có nhân-quyền dân-chủ và
tự-do một cách hình-thức trong gần nửa thế-kỷ
mới đây mà thôi .
III.
Tướng-Số của Những Người Sinh vào Năm Dậu
- Nhóm tuổi tam-hợp có tuổi Dậu trong
đó là ba tuổi Tỵ, Dậu, và Sửu hòa-hợp với nhau.
- Nhóm tuổi tứ-hành-xung có tuổi Dậu trong đó
là bốn tuổi Tý, Ngọ, Mão, và Dậu xung-khắc với
nhau.
- Về việc cưới gả, trai tuổi Dậu kỵ năm Thìn,
gái tuổi Dậu kỵ năm Ngọ, tuổi Dậu kỵ tuổi Tuất
và tuổi Hợi.
- Ai có tuổi Kỷ-Dậu sanh vào ban ngày của mùa
thu và muà đông thì rất tốt. Đàn bà có tuổi
Tân-Dậu và Quý-Dậu thì tánh-tình và cuộc đời rất
tốt.
- Những ngày kỵ (không hợp, to be opposed to)
với tuổi Dậu là ngày Kỷ-Mão kỵ với tuổi Quý-Dậu
và Ất-Dậu, ngày Tân-Mão kỵ với tuổi Ất-Dậu và
Kỷ-Dậu, ngày Quý-Mão kỵ với tuổi Tân-Dậu và Đinh
Dậu, ngày Ất-Mão kỵ với tuổi Kỷ-Dậu và Đinh-Dậu,
và ngày Đinh-Mão kỵ với tuổi Tân-Dậu và Quý-Dậu,
v.v. Tóm lại là tuổi Dậu kỵ với các ngày Mão và
tuổi Mão.
- Những người sinh vào năm Dậu thường rất giỏi,
chẳng-hạn như Quân-Sư Khổng-Minh (Gia-Cát-Lượng)
ở đời Tam-Quốc bên Tàu sanh năm Tân-Dậu (181)
ngày 10 tháng 4, giờ Tuất.
- Những người cầm tinh con gà thường rất
siêng-năng, chăm-chỉ, cần-cù, năng-động,
chịu-khó, tận-tâm, tận-lực, rất dễ tính, và biết
điều. Đây là những đức-tính rất quan-trọng để
làm việc thành-công. Nếu các cô, các cậu, các
bà, và các ông có tuổi Dậu thì hy vọng trở thành
những vĩ-nhân, các ca-sĩ nổi tiếng, và có tài về
các môn thi-văn kịch-nghệ. Lý do là ngàn xưa,
người ta nhận-thấy giống gà có 5 đức-tính lớn:
văn, võ, dũng, nhân, và tín. Lý do là đầu gà có
mào (mồng) giống như đội mũ, đó là văn; chân gà
trống có cựa sắc-bén như gươm-giáo, đó là võ;
thấy quân-thù, gà liền xông-vào đá và mổ, đó là
dũng; khi kiếm được đồ ăn, gà bèn gọi bạn-bè, gà
trống hay gà mái, và gà con đến ăn, đó là nhân;
và ban đêm tới giờ sáng, gà trống gáy cầm-canh,
đó là tín.
IV. 50 Năm
Dậu Quan-Trọng trong Lịch-Sử
Việt-Nam
Nhân dịp năm Ất-Dậu (2005) sắp tới, chúng
tôi xin viết về 50 năm Dậu liên-quan tới Lịch-Sử
Việt-Nam để chúng ta ôn lại lịch-sử về năm Dậu.
Để tiện việc phân-biệt về các năm trước
Công-Nguyên hay trước Tây-Lịch và các năm sau
Công-Nguyên hay sau Tây-Lịch, chúng tôi chỉ viết
chữ tắt "TCN"(Trước Công-Nguyên) ở ngay sau con
số chỉ năm thuộc trước Công-Nguyên, còn những
năm thuộc sau Công-Nguyên hay sau Tây-Lịch thì
chúng tôi chỉ viết con số năm mà thôi.
1. Năm Ất-Dậu, 876 TCN:
Vào năm Ất-Dậu, 876 TCN,
Vua Hùng-Vương thứ 9 lên ngôi với niên-hiệu là
Hùng-Diên .
2. Năm Tân-Dậu, 1: Trong thời kỳ Trung-Hoa
di-dân và khai-thác Cổ-Việt, người Hán-Trung là
Tích-Quang làm Thái-Thú Giao-Chỉ (châu-thổ sông
Hồng) bắt-đầu từ năm Tân-Dậu, 01,vào đời Vua Hán
Bình-Đế.
3. Năm Ất-Dậu, 25: Vào năm Ất-Dậu, 25 (năm
Kiến-Võ thứ nhất đời Vua Hán Quang-Võ hay Hán
Quang-Vũ), Ông Tích-Quang được phong tước
Diêm-Thủy-Hầu. Cũng vào năm Ất-Dậu, 25,
Nhâm-Diên (người huyện Uyển thuộc Nam-Dương ở
Trung-Hoa) làm Thái-Thú Cửu-Chân thuộc châu-thổ
sông Mã từ năm Ất-Dậu, 25, đến năm Kỷ-Sửu 29.
4. Năm Tân-Dậu, 541:
Vào năm Tân-Dậu, 541,
Việt-Đế Lý Bôn hay Lý Bí (541-548) cùng với
những người nghĩa-dũng nổi lên đánh đuổi Thứ-Sử
Giao-Châu là Tiêu-Tư về Tàu rồi chiếm giữ lấy
thành Long-Biên và tự xưng là Nam-Việt-Đế. Nhà
Tiền-Lý khởi-nghiệp từ năm Tân-Dậu, 541.
5. Năm Ất-Dậu, 865: Nước Nam-Chiếu ở phía nam
hay sang cướp phá nước ta. Vào năm Ất- Dậu, 865,
Cao-Biền người U-Châu (Trung-Hoa) cầm quân qua
Giao-Châu giúp ta đánh giặc nhiều năm và dẹp
được quân Nam-Chiếu rồi lại đưa nước ta về
nội-thuộc nhà Đường như cũ.
6. Năm Đinh-Dậu, 937: Vào năm Đinh-Dậu, 937,
Tướng Tiết-Độ-Sứ Dương Diên-Nghệ bị tướng dưới
quyền là Kiều-Công-Tiện giết chết để cướp quyền.
Trước đó Dương Diên-Nghệ là nhà cách-mạng đã
đánh đuổi được quân Nam-Hán vào năm Tân-Mão,
1931, rồi tự-xưng làm Tiết-Độ-Sứ.
7. Năm Đinh-Dậu, 997: Vào năm Đinh-Dậu, 997, Vua
Nhà Tống là Tống Chân-Tông (Trung-Hoa) sai sứ
sang phong Vua Lê Đại-Hành (Lê-Hoàn, 980-1005)
làm Nam-Bình-Vương.
8. Năm Kỷ-Dậu, 1009:
Thiền-Sư Vạn-Hạnh tích-cực vận-động
tôn-lập Lý Công-Uẩn lên làm vua trong cuộc
đảo-chánh lật đổ Nhà Tiền-Lê vào tháng 10 năm
Kỷ-Dậu,1009. Vào tháng 10 năm Kỷ-Dậu, 1009, Vua
Lê Long-Đĩnh(1005-1009) từ-trần, làm vua được 4
năm thọ 24 tuổi. Lê Long-Đĩnh là vị Vua cuối
Triều-Đại của Nhà Tiền-Lê, Nhà Tiền-Lê bị
chấm-dứt vào năm Kỷ-Dậu (1009) này.
9. Năm Quý-Dậu, 1033:
Vào năm Quý-Dậu, 1033, đời Vua Lý Thái-Tông
(1028-1054), Vua Chân-Lạp cử sứ sang thăm-viếng
ngoại-giao với nước ta. Các niên-hiệu của Vua Lý
Thái-Tông là Thiên-Thành, Thông-Thụy,
Kiền(Càn)-Phù Hữu-Đạo, Minh-Đạo, Thiên-Cảm
Thánh-Võ, và Sùng-Hưng Đại-Bảo.
10. Năm Lỷ-Dậu, 1069: Vua Lý Thánh-Tông
(1054-1072) có các niên-hiệu là Long-Thụy
Thái-Bình, Chương-Thánh Gia-Khánh, Long-Chương
Thiên-Tự, Thiên-Hướng Bảo-Tượng, và Thần-Vũ
(Võ). Vào năm Kỷ-Dậu, 1069, Vua Nhà Lý tự cầm
quân trả-đũa Chiêm-Thành và chiếm được đất
Chiêm-Thành mở ra đất Quảng-Bình và Quảng-Trị.
Quân ta chiếm được Kinh-Đô Đồ-Bàn của
Chiêm-Thành để tạo-thành tỉnh Bình-Định ở Miền
Trung của Việt-Nam. Sau khi thắng trận, Vua Ly
Thánh-Tông về triều và đổi niên-hiệu là Thần-Vũ
(Võ). Vua Chiêm là Chế-Củ bị bắt và xin cắt đất
ba châu Bố-Chánh, Địa-Lý, và Ma-Linh để đổi lấy
tự-do. Đây là lần đầu-tiên trong lịch-sử, người
Việt ta mở rộng biên-cương về phía nam.
Niên-hiệu Thiên-Hướng Bảo-Tượng của Vua Lý
Thánh-Tông chấm dứt vào năm Kỷ-Dậu, 1069, và
niên-hiệu Thần-Vũ (Võ) của Vua Lý Thánh-Tông bắt
đầu từ năm Kỷ-Dậu, 1069.
11. Năm Ất-Dậu, 1105: Trong đời Vua Lý Nhân-Tông
(1072-1127), Nguyên-Soái Lý Thường-Kiệt từ-trần
vào năm Ất-Dậu, 1105, thọ 86 tuổi.
12. Năm Đinh-Dậu, 1117: Bà Ỷ-Lan là Hoàng
Thái-Hậu (thuộc đời Vua Lý Nhân-Tông) từ-trần
vào năm Đinh-Dậu, 1117. Trong suốt đời, Bà Ỷ-Lan
đã xây-dựng được trên 100 ngôi chùa ở Thăng-Long
và Bắc-Ninh. Vua Lý Nhân-Tông không có con trai
nên vào năm Đinh-Dậu, 1117, Vua chọn Lý
Dương-Hoán, con của người em ruột, để cho lên
làm Thái-Tử.
13. Năm Tân-Dậu, 1141: vào đời Vua Lý Anh-Tông
(1138-1175), Thuận-Lợi tự nhận là con riêng của
Vua Lý Nhân-Tông (1072-1127) rồi nổi lên chiếm
giữ vài châu ở Thái-Nguyên. Vào năm Tân-Dậu
1141, Thuận-Lợi đem quân vây Phủ Phú-Lương
(Thái-Nguyên). Sau đó, Thuận-Lợi bị Anh-Vũ đánh
đuổi và bị Tô Hiến-Thành bắt đưa về Thăng-Long
trị tội.
14. Năm Tân-Dậu, 1201: "Thiên-Tư Gia-Thụy" là
niên-hiệu thứ 2 của Vua Lý Cao-Tông. Niên-hiệu
này chấm dứt vào năm Tân-Dậu, 1201.
15. Năm Quý-Dậu, 1213: khi Thái-Tử Sam lên
ngôi, tức là Vua Lý Huệ-Tông (1211-1224),
Trần-Thị được phong làm Nguyên-Phi. Vào năm
Quý-Dậu, 1213, Thái-Hậu làm khổ Trần-Thị ở trong
cung nên Vua Lý Huệ-Tông giáng Trần-Thị xuống
làm Ngự-Nữ (người đàn-bà phục-vụ trong cung).
16. Năm Ất-Dậu, 1225: trong thời Vua Lý
Chiêu-Hoàng (Thiên-Chương Hữu Đạo, 1224-1225),
vào tháng 10 năm Ất Dậu, 1225, Trần Thủ-Độ xuống
chiếu tuyển con em các quan trong triều để làm
các công-việc sắc-dịch trong cung Vua Lý
Chiêu-Hoàng. Vì Trần Thủ-Độ cố tình thu-xếp để
tiêu-diệt Nhà Lý nên vào tháng 12 năm Ất-Dậu,
1225, Vua Lý Chiêu-Hoàng mới nhường ngôi cho
chồng là Trần Cảnh. Chính vì thế mà nhà Lý bị
chấm-dứt vào năm Ất-Dậu 1225 và Trần-Cảnh lên
ngôi năm Ất-Dậu,1225, tức là Vua Trần Thái-Tông.
Nhà Trần bắt đầu trị-vì từ năm Ất-Dậu, 1225
(Trần Thái-Tông 1225-1258) này cho đến năm
Canh-Thìn, 1400 (Trần Thiếu-Đế 1398-1400).
17. Năm Đinh-Dậu, 1237:
Vào năm Đinh-Dậu,
1237, Vua Trần Thái-Tông bị Trần Thủ-Độ ép bỏ vợ
là Chiêu-Thánh Hoàng-Hậu (Lý Chiêu-Hoàng) để lấy
bà Thuận-Thiên làm Hoàng-Hậu. Bà Thuận-Thiên là
chị ruột của Bà Chiêu-Thánh Hoàng-Hậu và đang có
thai 3 tháng vì là vợ của Trần Liễu, anh ruột
của Trần Thái-Tông, Đây là hành-động loạn-luân
do Trần Thủ-Độ gây ra. Niên-hiệu Kiến-Trung của
Vua Trần Thái-Tông chấm dứt năm Đinh-Dậu, 1237.
18. Năm Tân-Dậu, 1261: triều-đình của Vua Trần
Thánh-Tông (1258-1278) đề-phòng chống quân
Mông-Cổ bằng cách ra lệnh tuyển dân-đinh (dân có
đóng thuế) khỏe-mạnh để làm lính ở kinh-sư, các
bộ, phủ, và huyện. Sau đó, triều-đình còn ra
lệnh cho thủy-quân cùng bộ-binh để sửa-soạn
chiến-khí và chiến-thuyền rồi diễn-tập
chiến-trận.
19. Năm Quý-Dậu, 1273: Niên-hiệu Bảo-Phù của Vua
Trần Thánh-Tông (1258-1278) bắt đầu được
thành-lập vào năm Quý-Dậu, 1273.
20. Năm Ất-Dậu, 1285:
Khi quân Nguyên
cương-quyết tiến quân qua Đại-Việt nên từ năm
Ất-Dậu, 1285, Vua Trần Nhân-Tông (1279-1293,
niên-hiệu:Thiệu-Bảo,Trùng-Hưng,) quyết-tâm kháng
quân Nguyên cho đến năm 1288. Chính vì thế mà
bang-giao Việt-Nguyên bị đổ vỡ. Quân Việt
mãnh-liệt chống quân Nguyên trong 4 trận: Trận
Hàm-Tử-Quan, Trận Chương-Dương-Độ, Trận Tây-Kết,
và Trận Vạn-Kiếp nên quân Nguyên phải rút về.
Trong trận Chương-Dương-Độ, khi Thoát-Hoan rời
Thăng-Long thì Trần Quốc-Toản dẫn quân truy đuổi
và ông bị tử-trận tại đây vào ngày 6 tháng 5 năm
Ất-Dậu, 1285, nhưng quân ta vẫn thắng trận
Vào tháng 6 năm Ất-Dậu, 1285, quân ta đuổi được
50 vạn quân Mông-Cổ ra khỏi bờ-cõi để chỉnh-đốn giang-sơn như cũ. Đó là nhờ
Hưng-Đạo-Vương Trần Quốc-Tuấn có tài Đại-Tướng, cầm quân vững-chãi, gan bền
tựa sắt, và lại khéo dùng lời khuyên-dỗ cho nên toàn-thể tướng-sĩ đều hết
lòng giúp nước. Nhờ thế mà đến ngày 6 tháng 6 năm Ất-Dậu, 1285, Vua Trần
Nhân-Tông cùng Thượng-Hoàng mới có dịp trở về Thăng-Long.
Niên-hiệu Trùng-Hưng của Vua
Trần Nhân-Tông bắt đầu được thành-lập vào năm Ất-Dậu, 1285.
21. Năm Ất-Dậu, 1345: Vào năm Ất-Dậu,1345, khi
sứ nhà Nguyên sang Thăng-Long viện-dẫn chuyện cột-đồng Mã-Viện để hỏi chuyện
biên-giới, triều-đình ta cử Phạm Sư-Mạnh làm sứ-giả qua nhà Nguyên để trả
lời.
22. Năm Đinh-Dậu, 1357: Vào năm Đinh-Dậu, 1357,
Thái-Thượng-Hoàng Trần Minh-Tông từ-trần tại Thăng-Long. Sau khi
Thái-Thượng-Hoàng từ-trần, chính-sự nhà Trần bắt đầu suy-vi. Lúc bấy giơ,
niên-hiệu "Thiệu-Phong" của Vua Trần Dụ-Tông (1341-1369) chấm-dứt vào năm
Đinh-Dậu, 1357.
23. Năm
Kỷ-Dậu, 1369: Vào giữa năm Kỷ-Dậu (1369) này, Vua Trần Dụ-Tông (1341-1369,
niên-hiệu:Thiệu-Phong và Đại-Trị) từ-trần. Vua Trần Dụ-Tông làm vua được 29
năm, thọ 35 tuổi. Trước khi tạ-thế, Vua Trần Dụ-Tông không có con nên Bà
Hoàng-Thái-Hậu lập người con của Cung-Túc-Vương là Nhật-Lễ lên làm vua.
Nhật-Lễ nguyên là con của kép-hát Dương Khương. Sau khi được lên làm vua vào
năm Kỷ-Dậu, 1369, với niên-hiệu là Đại-Định, Nhật-Lễ muốn cải lại họ là
Dương (Dương Nhật-Lễ) để dứt ngôi nhà Trần, rồi giết Bà Hoàng Thái-Hậu. Sau
đó, các quan tôn-thất của nhà Trần đem binh bắt Nhật-Lễ giết đi.
24. Năm
Ất-Dậu, 1405: Vào năm Ất-Dậu, 1405, Nhà Minh sai sứ sang đòi đất Lộc-Châu ở
nước ta. Trước đó,Hồ Quý-Ly đã không chịu, nhưng sau phải cắt ra 59 thôn ở
Cổ-Lâu nhường cho Tàu.
25. Năm
Đinh-Dậu, 1417: Vào năm Đinh-Dậu, 1417, sau khi Vua nhà Minh nước Tàu
cho Trương Phụ qua Đại-Việt làm Trấn-Thủ Quận Giao-Chỉ lần thứ ba, Vua nhà
Minh nghi-ngờ Trương Phụ lập vây-cánh riêng nên bắt Trương Phụ phải về nước
Tàu rồi cử Lý Bân sang thay làm chức-vụ Trấn-Thủ Quận Giao-Chỉ ở nước ta, và
hằng-năm, Vua nhà Minh bắt nước ta phải tiến-cống các nhà nho người Việt cho
nhà Minh.
26,
Năm Quý-Dậu, 1453: Vào năm Quý-Dậu, 1453, Vua Lê Nhân-Tông (1443-1459), 12
tuổi, mới bắt đầu tự cầm quyền (thân-chính). Trước đó, Bà Hoàng-Thái-Hậu cầm
toàn-quyền trong triều-đình vì khi Lê Nhân-Tông bắt đầu làm vua năm 1443 thì
mới lên 2 tuổi. Niên-hiệu Thái-Hòa của Vua Lê Nhân-Tông chấm dứt vào năm
Quý-Dậu,1453, và niên-hiệu Diên-Ninh bắt đầu từ năm 1454. Khi bắt đầu nắm
chính-quyền, Vua Lê Nhân-Tông truy-tặng các công-thần bị giết và cấp ruộng
cho con cháu họ.&nb
27. Năm
Đinh-Dậu, 1537: Vào năm Đinh-Dậu, 1537, các cựu-thần nhà Lê cầu-cứu Vua Nhà
Minh, Vua nhà Minh sai Cừu- Loan và Mã Bá-Ôn đưa quân sang đóng gần cửa
Ải-Nam-Quan để tìm cách bắt cha con Mạc Đăng-Dung về tội cướp ngôi nhà Lê.
28. Năm
Tân-Dậu, 1561: Vua Tuyên-Tông Mạc Phúc-Nguyên (1546-1561) qua đời vào năm
Tân-Dậu, 1561. Vua Tuyên-Tông Mạc Phúc-Nguyên có các niên-hiệu: Vĩnh-Định,
Cảnh-Lịch, và Quảng-Bảo. Sau đó người con của Tuyên-Tông Mạc Phúc-Nguyên là
Mạc Mậu-Hợp lên nối ngôi làm vua (1562-1592) với các niên-hiệu: Thuần-Phúc,
Sùng-Khang, Diên-Thành, Đoan-Thái, Hưng-Trị, và Hồng-Ninh.
29. Năm
Quý-Dậu, 1573: Vua Lê Anh-Tông (1556-1573) với các niên-hiệu: Thiên-Hữu,
Chính-Trị, và Hồng-Phúc bị Trịnh Tùng giết vào năm Quý-Dậu, 1573. Từ năm
Quý-Dậu (1573) đến năm Quý-Mùi (1583), Trịnh Tùng bắt đầu cứ giữ vững đất
Thanh-Hóa và Nghệ-An để cho quân nhà Mạc vào đánh phải hao binh tổn tướng.
Trịnh Tùng lập con thứ 5 của Vua Anh-Tông là Lê Thế-Tông húy là Duy-Đàm lên
làm vua ngay trong năm Quý-Dậu, 1573, với niên-hiệu là Gia-Thái và
Quang-Hưng (1573-1599).
30.
Năm
Ất-Dậu, 1585: Vua Mạc Mậu-Hợp (1562-1592) có 6 niên-hiệu: Thuần-Phúc,
Sùng-Khang, Diên-Thành, Đoan-Thái, Hưng-trị, và Hồng-Ninh. Niên-hiệu
Diên-Thành của Vua Mạc Mậu-Hợp chấm-dứt vào năm Ất-Dậu,1585.
31. Năm
Quý-Dậu, 1633: Bắt đầu từ năm Quý-Dậu, 1633, trong trang sử nước ta có ghi
chuyện Trịnh-Nguyễn phân-tranh suốt gần nửa thế-kỷ. Lý-do là trong thời Chúa
Nguyễn Phúc-Nguyên (Sãi-Vương, 1613-1635), người con thứ ba của Chúa Nguyễn
Phúc-Nguyên tên là Ánh đi trấn-thủ ở đất Quảng-Nam nhưng lại có ý muốn tranh
quyền rồi sai ngưới đưa thư cho Chúa Trịnh Tráng để nhờ giúp-đỡ. Vào năm
Quý-Dậu, 1633, khi quân họ Trịnh đến nơi thì bị quân họ Nguyễn xuất-kỳ bất-ý
đem binh ra đánh đuổi nên Trịnh Tráng phải rút quân về. Đây là lần thứ hai
Chúa Trịnh đem binh đánh chúa Nguyễn. Nguyễn Phúc-Nguyên chống với họ
Trịnh ở Quảng-Bình bị chết vào năm Ất-Hợi, 1635, thọ 73 tuổi.
32.
Năm Đinh-Dậu, 1657: Niên-hiệu Thịnh-Đức của Vua Lê Thần-Tông ( 1649-1662,
làm vua lần thứ 2) chấm-dứt vào năm Đinh-Dậu, 1657. Triều-Đại của Chúa
Trịnh-Tráng (Thanh-Đô Vương, 1623-1657), chấm-dứt vào năm Đinh-Dậu, 1657.
Triều-Đại của Chúa Trịnh Tạc (Tây-Vương) bắt-đầu từ năm Đinh-Dậu,1657, đến
năm Nhâm-Tuất, 1682.
33.
Năm Quý-Dậu, 1693: Vào năm Quý-Dậu, 1693, Vua nước Chiêm-Thành là Bà Tranh
chấm-dứt tiến-cống nước ta nên Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc-Chu (1691-1725,
Minh-Vương hay Quốc-Chúa) sai quan Tổng-Binh là Nguyễn Hữu-Kinh (con của
Nguyễn Hữu-Dật) đem binh đi đánh Chiêm-Thành và bắt được Bà Tranh. Sau đó
Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm-Thành làm Thuận-Phủ. Từ đó, nước Chiêm-Thành bị
mất hẳn vào tay nước ta.
34.
Năm Ất-Dậu, 1705: Vào năm Ất-Dậu, 1705, tại đất Chân-Lạp, Nặc-Ông-Yêm được
Vua Chân-Lạp là Nặc-Ông-Thu phong cho làm quan. Sau đó, Nặc-Ông-Yêm có ý làm
phản, ông Vua kế của Chân-Lạp là Nặc-Ông-Thâm đem quân đánh Nặc-Ông-Yêm.
Nặc-Ông-Yêm chạy sang Gia-Định cầu cứu nước ta trong thời của triều-đại Vua
Lê Hy-Tông (tên húy là Duy-Hợp, 1676-1705). Niên-hiệu của Vua Lê Hy-Tông là
Vĩnh-Trị và Chính-Hòa. Niên-hiệu Chính-Hòa chấm-dứt vào năm Ất-Dậu, 1705.
35.
Năm Đinh-Dậu, 1717: Vào năm Đinh-Dậu, 1717, công-việc của Họ Trịnh làm ở đất
Bắc gặp nhiều trở ngại về việc khai mỏ và đúc tiền. Nước ta dạo ấy có các mỏ
sau: mỏ đồng, mỏ bạc, mỏ vàng, và mỏ kẽm. Trịnh Cương đã định luật-lệ cho
người Tàu sang khai mỏ tại nước ta là tối đa từ 100 người đến 300 người ở
mỗi chỗ khai mỏ. Thế mà có nơi khai mỏ ở nước ta, nhà Thanh đã đưa sang tới
hàng vạn người để sinh sự đánh nhau. Trịnh Cương phải dùng đến binh-lính
đánh-dẹp mãi mới xong.
36. Năm
Kỷ-Dậu, 1729: Triều-đại của Trịnh-Cương (Anh-Đô Vương, 1709-1729)
chấm-dứt vào năm Kỷ-Dậu, 1729. Triều-đại của Trịnh Giang (Uy-Nam Vương,
1729-1740) bắt-đầu vào năm Kỷ-Dậu, 1729. Vua Lê Dụ-Tông (1706-1729) có
2 niên-hiệu là Vĩnh-Thịnh và Bảo-Thái. Lê Dụ-Tông làm vua được 24 năm thì bị
Chúa Trịnh bắt nhà Vua nhường ngôi cho con là Lê Duy-Phương vào năm Kỷ-Dậu,
1729. Lê Duy-Phương hay Lê Đế Duy-Phương (1729-1732) lên ngôi vào năm
Kỷ-Dậu, 1729, này với niên-hiệu là Vĩnh-Khánh.
37.
Năm Quý-Dậu, 1753: Vào năm Quý-Dậu, 1753, trong công-việc Họ Trịnh làm ở Đất
Bắc, có lắm sự nhũng-lạm trong các sở đúc tiền ở các trấn. Chính vì thế mà
Trịnh Doanh (Minh-Đô Vương, 1740-1767) mới bỏ sở đúc tiền ở các trấn
và chỉ để lại hai sở đúc tiền gần đất Kinh-Sư mà thôi.
Trong công-việc Chúa Nguyễn làm ở Miền Nam, cũng
trong năm Quý-Dậu này, 1753, vì số tiền, số vàng, số bạc, số kê-ngân, và số
dung-ngân trong vấn để chi-thu không được ghi rõ-ràng nên Chúa Nguyễn ra
lệnh cho quan Chưởng-Thái-Giám là Mai văn Hoan tính sổ chi-thu về vàng, bạc,
và tiền trong mỗi năm cho thật rõ-ràng và chu-đáo. Cũng vào năm Quý-Dậu,
1753, Vua Chân-Lạp là Nặc-Nguyên liên-lạc với Chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập
mưu đánh Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn biết được mưu-đồ ấy nên sai Tướng Nguyễn
Cư-Trinh sang đánh Nặc-Nguyên. Sau đó 6 năm, tức là vào năm 1759, Chúa
Nguyễn chiếm đất của nước Chân-Lạp để người Việt khai-thác lập ra 6 tỉnh ở
Nam-Việt.
38. Năm
Ất-Dậu, 1765: Vua Nguyễn Phúc-Khoát (Vũ-Vương hay Võ Vương, 1738-1765) là
Chúa Nguyễn ở trong Nam tạ-thế trong năm Ất-Dậu (1765). Sau khi Chúa Nguyễn
mất, người quyền-thần Trương Phúc-Loan đổi tờ di-chiếu để lập người con út
của Vũ-Vương mới 12 tuổi là Nguyễn Phúc-Thuần lên nối nghiệp vào năm Ất-Dậu
này với niên-hiệu là Định-Vương (Duệ-Tôn Hiếu-Định Hoàng-Đế, 1765-1777,).
Trương Phúc-Loan được tôn lên làm Quốc-Phó để chuyên-quyền làm bậy. Chính vì
thế mà ở phía nam có Tây-Sơn dấy-binh đánh và ở mặt bắc có quân Họ Trịnh vào
đánh làm cho cơ-nghiệp Họ Nguyễn xiêu-đổ.
39. Năm Đinh-Dậu, 1777: Triều-đại của
Nguyễn Phúc-Thuần (Định-Vương, 1765-1777) chấm
dứt vào năm Đinh-Dậu, 1777. Triều-Đại của Nguyễn
Phúc-Dương (Tân-Chính-Vương) bắt-đầu vào năm
Đinh-Dậu, 1777. Cũng vào năm Đinh-Dậu,1777,
Nguyễn Nhạc sai người ra xin với Chúa Trịnh cho
trấn-thủ đất Quảng-Nam, Trịnh Sâm chấp-nhận và
phong cho Nguyễn Nhạc làm Quảng-Nam Trấn-Thủ,
Tuyên-Úy Đại-Sứ, và Cung-Quận-Công. Sau đó
Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ vào đánh
chiếm tỉnh Gia-Đinh bắt được Chúa Định-Vương và
Tân Chính-Vương đem giết cả hai vào năm Đnh-Dậu,
1777. Qua năm sau (1778), Nguyễn Nhạc tự-xưng
đế-hiệu, đặt niên-hiệu là Thái-Đức, và gọi Thành
Đồ-Bàn là Hoàng-Đế Thành.
40. Năm Kỷ-Dậu, 1789: Sau khi lên ngôi
Hoàng-Đế rồi, Nguyễn Huệ (Thái-Tổ Võ Hoàng-Đế,
1788-1792, niên-hiệu là Quang-Trung) tiến-hành
chiến-dịch đại-phá phá hai mươi vạn quân Thanh ở
Thăng-Long vào năm Kỷ-Dậu, 1789. Trận đánh đã
thành-công oanh-liệt. Vào nửa đêm ngày 3 tháng
giêng năm Kỷ-Dậu, 1789, Vua Quang-Trung đem quân
đến làng Hà-Hồi vây kín đồn giặc rồi dùng loa
kêu gọi, các quân dạ rầm cả lên. Quân canh đồn
sợ-hãi quá nên đều xin hàng, bởi thế, quân Vau
Quang-Trung lấy hết cả quân-lương và đồ
binh-khí.
Vào tháng 4 năm Kỷ-Dậu, 1789, Vua Lê Chiêu-Thống
bị nhục ở bên Tàu. Vua tôi nhà Lê bị quân Tàu
đưa đến thành Quế-Lâm, một quận tại Tỉnh
Quảng-Tây bên Tàu, để chuẩn-bị lợi-dụng Vua Lê
làm phương-tiện đánh chiếm nước ta, nhưng quân
Tàu không thực-hiện được.
Vào năm Kỷ-Dậu, 1789, Quan Thái-Bảo Tây-Sơn là
Phạm văn Tham đóng quân ở Ba-Thắc (Gia-Định) đem
binh xuống thuyền định ra bể về Qui-Nhơn, nhưng
Nguyễn Vương sai các tướng đem quân đánh Phạm
văn Tham, Phạm văn Tham không chống được nên
phải lui về Ba-Thắc, sau đó Phạm văn Tham đem
binh ra hàng nhưng lại bị giết. Từ đó, đất
Gia-Định hoàn-toàn thuộc về Chúa Nguyễn.
Vào tháng 6 năm Kỷ-Dậu, 1789, khi Ông Bá-Đa-Lộc
và Hoàng-Tử-Cảnh ở Pháp về, Ông Bá-Đa-Lộc và
Hoàng-Tử-Cảnh đi chiếc tàu chiến Méduse về đến
Gia-Định cùng với các tàu buôn chở súng-ống
thuốc-đạn lục-tục theo sau.
41. Năm Tân-Dậu, 1801: Trong thời-kỳ
Quân Tây-Sơn vây thành Bình-Định, vào tháng
giêng (tháng 1) năm Tân-Dậu, 1801, Nguyễn Vương
sai các tướng đem quân đến đánh đồn thủy và cửa
Thị-Nại của Tây-Sơn, đốt được cả tàu và thuyền
của quân Tây-Sơn. Đến ngày mồng 3 tháng 5 năm
Tân-Dậu này, Nguyễn Vương đưa quân vào đánh
thành Phú-Xuân (tên cũ của Kinh-Đô Huế), quân
Tây-Sơn không những không chống được mà còn bị
tan vỡ nên Nguyễn Vương khôi-phục được thành
Phú-Xuân.
42. Năm Quý-Dậu, 1813: Vào năm Quý-Dậu,
1813, trong thời Vua Gia-Long thứ 12 (Nguyễn
Thế-Tổ, 1802-1819), về phạm-vi tài-chính,
triều-đình cho chế-tạo ra cân thiên-bình để cấp
cho các doanh và các trấn dùng vào việc cân
đồng, sắt, chì, thiếc, và các sản-vật. Vua
Thế-Tổ sai quan Tổng-Trấn Gia-Định là Lê văn
Duyệt đem hơn 10,000 quân sang nước Tiêm-La để
đưa Nặc Ông-Chân về nước.
43. Năm Ất-Dậu, 1825:
Vào năm Ất-Dậu,
1825, khi chiếc tàu Thétis của Pháp vào cửa
Đà-Nẵng, có người giáo-sĩ tên là Rogerot ở lại
đi giảng đạo các nơi, Vua Thánh-Tổ mới có dụ cấm
đạo và tuyên-bố rằng: "Đạo phương Tây là tả-đạo
làm mê-hoặc lòng người và hủy-hoại phong-tục,
cho nên phải nghiêm-cấm để giúp người ta phải
theo chính-đạo. Lý-do là từ khi lên ngôi, Vua
Nguyễn Thánh-Tổ, (Minh-Mạng 1820-1840), rất
tinh-thâm Nho-học và sùng đạo Khổng-Mạnh nên
ngài không ưa đạo mới lấy trời thánh ra mà làm
mê-hoặc lòng dân. Chính vì thế mà ngài đã có ý
không cho người ngoại-quốc vào giảng đạo ở trong
nước ta.
Vào năm Ất-Dậu, 1825, Cụ Phan Thanh-Giản đậu
cử-nhân tại trường Gia-Đinh. Sau đó cụ ra Huế
thi Hội và thi Đình. Cụ là vị Tiến-Sĩ đầu-tiên
của Nam-Kỳ.
44. Năm Tân-Dậu, 1861: Năm Tân-Dậu
(1861) là năm Tự-Đức thứ 14. Vì đất nước lắm
giặc-giã nên nhà Vua Nguyễn Dực-Tông (Tự-Đức,
1848-1883) truyền-lệnh cho các tỉnh chọn lấy
những người khỏe-mạnh để làm lính võ-sinh. Tiếp
theo đó, nhà vua cho mở khoa-thi võ-tiến-sĩ.
Sau khi chiếm tỉnh Gia-Định, quân xâm-lăng Pháp
do Trung-Tướng Charner đem quân chiếm đồn Kỳ-Hòa
vào tháng giêng năm Tân-Dậu (1861) và tỉnh
Mỹ-Tho vào tháng 2 năm Tân-Dậu (1861). Tiếp đó,
quân Pháp và quân nước I-Pha-Nho sang đánh tỉnh
Quảng-Nam (một tỉnh ở phía nam Kinh-Đô Huế).
Trong số mấy người Bắc-Kỳ theo giặc, có tên Tạ
văn Phụng theo giáo-sĩ sang Pháp học đạo rồi sau
lại theo Trung-Tướng Pháp Charner về đánh
Quảng-Nam. Tên Phụng này bị dân ta gọi là Giặc
Phụng khởi sự làm phản từ năm Tân-Dậu, 1861. Đến
tháng 10 năm Tân-Dậu (1861) này, chính-phủ
xâm-lăng Pháp sai Thiếu-Tướng Bonard sang thay
Trung-Tướng Charner để tiếp-tục đánh lấy đất
Nam-Kỳ.
Vào năm Tân-Dậu, 11-12-1861, Tướng Nguyễn
Trung-Trực, tên thiệt là Nguyễn văn Lịch, quê
tại Tân-An (Rạch-Giá), đem Nghĩa-Quân vùng
Tân-An đến đốt phá chiếc pháo-thuyền Espérance
của Pháp tại Vàm Nhựt-Tảo ở Tân-An. Đây là
chiến-công oanh-liệt của quân ta đối với Pháp.
45. Năm Quý-Dậu, 1873:
Vào tháng 10 năm
Quý-Dậu, 1873, Pháp chiếm Bắc-Kỳ lần thứ nhất,
quân xâm-lăng Pháp do Đai-Úy Francis Garnier đem
quân chiếm thành Hà-Nội. Ông Nguyễn Tri-Phương
cùng với con lên thành chống giữ, con bị chết và
ông bị thương, bị bắt, rồi ông nhịn ăn để tự-tử.
Chỉ trong vòng 20 ngày, Francis Garnier đã chiếm
luôn Ninh-Bình, Nam-Định, và Hải-Dương. Nhưng
vào năm Quý-Dậu này, tức là ngày 21-12-1873,
Francis Garnier bị quân Cờ Đen phục-kích giết
chết ở Ô-Cầu-Giấy tại ngoại-ô Thành Hà-Nội.
Cũng trong năm Quý-Dậu (1873) này, Vua Nguyễn
Dực-Tông (Tự-Đức,1848-1883) sai sứ sang Tàu
bày-tỏ việc đánh giặc Khách ở Bắc-Kỳ.
Vào đầu năm Quý-Dậu (1873) quân Pháp ở Châu-Đốc
tại Miền Nam sai tên Thông, một cộng-sự-viên về
gánh hát-bội (vừa hát vừa diễn tuồng theo truyện
tích xưa) của ông Trần văn Thành, để đem
văn-kiện của Pháp vào chiến-khu Bảy-Thưa ở
Long-Xuyên để dụ Ông Trần văn Thành xin hàng với
quân Pháp. Chiến-khu Bảy-Thưa là nơi Ông Trần
văn Thành được sắc-chỉ của Triều-Đình đem quân
đến bố-trí rất chặt-chẽ để đánh giặc Pháp. Ông
Trần văn Thành không chịu hàng và quân Pháp biết
là không thể nào lung-lay được ý sắt-đá của ông
ta nên quân Pháp tổ-chức trận càn-quét quân ta
vào tháng 5 năm Quý-Dậu (tháng 3, 1873). Sau
trận đánh, chiến-khu Bảy-Thưa bị quân Pháp phá
tan và không ai còn thấy Tướng Trần văn Thành ở
đâu cả.
46. Năm Ất-Dậu, 1885: Vào năm Ất-Dậu
(1885), nước ta mất thành Lạng-Sơn vì quân Tàu
sang đánh Đồng-Đăng ngày 6 tháng 2 năm Ất-Dậu
(1885) và đánh Kỳ-Lừa vào ngày 13 tháng 2 năm
Ất-Dậu (1885). Sau đó, chính phủ Pháp thấy
chiến-tranh không có lợi bèn ký tờ giao-ước
đình-chiến với nước Tàu vào ngày 27 tháng 4 năm
Ất-Dậu, 1885. Tờ hòa-ước có ý nói rằng nước Tàu
nhận cuộc bảo-hộ của nước Pháp ở Việt-Nam và
hòa-thuận buôn bán như cũ. Vào ngày 19 tháng 5
năm Ất-Dậu, 1885, Thống-Tướng của Pháp là De
Courcy đem 500 quân đi tàu vào Huế bắt triều
đình phải chịu quyền bảo-hộ. Khi quân Pháp đóng
ở Phủ Khâm-Sử, vào ngày 22 tháng 5 năm Ất-Dậu
(4-7-1885), Tôn-Thất-Thuyết đem quân ra đánh Phủ
Khâm-Sứ ở Huế và trại quân Pháp ở Mang-Cá. Quân
Pháp chết mất 16 người và bị thương 80 người.
Triều-Đại của Vua Hàm-Nghi (1884-1885) chấm-dứt
vào năm Ất-Dậu, 1885. Thời Tự-Chủ của nước ta
chấm dứt vào năm Ất-Dậu, 1885. Sau đó, quân-đội
viễn-chinh Pháp lập Đồng-Khánh (Nguyễn
Cảnh-Tông, Chánh-Mông, 1885-1888) lên làm vua
bù-nhìn bắt-đầu từ năm Ất-Dậu (1885) này.
47. Năm Đinh-Dậu, 1897: Vào năm
Đinh-Dậu (1897), tại các vùng Thái-Bình,
Hải-Dương, và Bắc-Ninh, v.v., người Việt mình có
lòng ái-quốc mỗi ngày một nồng-nàn cho nên cứ
cách độ năm bảy năm lại có một cuộc nổi-dậy
chống quân Pháp như cuộc nổi-dậy của Phan
Đình-Phùng, Kỳ-Đồng, và Thiên-Binh, v.v ở
Thái-Bình, Hải-Dương, và Bắc-Ninh, v.v. Vào năm
Đinh-Dậu, 1897, Chính-phủ Pháp đưa Ông Doumer
sang làm Tổng-Đốc Toàn-Quyền ở Việt-Nam. Ông
Tổng-Đốc Toàn-Quyền bỏ chức Kinh-Lược-Sử của Nha
Kinh-Lược ở Bắc-Kỳ để giao quyền lại cho viên
Thống-Sứ vào tháng 6 năm Đinh-Dậu, 1897.
Vào năm Đinh-Dậu, 1897, Chí-Sĩ Phan Bội-Châu
(hiệu là Sào-Nam-Tử, Việt-Điểu, Độc-Tỉnh-Tử) bị
trượt khoa thi Hương ở trường thi Nghệ-An, chẳng
những bị trượt mà Chí-Sĩ còn bị cái án "Huề-Hiệp
Văn-Tự" (mang sách vào trường thi) và bị kết án
là trong suốt đời còn lại không được dự các khoa
thi nào nữa.
48. Năm Kỷ-Dậu, 1909: Từ năm Kỷ-Dậu,
1909, Chí-Sĩ Phan Chu-Trinh bị chính-phủ bảo-hộ
Pháp kết tội xúi-giục dân nổi-loại nên bị
kết-tội tử-hình và bị lưu-đầy vĩnh-viễn ở
Côn-Lôn. Lý do bị kết-án là vì Chí-Sĩ Phan
Chu-Trinh chủ-trương đường-lối tranh-đấu chống
Pháp công-khai và bất bạo-động bằng cách lập
Học-Hội và Thương-Hội để mở-mang dân-trí. Chí-Sĩ
Phan Chu-Trinh còn trực-tiếp gửi thư cho nhà cầm
quyền Pháp để trách-móc về cách cai-trị tệ-hại
tại Việt-Nam, ngược-đãi toàn-dân, và dung-dưỡng
bọn tham-quan ô-lại. Sau khi bị kết-án, nhờ có
dư-luận xôn-xao và nhờ có Hội Nhân-Quyền
can-thiệp nên Chí-Sĩ Phan Chu-Trinh được thả và
lại bị đưa về biệt-cư tại Mỹ-Tho.
49. Năm Ất-Dậu, 1945: Vào năm Ất-Dậu,
1945, quân Nhật-Bản ở bên Tàu sang đánh Lạng-Sơn
rồi ký hiệp-ước với người Pháp để cho người Nhật
được đóng quân ở Đông-Pháp (Đông-Dương). Vào
ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân Nhật đánh quân
Pháp và giao quyền nội-trị lại cho vua Bảo-Đại.
Vào ngày 17 tháng 4 năm 1945, Chính-Phủ Trần
Trọng-Kim ra đời do Vua Bảo-Đại chỉ-định
thành-lập. Vào ngày 15-8-1945, Chính Phủ Nhật
phải đầu-hàng Đồng-Minh. Trong năm Ất-Dậu
(1945), dân-tộc Việt oằn-oại đau-khổ dưới ách
thống-trị của thực-dân Pháp lẫn quân-phiệt Nhật.
Vào năm Ất-Dậu (1945) này, cả người Pháp lẫn
người Nhật thu mua thóc-lúa của dân Việt để đốt
lò hơi chạy máy điện. Chính vì thế mà hai triệu
con dân Việt phải chết đói la-liệt trên khắp mọi
miền, nhất là ở Miền Bắc.
Vào năm Ất-Dậu, 1945, vào ngày 17 tháng 8, 1945,
Việt Minh cướp chính quyền
tại Hà-Nội, Hồ Chí-Minh thành-lập Chính-Phủ Lâm-Thời
vào ngày 23-8-1945.
Vào ngày 28 tháng 8 năm 1945, Vua Bảo-Đại tuyên
chiếu thoái-vị để chấm-dứt chế-độ quân-chủ.
Triều-đại của Nhà Nguyễn, Gia-Long, chấm dứt vào
năm Ất-Dậu, 1945.
Cuộc bảo-hộ của nước Pháp bắt đầu từ năm 1883 và
chấm dứt vào năm Ất-Dậu, 1945.
Vào ngày 6-10-1945 (năm Ất-Dậu), Quân Pháp lại
tái đổ-bộ ở Vũng-Tầu rồi sau đó chiếm các tỉnh
Tây-Ninh, Gia-Đinh, Thủ-Đầu-Một, Biên-Hòa, các
tỉnh khác.
Vào ngày 25 tháng 12 năm 1945 (năm Ất-Dậu), Vua
Duy-Tân bị chết trong tai-nạn máy bay ở miền
Trung Phi-Châu trên đường từ Pháp về Việt-Nam.
50. Năm Kỷ-Dậu, 1969: Vào ngày 1-9-1969,
Thủ-Tướng Nguyễn văn Lộc từ-chức Thủ-Tướng
Chánh-Phủ Việt-Nam Cộng-Hòa để nhường cho
Đại-Tướng Tần Thiện-Khiêm thành-lập tân
chánh-phủ.
London, Canada,2004 (Giáp-Thân)
Tài-Liệu Tham-Khảo:
1. Bửu Sơn, Tử-Vi Tướng-Pháp, Nắng-Mới xuất-bản,
Sài-Gòn, 1974.
2. Phạm Thăng, Việt-Nam Mến Yêu, Lịch-Sử
Đại-Cương, Cửu-Long xuất-bản năm 1994 (trong
sách không có ghi nơi
xuất-bản).
3. Thiên-Lương, Tử-Vi Nghiệm-Lý, (trong sách
không có đề nhà xuất-bản, nơi xuất-bản và năm
xuất-bản).
4. Trần Gia Phụng, Việt-Sử
Đại-Cương, tập 1, nhà xuất-bản Non-Nước xuất-bản
năm 2004 tại Toronto, Canada.
5. Trần Trọng Kim,Việt-Nam Sử-Lược (quyển I và
II), Trung-Tâm Học-Liệu Xuất-Bản năm 1971 tại
Sài-Gòn.
6. Trần Việt-Nam, Cửu Long Giang, và Vi Vi, Việt-Sử
Bằng Tranh, Vietnamese History, Nhà xuất-bản
Việt-Long xuất-bản năm 2000 (trong sách không có ghi
nơi xuất-bản)