Nghệ thuật là gì? |
Vietsciences- Nguyễn Đình Đăng 30/06/2006 |
Ngày nay, thật khó định nghĩa được nghệ thuật. Đã qua rồi cái thời có thể chỉ ra được cái gì là nghệ thuật, cái gì không phải là nghệ thuật. Sau khi Marcel Duchamp [4] triển lãm chậu đi tiểu vào năm 1917 tại New York, hay Andy Warhol [5] bày ra các tranh in lưới hàng loạt các đồ hộp giống nhau như đúc vào những năm 1962 - 1964, thì bất cứ cái gì cũng có thể là nghệ thuật. Quan niệm này có vẻ phù hợp với nghệ thuật đương đại.
Gần với quan điểm nguồn gốc nghệ thuật kể trên là phát biểu của nhà vật lý thiên tài Albert Einstein: “Cái đẹp nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm là sự huyền bí.” Như vậy sự huyền bí là nguồn gốc của mọi nghệ thuật đích thực. Chính vì lý do đó chúng ta không có hy vọng có được một định nghĩa rõ ràng về nghệ thuật. Nghệ thuật là cái gì đó chúng ta chỉ có thể cảm thấy mà không tài nào diễn giải được bằng lời. Nó giống như một trải nghiệm huyền bí vậy.
|
|
J. Pollock, Những chiếc sào xanh, (Blue Poles, 1952) |
Ngày nay khoa học được áp dụng để thẩm định nghệ thuật (qua các phương pháp như đánh dấu carbon, dùng máy tính điện tử để thẩm định các tác phẩm của Jackson Pollock [14] , v.v.). Khoa học cũng được áp dụng để đo các hưởng ứng sinh lý của người trước các tác phẩm nghệ thuật. Các nghiên cứu khoa học về tâm lý con người khi tiếp xúc với tác phẩm nghệ thuật cũng có hữu ích cho các nghệ sĩ và những người yêu nghệ thuật.
Lại có quan điểm ngược lại cho rằng khoa học và
nghệ thuật có thể hòa nhập vì đều dựa trên hoạt
động sáng tạo của con người. Tuy nhiên nếu đi sâu
vào tính chất của sự sáng tạo, ta thấy rõ các lý
thuyết khoa học đều mang tính toán học rất cao,
còn các thực nghiệm khoa học đòi hỏi sự lặp đi lặp
lại đã nói ở trên, khiến sáng tạo trong khoa học
khác với sáng tạo trong nghệ thuật.
Nghệ thuật và khoa học là các
thành tố của văn hóa. Vì thế bản chất và
quan hệ giữa chúng thực ra khá phức tạp, thay đổi
tùy theo thời gian và
địa điểm. Sẽ thật ngây thơ khi
cho rằng có thể tìm thấy một sự mô tả quan hệ bất
biến giữa chúng. Trong
tương lai sự tiến triển mau lẹ của nghệ thuật,
khoa học và công nghệ sẽ còn đem lại cho chúng ta
nhiều điều bất ngờ. Ví
dụ internet có liên hệ thế nào với nghệ thuật?
Chúng ta sẽ thấy nhiều phương
tiện dùng kỹ thuật số, dùng network bandwidth.
Chắc chắn chúng ta sẽ nhìn
thấy nhiều loại hình nghệ thuật mới, song liệu
chúng ta có thấy các giá trị thẩm mỹ mới không?
Có lẽ chúng ta cũng sẽ được
thấy sự ra đời của nhiều lý thuyết mới về nghệ
thuật. Nhưng liệu chúng
có hơn gì những lý thuyết cũ không?
Phụ lục
Nghệ thuật là gì, theo
Lev Tolstoy
|
Lev Tolstoy (1828-1910) do Ilya Repin vẽ năm 1887 |
1. Trong tác phẩm Nghệ thuật là gì? được xuất bản năm 1896, tác giả Chiến tranh và hòa bình đã định nghĩa nghệ thuật như một hình thức truyền đạt các cảm xúc mà một người đã trải qua tới những người khác, khiến cho những người này cũng bị lây nhiễm các cảm xúc đó và thấy như mình cũng trải qua những kinh nghiệm đó. Theo Tolstoy, để hiểu nghệ thuật một cách đúng đắn, chúng ta cần từ bỏ thói quen coi nghệ thuật như công cụ tạo nên khoái lạc, như hoạt động nhằm tạo ra cái Đẹp. Cái Đẹp là một khái niệm chủ quan, vì thế không thể dùng cái Đẹp như một tiêu chuẩn khách quan để định ra cái gì là nghệ thuật, cái gì không phải là nghệ thuật. Nghệ thuật là một trong những điều kiện của cuộc sống con người, là một trong những phương thức giao tiếp giữa con người với nhau. Nghệ thuật không phải là của riêng của một giai cấp đặc biệt nào trong xã hội. Việc giới hạn nghệ thuật nhằm phục vụ quyền lợi của một vài giai cấp nào đó, bất kể đó là tư sản, công nhân, hay nông dân, v.v., là chối bỏ chân lý rằng nghệ thuật là quan trọng cho toàn xã hội.
Lời bàn: Như vậy theo
Tolstoy, nghệ thuật là phi giai cấp.
Mọi quan điểm cho rằng nghệ
thuật nhằm phục vụ lợi ích riêng của bất cứ giai
cấp, tầng lớp, đảng phái chính trị nào trong xã
hội đều là nhảm nhí.
Các đảng phái có thể bị tiêu vong, các chế độ
chính trị có thể bị suy tàn, nhưng nghệ thuật đích
thực tồn tại mãi mãi.
2. Tolstoy phân biệt giữa nghệ thuật đích thực và nghệ thuật tồi. Ông cho rằng nghệ thuật đích thực bao giờ cũng thông thái nhưng có thể hiểu được. Nghệ thuật tồi thường nông cạn về tư duy nhưng lại rối rắm khó hiểu. Càng giới hạn nghệ thuật cho một số khán giả đặc biệt nào đó thì càng làm cho nghệ thuật trở nên tối tăm và khó được cảm nhận đối với các khán giả khác nằm ngoài số khán giả đặc biệt nói trên. Nghệ thuật đích thực có thể giao tiếp với công chúng rộng rãi vì lẽ nó biểu hiện ý nghĩa theo một cách mà ai cũng có thể hiểu được. Tolstoy thậm chí tin rằng nghệ thuật chỉ là đích thực một khi nó được đa số đánh giá cao, rằng một tác phẩm nghệ thuật lớn chỉ thực sự là “lớn” nếu tất cả mọi người đều hiểu nó. Ông lý luận rằng nếu không chấp nhận nghệ thuật là thông thái và có thể cảm nhận được thì bất cứ biểu hiện nông cạn và khó hiểu nào của tư duy hoặc cảm xúc đều có thể được gọi là “nghệ thuật”. Như vậy định nghĩa của nghệ thuật sẽ mất dần ý nghĩa cho đến khi trở nên vô nghĩa hoàn toàn.
Nghệ thuật đích thực có hình thức và nội dung
thống nhất với các ý tưởng và cảm xúc mà nó khơi
dậy. Nghệ thuật tồi không có
sự nhất quán đó. Nó
nông cạn, trùng lặp, sống sượng, nhạt nhẽo, giả
tạo, hoặc tầm thường. Theo Tolstoy, phẩm
chất quan trọng nhất của một tác phẩm nghệ thuật
là tính chân thành. Chân thành ở đây được hiểu như
sau: Một tác phẩm nghệ thuật đích thực bao giờ
cũng bộc lộ những ý nghĩ và cảm xúc thực, không
giả tạo, vay mượn, ép buộc.
Ông còn đi xa hơn khi chỉ ra rằng các cảm xúc cao
cả nhất mà nghệ thuật có khả năng biểu hiện là
những cảm xúc liên quan đến nhận thức về tôn giáo.
Lời bàn: Việc hiểu Tolstoy một cách thô
thiển dễ dàng dẫn đến quan điểm nghệ thuật phục vụ
đại chúng. Bởi lẽ việc đánh giá nghệ thuật như vậy
phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí của một
xã hội, một tác phẩm nghệ thuật được đánh giá là
vĩ đại ở những nước có trình độ dân trí cao có thể
gây ra sự ngỡ ngàng hoặc thậm chí bị lên án tại
các nước có trình độ dân trí thấp kém. Vì vậy giáo
dục, học vấn và văn hóa đóng vai trò đặc biệt
trong việc làm phong phú cảm xúc của con người,
giúp con người tự tin vào chính mình, biết hoài
nghi để tự kiểm chứng và xử lý thông tin theo quan
điểm của riêng mình. Bên cạnh đó, một xã hội tôn
trọng tự do ngôn luận, tự do biểu hiện cho phép
con người được bộc lộ cảm xúc của mình một cách tự
do, thoải mái nhất mà không bị bất cứ một nỗi sợ
hãi nào đe dọa. Chỉ có một
trình độ dân trí và xã hội dân chủ như vậy mới có
chỗ cho nghệ thuật đích thực.
3. Tolstoi cho rằng tính chuyên nghiệp là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu chân thành trong người nghệ sĩ. Ông lý luận rằng nếu nghệ sĩ phải kiếm sống bằng việc sản xuất nghệ thuật, thì thứ nghệ thuật “xuất xưởng” đó sẽ thiên về đồ rởm, thiếu chân thành hơn là nghệ thuật đích thực. Tolstoi cũng cho rằng diễn đạt lại hoặc phê bình nghệ thuật là điều phi lý và không cần thiết, vì lẽ bất cứ tác phẩm nghệ thuật đích thực nào cũng có khả năng tự biểu hiện tư duy và cảm xúc mà mọi người đều cảm nhận được. Tolstoy cho rằng mọi sự lý giải các tư duy và cảm xúc đều là thừa, vì nghệ thuật truyền cảm xúc và trải nghiệm theo một cách mà lời nói không thể nào diễn tả lại được. Trên cơ sở này, Tolstoy cho rằng giảng dạy nghệ thuật đồng nghĩa với tiêu diệt nghệ thuật, tiêu diệt cá tính của nghệ sĩ. Mọi toan tính dạy dỗ nghệ thuật thực chất chỉ đưa đến việc bắt chước các tác phẩm nghệ thuật của người khác.
Lời bàn: Oscar Wilde có quan điểm ngược với
quan điểm của Tolstoy. Theo Oscar Wilde, “bản thân
phê bình nghệ thuật cũng là một nghệ thuật, phê
bình là một sự sáng tạo theo
nghĩa cao cả nhất của từ đó. Phê bình thực chất
vừa có tính sáng tạo lại vừa độc lập.
Quan hệ giữa nhà phê bình với
tác phẩm nghệ thuật mà anh ta phê bình giống hệt
như quan hệ giữa họa sĩ với thế giới hữu hình của
màu sắc và hình khối, hoặc thế giới vô hình của
niềm say mê và tư duy.
Phê bình đặt tác phẩm vào một hình thức mới và thú
vị. Thực chất đó là một sự sáng tạo trong
một sự sáng tạo. Đối với nhà
phê bình, tác phẩm nghệ thuật đơn giản chỉ là một
sự gợi ý cho một tác phẩm mới của chính nhà phê
bình.
Tác
phẩm mới này không nhất thiết phải giống với cái
mà anh ta phê bình”
[15]
.
4. Quan niệm nghệ thuật là phổ cập cho tất cả mọi người của Tolstoy khẳng định rằng nghệ thuật là phổ cập nếu nó biểu hiện các tư tưởng và cảm xúc mà bất cứ ai cũng có thể trải nghiệm. Theo Tolstoy, bất cứ ai cũng có thể trải nghiệm các tư tưởng hoặc cảm xúc tôn giáo. Vì vậy nghệ thuật là phổ cập khi nó biểu hiện các cảm xúc mang tính tôn giáo. Nhận thức có tính tôn giáo được thể hiện bằng nghệ thuật là nhận thức rằng hạnh phúc của nhân loại phụ thuộc vào sự hài hòa và hiểu biết lẫn nhau trong xã hội.
Lời bàn: Cách nhìn nhận nghệ thuật của
Tolstoy khiến nghệ thuật phải đáp ứng một lúc cả
ba yêu cầu: tính thẩm mỹ, đạo đức và xã hội. Nó
na ná giống quan niệm
nghệ thuật phải đủ “chân, thiện, mỹ” của phương
Đông. Vì lẽ đó Tolstoy đã loại
nhiều nghệ thuật ra khỏi cái mà ông cho là nghệ
thuật đích thực. Ví dụ
ông coi âm nhạc của Bach, Mozart, hài kịch của
Molière, thơ của Goethe và Hugo, tiểu thuyết của
Dickens và Dostoevsky là những ví dụ của nghệ
thuật đích thực. Trong
khi đó, thơ của Baudelaire và Mallarmé, kịch của
Ibsen, âm nhạc của Wagner và Liszt bị ông coi là
nghệ thuật tồi (!)
(Đã đăng tại talawas ngày 12/1/2006)
[1] Bart Rosier, What is art?,
http://www.geocities.com/SoHo/Coffeehouse/6831/whatsart.html
[2]
Joseph A. Goguen, Journal of Conciousness Studies,
7, Nos. 8-9 (2000) 7.
[3]
Leo N. Tolstoy, What is Art?
(McMillan, New York, 1960).
[4] Marcel Duchamp (1887-1968): họa sĩ Pháp, một trong các nhà sáng lập ra trường phái Dada vào năm 1915. Ông nổi tiếng vì tác phẩm theo trường phái lập thể-tương lai Khỏa thân đang đi xuống cầu thang, chậu đi tiểu mà ông đặt tên là Đài phun (Fountain). Năm 1917 khi Đài phun được trưng bày lần đầu tiên tại triển lãm của hội các họa sĩ độc lập tại New York, ban tổ chức triển lãm đã phải họp khẩn cấp và bỏ phiếu để cất cái vật thể “đồi trụy” này khỏi phòng triển lãm. Vậy Fountain có phải là nghệ thuật không? Chúng ta làm thế nào để phán xét đây? Đó chính là những câu hỏi mà Duchamp muốn chúng ta nêu ra khi xem tác phẩm của ông. Ông bày nó ra để thách thức người xem.
[5]
Andy Warhol (1928-1987): nghệ sĩ Mỹ, một trong
những người tiên phong của pop-art, và có ảnh
hưởng lớn nhất trong nghệ thuật cuối thế kỷ 20.
[6]
Plato (427-347 ): triết
gia Hy Lạp, có ảnh hưởng nhất trong toàn bộ nền
văn minh phương Tây.
[7]
John Keats (1795-1821): một trong 3 thi sĩ Lãng
mạn vĩ đại nhất của
Anh, bên cạnh Byron và Shelleỵ
[8]
Martin Heidegger (1889-1976): triết gia Đức, một
trong những triết gia quan trọng nhất của thế kỷ
20, một trong những nhân vật trung tâm của chủ
nghĩa Hiện sinh.
[9]
Immanuel Kant (1724-1804): triết gia Đức, một
trong những triết gia có ảnh hưởng lớn nhất trong
toàn bộ triết học phương Tây.
Các công trình của ông về siêu hình, nhận thức
luận, luân lý, thẩm mỹ học đã ảnh hưởnh sâu sắc
đến mọi trào lưu triết học sau ông.
[10]
Oscar Wilde (1854-1900): nhà văn, viết kịch, thi
sĩ Anh - Ái Nhĩ Lan,
rất nổi tiếng ngay từ khi còn sống, bị kết án và
bỏ tù vì đồng tính luyến ái.
[11]
Aristotle (384-322): học trò của Plato và thầy của
Alexander Đại đế, một trong 3 triết gia cổ Hy Lạp
vĩ đại nhất, bên cạnh
Plato và Socrates.
[12] Claude Monet (1840-1926): họa sĩ Pháp, một trong những người khởi xướng hội họa ấn tượng. Bức họa Impression: Soleil levant (Ấn tượng: Mặt trời mọc) cuả ông vẽ năm 1873, khi triển lãm lần đầu tiên vào năm 1874 tại một hiệu ảnh ở phố Capucines (Paris) cùng với tranh của 8 họa sĩ khác (Boudin, Degas, Cézanne, Guillaumin, Berthe Morisot, Pissarro, Renoir và Sisley), đã gây một cú sốc có tiếng vang rất lớn. Nhà phê bình Louis Leroy đã mượn tên của bức tranh này để chơi chữ có tính diễu cợt trong bài báo Triển lãm của bọn Ấn tượng (L’Exposition des Impressionistes) đăng ngày 25/4/1874, hoàn toàn không biết rằng mình đã đặt tên khai sinh cho một trào lưu sau này trở thành một trường phái nghệ thuật lớn.
[13]
Anthony Freeman: cố đạo và nhà nghiên cứu thần
học, bị khai trừ khỏi Giáo hội Anh vì những quan
điểm cực đoan, tổng biên tập Tạp chí nghiên cứu ý
thức từ năm 1994. Tác phẩm nổi tiếng Chúa trong
chúng ta (1993), Ý thức: Hướng dẫn tranh luận
(2003).
[14]
Jackson Pollock (1912-1956): họa sĩ Mỹ, người tiên
phong của trào lưu trừu tượng biểu hiện. Tác phẩm
Những chiếc sào xanh (Blue Poles, 1952) của ông
được Bảo tàng Quốc gia Úc mua năm 1973 với giá 2
triệu USD - giá kỷ lục cho một tác phẩm nghệ thuật
đương thời.
[15]
Oscar Wilde, The Critic
as Artist,
http://www.greeleynet.com/~maxalla/GatewaySub/Classes/VariousEssays/CriticAsArtist.html
© http://vietsciences.org và http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences2.free.fr - Nguyễn Đình Đăng