Trước 1975, trong hoàn
cảnh chiến tranh, không ít người trong chúng ta sống trong một gia
đình vắng mặt cả cha lẫn mẹ. Có thể là người cha đi lính, mẹ buôn bán
tảo tần hoặc đôi khi làm một việc nào đó nơi xa để nuôi gia đình. Có
những trường hợp người cha chết trận, mẹ lấy chồng khác để con thơ lại
cho ông bà nuôi. Những đứa trẻ không phải là mồ côi nhưng phải sống
với những người bà con khác thế cha mẹ mình, thường là ông bà nội
ngoại. Thế hệ ông bà, những người bốn mươi trở lên, sau khi đã nuôi
nấng con cái trưởng thành, tưởng sẽ được nghỉ ngơi tuổi trung niên hay
tuổi già, lại thêm một lần nữa lãnh nhiệm vụ nuôi trẻ con. Thế là
những người cha mẹ trẻ tuổi đã vì một lý do nào đó , vắng bóng trong
dây chuyền các thế hệ đi từ ông bà, tới cha mẹ, tới con, tới cháu. Thế
hệ này, ở Mỹ hiện nay gọi là skipped generation, thế hệ bị nhảy
băng qua trong gia đình, lỡ nhịp (giống như trái tịm đang đập đều đặng
bỗng bỏ lỡ đi một nhịp, các bác sĩ gọi là skipped beat.). Các
gia đình (hộ) này gọi là skipped generation household (hoặc
skip generation household).
Theo một bài báo mới đây
đăng trong The New York Times, hiện tượng này tăng nhanh trong những
năm gần đây, nhất là trong giới Da Đen ở các đô thị lớn như
Washington
DC
. Năm 1990 có 1,3 triệu gia đình loại này ở Mỹ, thì nay có khoảng 2,5
triệu hộ loại này. Trong các gia đình này, người đàn ông hoặc chết,
hoặc bị bịnh AIDS, ghiền xì ke ma túy, hoặc bị ở tù, và người mẹ, vì
một lý do nào đó như vị thành niên, mắc bịnh tâm thần nên đứa trẻ
không có người giám hộ hợp pháp chăm sóc. Hệ thống foster care
(cha mẹ nuôi tạm thời) hiện phụ trách cho chừng 500.000 trẻ con tại
Mỹ. Tuy nhiên foster care đắt tiền (80.000 dollar một năm cho
mỗi trường hợp). Hơn nữa theo luật định, trẻ không được ở với
foster parents quá 15 tháng (trên thực tế trung bình 30 tháng)
và sau đó phải trả về gia đình của nó hoặc giao cho cha mẹ nuôi thực
thụ (adopted parents). Trước đây chính phủ không biết giao
những đứa trẻ này cho ai, một phần vì nếu bà con ông bà lo cho chúng
nó thì chính phủ không chịu trợ giúp. Một chiều hướng gần đây bắt đầu
thịnh hành là chính phủ chính thức giao đứa trẻ cho những người thân
thuộc của nó nuôi, thường là ông bà của đứa trẻ, hoặc cô, chú.. của
nó… Những người này được quyền giám hộ hợp pháp (legal
guardmanship to replace foster care, trước đây gọi là kinship
care program) và được nhà nước tài trợ.
Có những trẻ con Việt nam
ở Mỹ cũng rơi và những trường hợp gia đình “nhảy một thế hệ” tương
tự. Một số trẻ bị cha vào tù, mẹ mắc bịnh tâm thần, ở với ông bà của
mình. Tuy nhiên những người Việt lớn tuổi ở Mỹ thường không có đủ khả
năng về vật chất (sống nhờ trợ cấp (welfare), hay lương thấp, nhà trọ
chật chội) và thiếu kỹ năng cần thiết để chăm sóc dạy dỗ trẻ em (như
không biết tiếng Anh, không biết khai thác các dịch vụ xã hội). Một số
trẻ, sau nhiều lần bị bỏ bê (child neglect) và được dịch vụ bảo
vệ trẻ em (child protective service) để ý tới, cuối cùng
phải giao cho foster parents, và lần hồi được những người Mỹ
nhận làm con nuôi chính thức. Những trẻ này phần lớn sẽ dần dần quên
hết quá khứ Việt nam của mình và “hội nhập” hoàn toàn vào gia đình cha
mẹ nuôi, và đây cũng là một điều đáng mừng cho các cháu (nếu chúng ta
tạm thời khoan nghĩ đến những thiếu thốn về tình cảm và những nuối
tiếc về nguồn gốc và bản sắc [identity] có thể có lúc em lớn
lên.)
Tuy nhiên, điều mà chúng
ta nên để ý nhiều hơn là một hiện tượng khác có vẻ như càng ngày càng
phổ biến ở Mỹ. Có những gia đình mà người cha và người mẹ hầu như luôn
luôn vắng mặt trong nhà. Người cha cũng như mẹ thường đi làm việc từ
sáng sớm đến tối mới về. Một số cha mẹ người Mỹ cũng vậy, chỉ khác
người Mỹ thường không có ông bà đứa trẻ sẵn lòng ở nhà coi chừng nó,
nên người Mỹ nếu muốn để con ở nhà phải mướn người giữ trẻ khá tốn
kém (như mướn các cô gái trẻ au-pair từ Châu Âu sang, hoặc các
nannies từ Philippines sang), hoặc phải gởi chúng đi nhà trẻ khá
đắt tiền và nhất là có giới hạn giờ giấc. Hình như chỉ có các cặp vợ
chồng trẻ Việt nam chúng ta là được cái xa xỉ giao con cái cho ông bà
chúng (thường là từ Việt nam mới qua), nhiều khi cả tuần không thấy
mặt con. Sáng sớm đi làm thì con chưa dậy, khi về thì con đã ngủ rồi.
Cho nên, tuy nhìn qua, thấy vẫn ông bà cha mẹ con cái đề huề một nhà,
trên thực tế, lắm gia đình của chúng ta cũng là skipped generation
household.
Một trào lưu khác đang nẩy
nở trong lối nuôi con của người Việt hải ngoại chúng ta là gởi con về
Việt nam cho ông bà, cô dì của chúng nuôi dùm, vài tháng, có khi vài
năm. Trong lúc cha mẹ chúng ở Mỹ ráng làm tiền thật nhiều, gởi về trả
người nuôi bé, trang bị nhà ở Việt nam đủ mọi thứ tiện nghi như máy
lạnh, TV video, và cho cháu học trường tư, dạy tiếng Anh, đi bác sĩ
ngoại quốc. Nếu gọi những gia đình này là skipped generation
thì cũng không sai. Làm cha mẹ theo lối này chúng ta có thể tạo nên
một từ mới và gọi là “teleparenting” cũng được, giống như hiện nay một
số người khỏi cần lái xe đến sở làm (commute), mà chỉ cần ngồi nhà
trước computer nối liền với nơi làm việc bằng internet. và điện thoại.
Những trẻ được nuôi nấng từ xa này sẽ thiếu vắng người cha và người mẹ
trong những năm tháng mà tình cảm gắn bó cha con mẹ con nẩy nở mãnh
liệt nhất. Chắc rằng sự vắng bóng của cha mẹ chúng sẽ ảnh hưởng đến
sự phát triển về sau này của các em (về khả năng hiểu biết, về ý thức
kỷ luật, về tình cảm , cách đối xử với người chung quanh) , mặc dù có
thể có những điểm lợi cũng đáng kể trước mắt ( trẻ sống ở Việt nam
được chiều chuộng, săn sóc hơn vì nhân công ở Việt nam rẻ, những dịch
vụ như giải trí, khám bịnh, thầy giáo dạy kèm có thể rẻ tiền hơn và dễ
kiếm hơn).
Người cha mẹ lúc đầu có
thể lo lắng, nhớ con, hơi có mặc cảm "tội lỗi” vì mình không gắn bó
với đứa con trong những năm tháng với những mốc phát triển
(developmental milestones) của nó, như lúc cháu biết ngồi, cháu biết
kêu “ba” , cháu chập chững biết đi…. Nhưng nuôi con qua điện thoại dần
dần rồi cũng quen, nhất là đối với những người bận rộn, “lu bu” trong
công việc. Vắng mặt đứa con là sợi dây nối liền giữa hai vợ chồng, đôi
khi tương quan giữa cha mẹ của bé cũng như muốn tan rã. Tuy nhiên, đứa
trẻ được ông bà của nó là những người trung niên hoặc già dặn tuổi đời
và nhiều kinh nghiệm sống hơn cha mẹ chúng; đấy có thể là những điểm
tốt cho sự nuôi dưỡng và giáo dục chúng và trường hợp này khác một số
những gia đình ở Mỹ. Trong số lớn những gia đình skipped generation
trên đất Mỹ, thế hệ ông bà bì thất học, nghiện ngập hoặc phạm pháp, đã
từng thất bại trong sự giáo dục con cái của chính họ, thì nay đến lúc
họ phải phụ trách nuôi nấng thêm một thế hệ nữa, khả năng để thoát ra
khỏi vòng lẫn quẩn thật ít ỏi.
Đối nghịch với hoàn cảnh
trên là một hoàn cảnh gia đình khác cũng đang làm các nhà giáo dục Mỹ
cũng như những bác sĩ nhi khoa phải nhức đầu. Thay vì người cha mẹ
vắng mặt trong gia đình như trong thế hệ lỡ nhịp thì ta lại có những
phụ huynh mà ở đâu cũng có mặt: trong lớp học để canh thầy giáo có lơ
là con mình hay không, trong phòng họp với thầy và hiệu trưởng để kỳ
kèo thêm từng điểm, trong phòng khám bịnh để sửa sai từng câu nói con
mình khai bịnh, cha mẹ giành viết bài luận văn (essay) của con trong
lúc con xin vô đại học, ngay cả lúc con xin interview xin việc cũng đi
theo thăm dò luôn. Người Việt chúng ta dễ thông cảm những thái độ “quá
kỹ” kiểu này và nếu không bị giới hạn bởi khả năng Anh ngữ và văn hóa,
có lẽ chúng ta cũng sẽ rất sẵn sang “nhào vô” lo giùm con cái. Tuy
nhiên người Mỹ đặt nặng tính tự lập của mỗi con người đang trưởng
thành. Họ khuyến khích cha mẹ nhận lãnh trách nhiệm trong giáo dục con
cái mình nhưng không can thiệp tới mức làm cho đứa trẻ thấy nó mất vai
trò quyết định chủ động, mất đi tính xông xáo, tự tin và khả năng
hành xử một cách độc lập căn cứ trên phán đoán của mình.
Những cha mẹ ở
đâu cũng có mặt đó người Mỹ gọi là helicopter parents, tựa như
trực thăng bay luôn luôn lởn vởn trên đầu theo dõi đám đông biểu tình.
Người Việt chúng ta có
câu: “Nhà giàu đứt tay bắng ăn mày đổ ruột”. Cái ý mỉa mai của câu nói
nhiều khi làm người ta quên rằng, đôi khi người ta có thể chết vì biến
chứng của một vết thương nhỏ như ngón tay bị đứt và vết thương đổ ruột
có thể dễ hồi phục , ít có biến chứng hơn ở những người gọi là nghèo,
vì những người này do cuộc sống dãi dầu, có thể có đề kháng tốt hơn,
có sức chịu đựng tốt hơn, không bị những bịnh như tiểu đường
(diabetes), mập phì (obesity) làm vết thương khó lành . Cho nên nói gì
thì nói, người có tiền có của, kiến thức càng nhiều, phương tiện càng
nhiều thì càng lo lắng cho con cái họ nhiều hơn, và muốn ‘bao dàn’
về mọi mặt cho cuộc sống của chúng nó. Vì cha mẹ của chúng muốn đứa
con trở thành “đại tác phẩm” (masterpiece) để đời của mình, do đó cố
gắng quản lý mọi mặt đời sống của con mình, thay thế chúng lo mọi việc
, nói theo kiểu Mỹ là “đút ăn tới miệng bằng muỗng bạc”. Đứa trẻ có
thể trở thành một con người cái gì cũng biết qua (như học trường đắt
tiền, chơi các môn thể thao “quí phái” và tốn kém), trải nghiệm
(experience) đủ mọi thứ hiếm hoi trong đời như đi du lịch châu Phi,
Alaska
vân vân. Nói một cách khác, người con trai hay gái sẽ có một cái
resumé rất “ấn tượng”, đủ để ban xét đơn nhập học (admission
committee) trường đại học nổi tiếng nào mà cháu nộp đơn xin học cũng
sẽ thán phục. Những vùng giàu có ở Mỹ như vùng Bắc
Virginia
này là những nơi loại “dịch” này rất phổ biến. Những đứa trẻ này sống
trong sự gò ép liên tục, luôn luôn bị stress và cuộc sống luôn luôn
bận rộn, ngày sinh hoạt của chúng không khác gì thời khóa biểu của một
giám đốc công ty lớn. Sau bề ngoài thành công, chúng có thể rất khổ sở
và bị nhiều triệu chứng trầm uất (depression), lo âu (anxiety)
và lạm dụng thuốc (drug abuse).

Gần đây báo Washington
Post phỏng vấn Madeline Levin, một tâm lý gia ở California từng
nghiên cứu về những trẻ con của các gia đình lợi tức rất cao, từ
120.000 đến 160.000 đô la /năm ở Mỹ. Bà công bố về những trường hợp
này trong cuốn “The Price of Privilege’ (Cái Giá Của Sự Ưu Đãi)
(Harper Collins xuất bản) trong đó bà nhận xét rằng các phụ huynh vì
can thiệp vào cuộc sống con cái mình nhiều quá (over-involved
parents) và áp lực chúng để chúng trở thành những ngôi sao (stars),
đã tạo nên một thế hệ ‘cực kỳ thiếu hạnh phúc, tách rời với cuộc sống
(disconnected) và thụ động. Những trẻ giàu có này thường không được
gia đình đem đi bác sĩ tâm lý chữa trị vì như thế sẽ mất cái bề ngoài
hoàn hão và sẽ có thể làm gia đình tai tiếng. Đặc biệt, con gái những
nhà giàu có (upper middle class) dễ bị depression hơn
gấp ba lần các cô gái khác cùng tuổi. Theo Levin, đây là một loại văn
hoá của sự trù phú (culture of affluence), nặng về chủ nghĩa vật chất
(materialism), chú trọng về cạnh tranh (competition) hơn là sự
cộng tác (cooperation) giữa người trẻ. Phụ huynh vì sợ con mình
không thành công theo ý muốn, điều khiển và quản lý mọi khía cạnh của
cuộc sống của đứa trẻ nên làm cho đứa trẻ không có cơ hội để tự tìm
hiểu về chính nó và về cuộc đời qua những kinh nghiệm bản thân và từ
những thất bại của nó dùng chúng như những bài học để đối phó với
những thử thách mới. (“Kids aren’t having the experiences that are
mandatory for the healthy child development-and that’s a period of
time to be left alone, to figure out who you are, to experiment with
different things, to fail, and to develop a repertoire of responses to
challenges’).
Đại đa số cha mẹ đều đặt
quyền lợi của con mìnnh trên hết mọi thứ, kể cả hạnh phúc cá nhân của
mình. Người tị nạn chúng ta phải củng cố địa vị trong xã hội mới bằng
mọi cách. Thế hệ đầu tiên tị nạn dễ rơi vào hoàn cảnh skipped
generation household vì một số thực tế xã hội và kinh tế. Truyền
thống Việt nam chúng ta lại đặt nặng vai trò giáo dục trong mục tiêu
thành công vật chất cũng như địa vị trong xã hội Sau khi an cư lạc
nghiệp, làm ăn khá giả, quen thuộc văn hóa Mỹ và khả năng tiếng Anh
khá rồi, chúng ta dễ rơi vào thái cực bên kia,
quá hăng say và trở
thành “phụ huynh trực thăng”. Người xưa nói làm người khó thay, thì
trong xã hội Mỹ thế kỷ thứ 21 dạy con nên người lại càng khó hơn
nữa.
Chúng tôi xin nêu một số
hoàn cảnh đáng chú ý để mỗi phụ huynh trong chúng ta suy gẫm, để ý
thức nhiều hơn về vai trò của mình trong đời sống con cái chúng ta.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.
Falls Church
ngày 28 tháng 8 năm 2006.
|
© http://vietsciences.free.fr , http://vietsciences.org
và http://vietsciences2.free.fr
Hồ Văn Hiền |