 |
Nguyễn Phan Chánh, Cô bé cho
chim ăn (1931)
|
Không ít người cho rằng, trong
nghệ thuật tạo hình, đặc biệt là trong hội
hoạ, phong cách là tất cả.
Thậm chí, người ta còn đánh giá tài năng của
một hoạ sĩ, giá trị nghệ thuật của một tác
phẩm, qua sự có hay
không có phong cách.
Điều này độc lập với sự đẹp
hay xấu của
một tác phẩm.
Trước khi tìm hiểu xem ý kiến
trên có cơ sở hay không, chúng ta cần nhất
trí với nhau về từ ngữ và khái niệm.
Phong cách
ở đây là gì ? Nó thể hiện cụ thể như thế nào
trong hội hoạ từ xưa tới nay ? Làm sao nhận
biết được phong cách của một hoạ sĩ ? Đâu là
những yếu tố tạo nên
cái phong cách ấy, và trong các yếu tố, yếu
tố nào là quyết định ? Cuối cùng, tại sao
một tác phẩm nghèo phong cách lại là một tác
phẩm không có giá trị nghệ thuật ?
Phong cách như một nét đặc
thù
Về mặt từ ngữ, chúng ta biết
rằng, trong nghệ thuật tạo hình, và gần như
trong ngôn ngữ nói và viết của bất cứ dân
tộc nào, từ phong cách
có hai nghĩa, hai nội dung, khác nhau.
Nghĩa thứ nhất, chỉ những nét
đặc thù của một trường phái nghệ thuật, hoặc
của một thời kỳ nghệ thuật. Ví dụ như trong
nền hội hoạ ở phương tây, người ta vẫn
thường nói : phong cách cổ điển, phong cách
ấn tượng, v.v. Trong một số trường hợp, đặc
biệt trong kiến trúc và một số ngành mỹ
nghệ, người ta vừa dùng từ
phong cách, vừa dùng từ
kiểu, phong cách ở
đây có nghĩa là kiểu dáng
: một ngôi nhà thờ phong cách gô-tíc, một
cái mái kiểu Mansard, một chiếc ghế kiểu
Louis XV. Ở Việt Nam, khi ta nói
bát
kiểu, là để chỉ những loại bát có
kiểu dáng đặc biệt, như : bát múi, bát chiết
yêu, v.v., để phân biệt với loại bát ăn cơm
thường (mặc dầu, trên thực tế, những bát ăn
cơm thường đôi khi lại có kiểu dáng và chất
liệu mộc mạc, thanh nhã, hợp với cái gu thẩm
mỹ hiện đại).
 |
Salvador Dali,
Marché d'esclaves avec
apparition du buste invisible de Voltaire
(1940) |
Nghĩa thứ hai của từ
phong cách, là những
nét nghệ thuật đặc thù, không nhất thiết là
thuần tuý hình thức, của cá
nhân một nghệ sĩ. Một hoạ sĩ
có phong cách, là
một hoạ sĩ có cá tính,
hoặc có bản sắc
độc đáo.
Sự độc đáo này,
tuy chủ yếu là ở
cách thể hiện (nét
vẽ, màu sắc, hình dạng cách điệu hoá, nhịp
điệu, hoặc ký hiệu, v.v.) tức là ở
hình thức
của tác phẩm, song đôi khi
nó cũng nằm ở ngay trong quan niệm về
nội dung,
trong lý thuyết nghệ thuật mà nó chuyên chở,
hoặc trong cái
bầu
không khí
của một bức tranh. Không phải tình cờ, mà
những hoạ sĩ siêu thực tài năng nhất lại là
những thí dụ điển hình nhất minh hoạ cho sự
đa dạng, phong phú và tính chất phức tạp của
phong cách : từ Salvador Dali, De Chirico,
đến Magritte, Balthus, mỗi hoạ sĩ có một
phong cách, một bút pháp riêng biệt, đi đôi
với những ý tưởng nghệ thuật, những thông
điệp đầy những nét trào phúng, hóm hỉnh và
độc đáo.
Trong bài này, chúng ta sẽ
chỉ bàn về cái nội dung thứ hai của từ phong
cách, nghĩa là cái nét riêng biệt trong các
tác phẩm của một hoạ sĩ.
Phong cách trong cuộc săn tìm
những ý tưởng nghệ thuật
Câu hỏi đầu tiên mà chúng ta
có thể nêu lên, là trong quá trình thực hiện
một tác phẩm, trong cuộc săn tìm
ý tưởng sáng tạo ấy,
đâu là vai trò của phong
cách ? Tại sao, người hoạ sĩ lại phải
khẳng định cái phong cách của mình ? Đi tìm
ý tưởng sáng tạo,
hay đi tìm bản sắc,
có gì là mâu thuẫn không ?
Như chúng ta biết,
cái đẹp, hay nói
rộng ra hơn, những ý tưởng
nghệ thuật, vốn đa dạng, phong phú,
thậm chí có thể nói là muôn
hình muôn vẻ, trong trí tưởng tượng
của con người. Người hoạ sĩ ở mỗi thời điểm,
mỗi chặng đường nghệ thuật của mình, chỉ có
thể tập trung vào một hai ý
tưởng, một hai mục
tiêu tìm kiếm cụ thể mà thôi. Y không
thể nào săn tìm và thực hiện nhiều ý tưởng
cùng một lúc được, và thông thường, người ta
chỉ có thể săn tìm một ý
niệm đã manh nha
hình thành ở trong đầu rồi. Đó là một
quy tắc của sự sáng tạo, và thực ra cũng chỉ
là một điều lô gích. Cũng như thể khi ta tìm
một cuốn sách trong một thư viện mênh mông
đầy ắp những sách, ít ra ta phải biết cuốn
sách nói về vấn đề gì, thuộc lãnh vực nào.
Săn tìm một ý tưởng sáng
tạo cũng vậy thôi, cũng cần có một
ý niệm tối thiểu về
nó, xuất phát từ một sự
thôi thúc nội tâm, một
cảm hứng, hoặc do
một sự chiêm nghiệm,
nghiền ngẫm lại
những ý tưởng, kinh nghiệm, đã có từ trước
của mình, hoặc của người khác. Có thể nêu
lên ở đây một thí dụ để minh hoạ cho quy tắc
trên. Vào năm 1906, Braque đã từng tiết lộ :
« Những bức hoạ đầu tiên vẽ phong cảnh của
tôi ở Estaque (miền nam nước Pháp), thực ra
đã được tôi hình dung ở trong đầu ngay từ
trước khi xuống đó ».
Vì vậy, đi tìm
cái đẹp - hoặc nói
một cách chung hơn, để tránh mọi hiểu nhầm -
đi tìm một ý tưởng sáng
tạo, mà đôi khi không liên quan gì
đến cái đẹp thẩm mỹ, chính là đi tìm một ý
tưởng cụ thể, phù hợp với
quan niệm nghệ thuật của mình, ở một
thời điểm nhất định. Người hoạ sĩ
khẳng định phong cách
của mình, là khẳng định cái
quan niệm nghệ thuật
của mình ở vào thời điểm đó.
Nói như vậy, có nghĩa là :
khi săn tìm hay đeo đuổi cái ý tưởng nghệ
thuật rất chủ quan của mình (cái mà một
người hoạ sĩ cho là đẹp, là đúng, trên tác
phẩm của mình, đôi khi người khác lại cho là
cực kỳ xấu, hoặc cực kỳ lố lăng, điên khùng,
v.v. ), người hoạ sĩ cũng đồng thời săn tìm
một phong cách riêng cho mình.
Hoặc nói một cách khác, khi
khẳng định phong cách của mình, ở một thời
điểm nào đó, người hoạ sĩ cũng đồng thời
khẳng định những ý tưởng nghệ thuật của y
vào lúc đó.
Nói tóm lại,
đi tìm một ý tưởng sáng tạo
nghệ thuật, đồng
nghĩa với đi tìm phong
cách. Trong cái nghĩa đó,
phong cách là tất cả,
đối với người hoạ sĩ, cũng như đối
với người thưởng thức.
Những yếu tố tạo nên phong
cách
Tuy nhiên, không phải ở thời
nào, và trong bất cứ trường phái nghệ thuật
nào, phong cách cũng
đã đóng một vai trò quan trọng ngang nhau,
dựa trên những tiêu chuẩn giống như nhau.
Trong hội hoạ tượng hình ở
phương tây, nói chung, nhất là trong các nền
hội hoạ nguyên khai, phục hưng, cổ điển,
v.v., phân biệt phong cách của một hoạ sĩ
này với một hoạ sĩ khác không phải là dễ, vì
vào những thời kỳ đó, nghệ thuật chính thống
chủ yếu là để phục vụ những nhu cầu tôn
giáo, những đề tài thường chỉ xoay quanh
việc minh hoạ những truyện tích trong kinh
thánh để truyền bá đức tin, hoặc kể lại
những sự cố lịch sử, vẽ chân dung các nhân
vật quan trọng, v.v. Mặt khác, về mặt hình
thức diễn đạt, nó phải tuân thủ những quy
ước, tiêu chuẩn, rất khắt khe, chặt chẽ, mà
một trong những tiêu chuẩn là phải vẽ
giống như thật.
Nhích ra khỏi những quy ước đó, dù là trong
sự lựa chọn đề tài, hay trong quan niệm về
bố cục, về nét vẽ, về màu sắc, v.v., là bị
phê phán, hoặc bị loại trừ ngay.
Mặc dầu vậy, với một vốn hiểu
biết nghệ thuật tối thiểu, hậu thế vẫn có
thể nhận biết được dễ dàng phong cách của
một Giotto, với nét vẽ khoẻ mạnh, vững chắc
; một Botticheli, với vẻ đẹp thơ mộng, nhẹ
nhàng ; một Bruegel l'Ancien, với những bố
cục luôn luôn dày đặc, sinh động ; một
Greco, với những hình thể giàu nhịp điệu,
v.v.
Nhìn vào các trường phái hội
hoạ hiện đại ở phương tây, kể từ cuối thế kỷ
XIX đến nay, người ta nhận thấy rằng, ngoại
trừ những tác phẩm của nền hội hoạ kinh
viện, khô khan và nghèo bản sắc ra, phần lớn
các tác phẩm còn lưu lại được của các trường
phái hội hoạ hiện đại đều mang đậm cá tính.
Cùng một xu hướng dã thú đấy, nhưng tác phẩm
của Derain có phong cách khác hẳn với các
tác phẩm cùng xu hướng của Matisse, hay của
Vlaminck. Cùng trường phái lập thể đấy,
nhưng phong cách của Picasso khác với phong
cách của Braque, hay của Juan Gris. Trong
hội hoạ trừu tượng, sự khác nhau về phong
cách giữa các hoạ sĩ lại càng rõ rệt và dễ
nhận biết hơn nữa, vì ở đây
hình thức (cách diễn đạt) và
nội dung (ý tưởng
sáng tạo) của tác phẩm chỉ là một, chúng
cùng nói lên cái quan niệm
nghệ thuật của tác giả, đồng thời đó
cũng chính là cái phong
cách đặc thù của người hoạ sĩ.
 |
Mai Thứ,
Thiếu nữ bên cửa sổ,
tranh lụa (1942) |
Nhìn vào nền hội hoạ hiện đại
Việt Nam, kể từ khi có trường Cao đẳng Mỹ
thuật Đông Dương (1925), chúng ta sẽ không
ngạc nhiên thấy có rất ít hoạ sĩ có phong
cách rõ rệt. Điều này có những lý do sâu xa
của nó, như tôi đã có dịp trình bày trong
các bài viết về các hoạ sĩ của trường
CDMTĐD, trên Diễn Đàn cách đây vài năm, đặc
biệt DĐ số 57, 11-1996. Lý do thứ nhất là
cái mục đích đào tạo của trường này, thoạt
đầu không phải là để đào tạo các hoạ sĩ, mà
chỉ để đào tạo những thày giáo dạy vẽ cho
học trò các trường kỹ thuật, trường dạy nghề
và trường trung học phổ thông. Lý do thứ
hai, và điều này mới thật là quan trọng, là
các giáo sư của trường CĐMTĐD, từ Victor
Tardieu cho đến Inguimberty, đều là những
hoạ sĩ không có phong cách gì đặc biệt. Cả
hai đều không biết đến cả hội hoạ ấn tượng,
không nói gì đến các trường phái hiện đại
khác đương thời. Những hoạ sĩ Việt Nam đầu
tiên, sớm có được một phong cách độc đáo,
ngoài Nguyễn Phan Chánh, và Mai Thứ ra, ở
một mức độ khác, còn có Nguyễn Gia Trí,
chuyên về sơn mài. Lưu Văn Sìn lúc đầu đã
manh nha có được một phong cách với bức
tranh lụa Thiếu nữ ngồi
khâu lọng, nhưng sau này đã nhanh
chóng mất đi cái phong cách ấy trong các bức
tranh sơn dầu vẽ về nông thôn.
Phải thẳng thắn mà nhìn nhận
rằng, những hoạ sĩ có tên tuổi, như : Tô
Ngọc Vân, Lê Phổ, Lê Văn Đệ, Vũ Cao Đàm, Lê
Thị Lựu, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị, v.v.
(trong số này, cũng có những người có nét
vẽ, tay nghề cứng cỏi, cũng có trình độ lý
luận, như Tô Ngọc Vân, Lương Xuân Nhị, Trần
Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Văn Tỵ,
song, nói chung, hầu hết tất cả thế hệ hoạ
sĩ này đều không có phong cách gì đặc biệt
cả, kể cả những người đã có may mắn xuất
ngoại như Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu.
Phải chờ đến thế hệ Bùi Xuân Phái, Nguyễn
Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bich Liên, mới
có được những phong cách rõ rệt.
Cũng may, là trong các thế hệ
hoạ sĩ trẻ sau này, thuộc các thập niên
80-90, cũng có được những tài năng có cá
tính mạnh mẽ.
 |
Đinh Ý Nhi,
Bốn em bé gái
|
Trong hội hoạ tượng hình, tôi
nghĩ đến Đinh Ý Nhi, Đặng Xuân Hoà, Trần
Trọng Vũ, Hà Trí Hiếu, Hồng việt Dũng,
Nguyễn Thanh Bình,v.v. Nguyễn Quân, trong
thời kỳ vẽ những bức tranh sơn dầu có tính
chất siêu thực, khoảng những năm 90, đã có
những tác phẩm có phong cách độc đáo và chất
lượng thẩm mỹ cao. Cũng như Đỗ Phấn khi vẽ
những bức tranh giàu nhịp điệu vào những năm
70-80.
Trong hội hoạ trừu tượng, các
phong cách hiện nay còn khá lu mờ, khó phân
biệt, phần lớn đều vẽ tranh
ký hiệu, ít có tranh thể hiện cái đẹp
của nhịp điệu. Tuy
nhiên, cũng có thể kể một vài
tên tuổi, như : Đỗ Hoàng Tường,
Nguyễn Trung (trước đây vẽ tranh tượng
hình), v.v.
 |
Đặng Xuân Hoà,
Tĩnh vật (1993) Sơn
dầu |
Qua tất cả những thí dụ vừa
nêu ở trên, hoàn toàn không đầy đủ, vì chúng
ta chưa đề cập tới mảng hội hoạ cổ điển
phương đông, đặc biệt là nền hội hoạ cổ điển
Trung Quốc, trong đó yếu tố quan trọng nhất
tạo nên phong cách, là cái thần trong nét vẽ
và trong sự vật được thể hiện, chưa nói gì
là còn có những nền hội hoạ khác như : tranh
Phù thế Nhật Bản (Ukyo-E), những bức tiểu
hoạ Ba tư (Miniatures persannes), v.v.
Có thể nói rằng, nhìn chung,
trong hội hoạ ở phương tây, chỉ cần kể từ
nền hội hoạ nguyên khai (Primitifs flamands)
trở đi cho đến nền hội hoạ hiện đại,
khái niệm
phong cách đã có
những biến chuyển đáng kể cùng với thời
gian, và cùng với
 |
Hà Trí Hiếu, (1994) |
những yếu tố tạo nên nó.
Từ những yếu tố thẩm mỹ chủ yếu thuộc về
hình thức diễn đạt, giới hạn bởi những quy
ước gò bó của mỗi trường phái : bố cục, nét
vẽ, màu sắc, sự giống như thật, hay sự cách
điệu hoá, chúng đã trở thành những yếu tố vô
cùng phong phú và linh hoạt, do được giải
toả khỏi những quy ước. Thêm vào đó, còn có
những yếu tố mới, chỉ cần kể hai yếu tố quan
trọng nhất : ký hiệu
và nhịp điệu, hai
khái niệm mới, đã thật sự mở rộng chân trời
cho hội hoạ, nhất là hội hoạ trừu tượng.
Trong hội hoạ tượng hình, những yếu tố có
khả năng tạo nên phong cách, đôi khi nằm ở
ngay trong nội dung của một tác phẩm : tính
chất trào phúng, hài hước (trong tranh siêu
thực), tính chất thánh thiện (trong tranh
tôn giáo), tính chất bi phẫn, phê phán,
trong hội hoạ của trường phái biểu hiện,
tính chất thần bí trong các tác phẩm của
trường phái tượng trưng, v.v.
Phong cách và giá trị nghệ
thuật
 |
Francis Bacon, Etude
d'Henrietta Moraes riant (1969) |
Có
những hoạ sĩ khẳng định phong cách của mình
qua những tác phẩm
hoàn toàn không có gì là
« đẹp » cả, thậm chí không liên quan gì tới
cái đẹp ! Tôi nghĩ đến những bức hoạ của
Francis Bacon (1909-1992) và vô số những tác
phẩm của Picasso (1881-1973), thời kỳ ông vẽ
những bức chân dung bị bóp méo ! Phải hiểu
như thế nào về hai hiện tượng này ? Rõ ràng
Francis Bacon không săn tìm cái đẹp hình
thức, mà săn tìm những cái
ý, những chuyển động
nội tâm, đôi khi phức tạp, khó hiểu,
làm cho người ta nghĩ đến một trạng thái
bệnh hoạn. Riêng về những bức chân dung bị
bóp méo của Picasso, từ những bức đầu tiên,
thời kỳ những năm 1907-08, khi phong cách
lập thể vừa mới ra đời, với ảnh hưởng của
nghệ thuật điêu khắc Phi châu, tới những bức
 |
Picasso, La lecture (1972) |
hoạ vẽ vào
thập niên 70, có cả một khoảng cách về mặt
hình thức cũng như nội dung. Bức hoạ có tên
« an class="T1">La lecture »
(1971) kèm theo đây của Picasso khá tiêu
biểu, qua nó người ta có thể hiểu rằng hoạ
sĩ muốn khẳng định cái ý : hội hoạ không
nhất thiết phải là một cuộc săn tìm cái đẹp,
mà là một ngôn ngữ
tạo hình, có khả
năng chuyên chở những ý
tưởng sáng tạo, kể cả những
tìm tòi về chính cái
khả năng linh hoạt
của nó. Chúng ta biết rằng Picasso đã trải
qua nhiều thời kỳ, nhiều phong cách, trong
đời hoạt động nghệ thuật của ông. Tính sổ
đoạn trường, thì không biết đã có cái ý
tưởng nghệ thuật nào làm cho ông thoả mãn
chưa, vì cho tới cuối đời ông vẫn còn thay
đổi phong cách !
Xem như vậy,
ý tưởng sáng tạo của một hoạ sĩ thể
hiện trên một tác phẩm, không nhất thiết
phải là đẹp hay xấu, nhưng nó chính là hiện
thân của cái quan niệm nghệ
thuật mà y thiết tha thực hiện. Nó là
cái bản sắc của y, ở
đó người ta nhìn nhận ra được một
phong cách.
Do đó, không có
ý tưởng sáng tạo độc
đáo, tức không có phong
cách, thì không thể nào có tác phẩm
có giá trị nghệ thuật
được.
Diễn Đàn Forum số
155, 10.2005