Tính Sáng Tạo trong
Thi Ca
A.- Sáng Tạo và Tính Sáng Tạo :
a) Sáng tạo :
b) Tính Sáng tạo hay ‘Óc Sáng tạo’, ‘Sáng tạo tính’ nơi con người
c) Yếu tố phát huy, động viên Tính Sáng tạo
1) Năng khiếu hay Thiên tư, Thiên bẩm :
2) Di truyền của dòng họ :
3) Trí tuệ và Óc Thông Minh :
4) Tiềm thức, Vô thức, Trực giác , Ký ức, Cảm hứng :
5) Học hỏi :
6) Ðam mê và kiên trì :
7) Bức xúc của cảnh ngộ, môi trường :
8) Cô Ðơn :
9) TưởngTượng, Liên tưởng, Trừu Tượng hóa và Tổng Quát hóa :
10) Can đảm lội ngược dòng :
11) Sức khỏe, bịnh tật, giới phái, những chất kích thích:
12) Cơ hội May mắn:
- Tính Sáng
Tạo trong Thi Ca
A.- Sáng Tạo và Tính Sáng Tạo :
Trước tiên, xin thông qua
một số từ ngữ :
a) Sáng tạo :
Từ "Sáng Tạo" (tiếng Pháp : Créer, création)
thường được dùng trong Thần Học, Ðạo Học và Hữu Thể
học (ontologie, Philisophie de l’Être), có nghĩa
"làm cho
một thứ gì từ cái ‘Không gì cả’ (le rien) hay từ Hư
không (le néant) trở thành hiện hữu"
(acte
de donner l’existence, de tirer du néant – Dict. Le
Petit Robert). Rousseau bảo rằng : "Ý niệm
sáng tạo là ý niệm theo đó, người ta quan niệm
do một hành động đơn giản của Ý chí, cái ‘Không’ trở
thành một thứ gì hiện hữu"
(L’idée de création :
l’idée sous laquelle, on
conçoit que, par un simple
acte de volonté, rien devient quelque chose – Le
Petit Robert). Ðiều nầy đã trở thành thắc mắc của
Leibniz : Tại sao có thứ nầy thứ nọ mà
không là không gì cả ?" (Pourquoi y-a-t-il quelque chose
plutôt que rien ?).
Hiểu như thế , mọi thứ trong cõi thế gian tức vũ trụ
hiện tượng nầy đều do từ cái ‘Không’ mà ‘Có’ (có thể
hiểu đơn giản là từ ‘To Be' sang 'To have’, từ
‘Être' sang 'Avoir’ – To Be hay Être là cái ‘Không’,
cái nguyên sơ Tự hữu, To Have hay Avoir là cái Hiện
hữu). Các Tôn giáo độc thần quan niện một Thượng Ðế
sáng tao ra mọi sự, mọi vật. Thượng Ðế là cách gọi
chỉ trạng thái của cái ‘Không nguyên thủy’ đã
tư thân tác động với chính mình để ‘sáng tạo’ (sinh
thành) nên vũ trụ, kể cả loài người. Chỉ Thượng Ðế
mới có quyền năng sáng tạo đó, nghĩa là Thượng Ðế đã
‘tư hiện hữu hóa’ mình (nói cách khác là ‘tư sắc
tướng hóa, tư đối tượng hóa, tự vật chất hóa mình)
qua mọi thứ, từ đó sáng tạo nên mọi hiện hữu rồi cư
ngụ nơi từng hiện thể, từng sự vật. Phần cư ngụ đó
thường được gọi là ‘Thánh Linh’, cái ‘Tính Thượng
Ðế’ theo Ki-Tô giáo hay cái ‘Tâm’ theo Phật
giáo. Chính do sư cặp kè giữa ‘Không’ và ‘Có’ tác
động nhau mà có diễn tiến sinh hóa của vạn hữu và
nhân sinh, nghĩa là có Tiến Hóa Bên Ðông
phương, Lão Tử cũng quan niệm như vậy khi bảo "Hữu sinh ư Vô", cái Hữu sinh từ
cái Vô, có nghĩa cái VÔ ‘sáng tạo’ ra cái HỮU và khi
đã Hữu rồi thì Vô và Hữu cùng Sinh (Hữu Vô tương
sinh), nghĩa là tác động nhau để sinh sinh hóa
hóa liên tục. Phật giáo không nói đến Sáng Tạo,
không thừa nhận một hành động sáng tạo nào để sinh
thành cõi hiện hữu nhưng cơ sở nơi các từ "Không
– Sắc", "Chân không – Diệu hữu", thì
mọi hiện hữu cũng do từ cái Không mà Có, cái Sắc do
từ cái Không tự ‘sắc tướng hóa’, các Diệu hữu do từ
cái Chân không tự biểu thị mình ra hiện tượng, từ
đó ‘sáng tạo’ nên vũ trụ hiện tượng. (theo quan điểm
‘Chân Như duyên khởi’). Cái Không nơi Phật giáo là
cái ‘Như Lai thể’, cái ‘Bản lai vô ngã’, cái ‘Chân
Như thể’, cái ‘Thể tính chân như’ hay cái ‘Phật
tính, Phật tâm’, nói gọn là cái ‘Thể’ thường hằng
bất biến tự biểu thị ra Tướng và Dụng nơi mọi sự mọi
vật. Cái ‘Thể’ đó –người viết gọi là ‘Ðạo thể’,
triết học Tây phương gọi là ‘Être’, Tôn giáo độc
thần gọi là Thượng Ðế- là Nguồn gốc, là khởi nguyên
sinh thành (tức sáng tạo) nên cõi hiện hữu hay cõi
Thế gian. Cái Thể đó là một ‘huyền nhiệm’, bất khả
tư nghị mà ta chỉ có thể hình dung bằng ý niệm, bằng
một giả định của lý trí luận lý.
Theo Tôn giáo và các môn
học nói trên, từ "Sáng tạo" dùng chỉ hành động đặc
quyền của Thượng Ðế, của cái Không hay cái Vô nguyên
thỉ và hành động ‘Sáng tạo’ chỉ xảy ra một lần, một
lần duy nhất. Không một thứ gì, không một ai đã
hiện hữu rồi lại có thể sáng tạo được gì. Con người,
dù về mặt nào –khoa học, Triết lý, Chính trị, Kinh
tế, Văn học- cũng không thể ‘sáng tạo’ mà chỉ nghiên
cứu, tìm tòi để phát hiện, phát minh, sáng chế ra
thứ nầy thứ nọ có khác với những cái có trước hay
trước đấy chưa có hoặc chưa ai nghĩ ra.
b) Tính Sáng tạo
hay ‘Óc Sáng tạo’, ‘Sáng tạo
tính’ nơi con người (la créativité).
Tính Sáng tạo
hay Sáng tạo tính hay Óc Sáng tạo là
khả năng được xem là có tính chất sáng tạo trong mọi
công trình của con người đã tạo tác nên những gì
‘mới hơn’ so với những cái ‘cũ’ hoặc ‘mới mẻ’ vì
chưa có trước đấy. Ðấy là khuynh hướng, là ‘khả
năng’ của con người hướng về sáng tạo do thôi thúc
phát triển của trí tuệ trong mọi công trình khám phá
thiên nhiên cùng khám phá con người để mỗi hiểu
biết, mỗi việc làm, mỗi hành động, mỗi sự vụ giải
đáp và giải quyết cái sống của nhân sinh càng lúc
càng được nâng cao, được mở rộng, được phong phú,
tốt đẹp hơn. Chỉ riêng con người mới có Tính sáng
tạo hay ‘óc sáng tạo’ vì mọi sinh vật khác dù có
biết làm tổ, tích trữ lương thực như một số loài
chim, loài kiến, loài ong,…nhưng chúng chỉ có thể
làm một công việc duy nhất, không thay đổi, cải sửa,
theo bản năng chứ không có tính sáng tạo.
Nhưng, cần nói rõ, con người chỉ có
Tính Sáng tạo chứ không có quyền năng, không có hành
động sáng tạo. Sở dĩ con người không "sáng tạo"
được vì mọi công trình của con người không khởi đi
từ cái ‘Không’ mà khởi đi từ cái Hữu tức từ những
thứ, những chất liệu đã có. Do đó, mọi thứ do con
người sáng chế ra luôn luôn dựa vào một hệ thống qui
chiếu nào đấy hoặc cơ sở nơi thiên nhiên, nơi môi
trường xã hội, nơi lịch sử hay nơi những gì đã có
trước, chẳng hạn nơi những thành tựu, những kiến
thức đã được tích lũy qua lịch sử. Thuyết ‘Tương
đối giới hạn và tổng quát’, cái ‘Không gian
cong’, cái ‘chiều thứ tư – thời gian’
cùng biểu thức ‘e=mc2’ mở đầu cho một thời
đại khoa học mới cũng không là ‘sáng tạo’ của Albert
Einstein vì đều do ông học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi
thực tại cùng bao điều đã có trước đấy. Có thể nói,
công trình của A. Einstein cùng bao khoa học gia
cũng như bao nhà thông thái trước nay về bất cứ
ngành học nào dù về mặt lý thuyết hay thực tiễn
cũng không là ‘sáng tạo’ mà chỉ là những ‘phát kiến,
phát minh’. Tất cả đều khởi đi từ ‘nghiên cứu, tìm
tòi’ rồi tiến đến ‘phát minh, tạo tác’, nói theo
tiếng Pháp là từ ‘chercheur’ tiến đến ‘trouveur’.
Ðấy là cái Biết theo lối ‘tìm cầu’, cái Biết quy
hoạch, tính toán (pensée calculante). Cả giáo lý của
Thích Ca, Jésus cũng không là những ‘sáng tạo’ của
hai Ngài (ngoại trừ quan niệm Jésus là con độc sanh
của Thượng Ðế hay chính là Thượng Ðế) mà do cái Biết
bằng ‘thể nghiệm, chiêm nghiệm’ (pensée méditante)
mà hai Ngài đã ‘ngộ’ ra đường lối giải thoát, cứu
rỗi chúng sinh cùng lẽ Tiến hóa của vạn hữu và nhân
sinh tức Lẽ Ðạo.
Tóm lại, Tính Sáng tao nơi con người
được hiểu qua sự việc ‘phát kiến, phát minh, sáng
chế’ (trong Khoa học, Kỹ thuật), ‘thiết lập, thiết
dựng, hình thành’ một lý thuyết, một hệ thống tín
ngưỡng, một chủ nghĩa’ (trong Triết học, Tôn giáo,
Chính trị, Kinh tế), ‘sáng tác, trước tác’ một tác
phẩm (trong Văn học, Nghệ thuật). Thông thường, ta
thường dùng từ ‘Sáng tạo’ để chỉ những sự việc trên
nhưng thực ra đấy chỉ là mang Tính Sáng tạo, có tính
cách sáng tạo hơn là hành động sáng tạo. Từ ‘Sáng
tạo’ mà ta thường dùng , thực sự chỉ có nghĩa là
‘tạo tác’ tức sư việc hình thành, xây dựng, thể hiện
một thứ gì trước đó chưa có (action de faire,
d’organiser une chose qui n’existait pas encore – La
Petit Robert)
c) Yếu tố phát huy,
động viên Tính Sáng tạo (la créatique).
Cũng giống như mọi tính chất khác,
Tính Sáng tạo luôn có nơi con người. Thông thường,
do một nhu cầu nào đó hay do một khó khăn, trở ngại
trong hoạt động, con người thường nẩy sinh óc tìm
kiếm một công cụ, một phương thức nào đó để đáp ưng
hầu thỏa mãn nhu cầu hay khắc phục trở ngại. Một học
sinh ghi một công thức toán học nơi cửa ra vào hay
nơi bức tường đối diện với bàn làm việc hay giường
ngủ để lúc nào cũng nhìn thấy, từ đó được nhớ mãi,
được nhập tâm ; sự việc nầy ít nhiều cũng mang Tính
Sáng tạo’ vì biết vận dụng cái nhớ của thị giác
(mémoire visuelle) bổ túc cho trí nhớ của bộ óc.
Ở cấp cao hơn, Tính Sáng
tạo do đòi hỏi của tri thức, của tâm linh, cần thiết
một số phương cách, điều kiện, kỹ thuật để phơi mở,
phát huy..
Những yếu tố, phương cách khơi dẫn, động viên, phát
huy Tính Sáng Tạo, hay khả năng sáng tạo, có thể kể
ra như sau :
1) Năng khiếu
hay Thiên tư, Thiên bẩm :
Năng khiếu
hay Thiên tư, Thiên bẩm được xem là khuynh hướng
bẩm sinh nội tại nơi một số người, khiến cuộc sống
như được hướng dẫn theo một chiều hướng nhất định và
mọi hành động cùng việc làm đều tập trung vào việc
thể hiện năng khiếu đó.Ta thường nghe nói : năng
khiếu thi ca, năng khiếu nghệ thuật, năng khiếu khoa
học, năng khiếu quân sự,….Năng khiếu cũng là một
yếu tố tạo nên Nghiệp như Nghiệp nhà binh, nghiệp
nhà võ, nghiệp tu hành, nghiệp nhà thơ, nhà khoa
học,…Chúa Jésus, Ðức Phật cũng đã tạo Nghiệp Phật,
Nghiệp Chúa cho mình do từ cái Năng khiếu thiên phú
(ý tưởng cứu rỗi, giải thoát chúng sinh khỏi tội
lỗi, đau khổ). Năng khiếu thường được hiểu là do
được mặc nhiên ban cấp bỡi Thượng Ðế hay một Huyền
nhiệm, tiếng Pháp gọi là ‘inné’ trái với mọi thứ ta
được thụ hưởng bỡi môi trường hay bỡi công phu học
hỏi, tiếng Pháp gọi là ‘acquis’. Vì thế, không phải
ai cũng được phú cho ‘năng khiếu’. Người có năng
khiếu thường không nhiều.
Những người có sẵn năng
khiếu thường thể hiện tài năng rất sớm, nhiều khi
ngay từ thưở ấu thơ mà ta thường gọi là ‘thần
đồng’, hoặc những kẻ ‘sinh nhi tri chi’.
Có thể kể ra : Ở VN, Nguyễn Hiền 12 tuổi đã đỗ Trạng
Nguyên, Lê Quí Ðôn làm thơ từ 7 hay 10 tuổi (bài
‘Rắn đầu biếng học lẽ không tha’, người viết không
nhớ tên bài thơ), và những ai nữa, người viết không
được biết. Ở thế giới : Blaise Pascal, 16 tuổi viết
‘Luận thuyết vê hình chùy’ (traité des
coniques), 19 tuổi chế ra ‘máy tính số học’
(machine arithmétique) ; Albert Einstein 26 tuổi
phát minh ‘Lý thuyết tương đối giới hạn’
(théorie de relativité restreinte) ; Jean Piaget đã
nghiên cứu các loài nhuyễn thể (mollusques : ốc,
sò,…) từ lúc 10 tuổi và ấn hành các đề tài về các
loài nhuyễn thể nầy vào năm 15 tuổi ; một số đông
nhà Toán học như Gauss, Lagrange, Riemann,
Monge,…đã có những công trình lớn lao, mới lạ từ 16,
18, 19, 2O tuổi.. Về thi ca, Hội họa, Âm nhạc, cũng
nhiều thiên tài rất nhỏ tuổi như Mozart đã sáng tác
nhạc từ 7 tuổi, người mà A. Koestler đã bảo : "Với
một Mozart, có cả ba Pascal, ba Maxwell hay ba
Edison" (Pour un Mozart, il y a trois Pascal,
trois Maxwell ou trois Edison - A. Koestler : The
Act of Creation, trích dẫn bỡi Gabriel et Brigitte
Veraldi trong tác ^phẩm ‘Psychologie de la Création,
Coll. Marabout Sesvices, Belgique, 1973 ). Còn nhiều
nữa mà người viết không nhớ, không biết được hết..
Tuy nhiên, năng khiếu
nhiều khi không xuất hiện ngay vào lúc tuổi nhỏ mà
phải sau một thời gian dài sau nầy mới nẩy nở. Lúc
đó, năng khiếu càng được phong phú do tích lũy kinh
nghiệm, suy tư cùng học hỏi. Ðấy là trường hợp những
‘thiên tài nở muộn’ như :
-Những họa
phẩm danh tiếng
nhất của Bellini được tạo tác vào những năm 75, 77
và 83 tuổi ;
-Cervantès hoàn thành phần II của tác
phẩm Don
Quichotte vào lúc 68 tuổi ;
-Nhà Toán học Euler được
vinh danh tài năng vào năm ông 76 tuổi ;
-Rossini sáng tác nhạc
khúc lẫy lừng ‘Petite Messe solennelle’ lúc
72 tuổi ;
-Benjamin Franklin chế tạo
‘thấu kính hai tiêu điểm’ (lentilles à
double foyer) lúc 75 tuổi (xem Psychologie de la
Création, sđd, trang 84).
2) Di truyền của
dòng họ :
Dữ kiện di truyền thường do
huyết thống của dòng họ hay do nếp sống văn hóa qua
lịch sử một gia hệ, một dân tộc cũng hầu như mặc
nhiên hướng dẫn cuộc sống con người và cuộc sống
của cả dân tộc theo một chiều hướng khó lòng thay
đổi. Xin không nói đến tính cách di truyền do các di
thể (gènes) theo Di Truyền Học (la génétique) vì
người viết không mấy kiến thức. Dữ kiện di truyền
của dòng họ tuy không nhất thiết nhưng cũng góp phần
giúp cho Tính Sáng tạo nẩy sinh nơi một số người. Vì
thế, ta thấy nơi một số gia đình, nhiều thiên tài kế
tiếp nhau.
-Ở
Việt Nam, dòng họ Nguyễn Du bao đời đều lẫy lừng về
thi cử đỗ đạt, về Văn nghiệp. Không rõ có dòng họ
nào khác nữa không.
-Ở thế giới, có thể kể :
Dòng họ Dumas ở Pháp với hai cha con đều là nhà văn
nổi tiếng ; dòng họ Bertouilli với 3 thế hệ liên
tiếp đã cống hiến cho nhân loại bao nhà Toán học
thiên tài ; dòng họ Jussieu với 5 nhà Vạn vật học
danh tiếng ; dòng họ Huxley ở Anh qua bao thế hệ với
những nhà Sinh học, Văn học, Triết học ..Còn nhiều
nữa (xem Psychologie de la Crétion, sđd).. Có thể kể
dòng họ Kennedy ở Mỹ về mặt chính trị.
Cần để ý, do di truyền từ
huyết thống (tổ tiên, ông bà, cha mẹ), các thế hệ
sau đều được di truyền Óc Sáng tạo nhưng không nhất
thiết đều theo năng khiếu của cha ông. Có thể thế hệ
sau theo một khuynh hướng nào khác, trước khi trở
lại với khuynh hướng của dòng họ hoặc từ khuynh
hướng của dòng họ mà tẻ sang khuynh hướng khác nhưng
cũng rất nhiều khả năng sáng tạo.
3) Trí tuệ và Óc
Thông Minh :
Thông minh là sự sáng láng,
minh mẫn, là chức năng của bộ não giúp nhận biết,
phán đoán, suy luận, sớm nhận ra những liện hệ nội
tại, ngoại tại của sự vật, sự việc, từ đó sớm xoay
xở thoát vượt một cảnh ngộ khó khăn, sớm có những
phát minh, phát kiến, sáng chế khắc phục một tình
thế nan giải hoặc tìm ra những thứ gì mới mẻ. Trí
thông minh thường được hiểu là sự nhanh trí nắm bắt,
giải quyết một vấn đề khúc mắc, không cần suy nghĩ
lâu lắc. Trường hợp Lương Thế Vinh mới 10 hay 12
tuổi, do một người quăng một trái bòng xuống giếng
sâu, rồi đố lũ trẻ đứa nào đem được trái bòng lên,
đã biết bảo bọn trẻ đang chơi đùa với mình múc nước
đổ xuống chiếc giếng để trái bòng nổi lên. Những câu
đối tức thì của các nhà nho ngày trước, những câu hò
đối đáp giữa trai gái trong các hội hè đình đám cũng
là những cách nói lên sự nhanh trí tức tính cách
thông minh. Người ta thường đo trí thông minh giữa
người nầy người nọ hay giữa chủng tộc nầy với chủng
tộc khác bằng ‘thương số trí tuệ’
(Q.I=quotient intellectuel) tuy có tính cách khoa
học nhưng chưa hẳn đúng. Trí thông minh có thể xuất
hiện bất ngờ, đột xuất nhưng phần lớn do từ thiên
tư, từ di truyền của huyết thống dòng họ, do công
phu học hỏi, tìm tòi, do suy tư và kinh nghiệm được
tích lũy. Óc Thông minh cần cho Tính Sáng Tạo
trong các bộ môn Triết học, Khoa học, Chính trị,
Kinh tế và cả trong một số bộ môn Nghệ thuật nhưng
riêng về bộ môn thi ca thì hầu như không dự phần
quan trọng. Trí Thông minh cần thiết nhưng không hẳn
là điều kiện đầu tiên cho Tính Sáng tạo vì rất nhiều
người thông minh nhưng chẳng mấy có óc sáng tạo và
ngược lại (xem thêm nơi phần ‘Học hỏi’)
4) Tiềm thức, Vô thức,
Trực giác , Ký ức, Cảm hứng :
‘Tiềm thức’
(Subconscient)
có nghĩa là những
gì còn tiềm ẩn, chưa lộ liễu ra một cách rõ ràng nơi
hữu thức (conscience). Tiềm thức được xem là phần
đệm giữa Hữu thức và Vô thức. Những gì tồn
đọng nơi trí óc bỗng nhiên hiện về rõ ràng, minh thị
vào một lúc nào đó, ta gọi là từ Tiềm thức dậy lên.
Những gì nằm nơi Tiềm thức không phải là những thứ
hoàn toàn mới lạ, trước nay ta chưa có bao giờ mà
thường là những gì ta đã chứng kiến, thâu nhận, gặp
gỡ nhưng ta hoàn toàn không chú ý, quên đi một thời
gian dài, bỗng nhiên trở lại với ta do một trường
hợp nào đó. Chẳng hạn, Quan Dương, trong truyện ngắn
‘Oan gia khó thoát’ lúc nghe Lệ Hằng bảo ‘Anh
đang làm gì đó’, bỗng nhớ lại ngay lời cô quản
giáo trại tù đã xỉ vã, đe dọa anh, cũng đã nói như
thế, rồi cuốn phim dĩ vãng hiện ra rõ ràng nơi anh
(xem : ‘Ðợi khuya tàn bắt sống một chiêm bao’ của
Quan Dương tự xuất bản, USA, 2002). Thuyết Phân Tâm
học của Freud không nói gì về Tiềm thức.
‘Vô thức’
(inconscient, inconscience)
thật khó
định nghĩa. Có thể xem là một thế giới tự nội kín
nhiệm, u ẩn nào nơi ta, một thứ ‘bản ngã thứ hai’
u mật chi phối cuộc sống ta mà ta không ý thức được.
Thật khó có dữ kiện để chứng minh. Nó được cấu tạo
thế nào, ra sao, ta hoàn toàn không hiểu. Leibniz
công nhận có phần Vô thức nầy, xem đấy là những
‘thay đổi của tâm hồn mà chúng ta không nhìn thấy
được’ (changements
dans l’âme dont nous ne nous apercevons pas – trong
tác phẩm ‘Nouveaux Essais sur l’entendement humain’
(Pratique de la
Philosophie de A à Z, sđd). Nietzche cũng nhìn nhận
phần Vô thức nầy như thuộc phần siêu hình, khi bảo :
‘Một tư tưởng chỉ đến lúc nào tự nó muốn chứ
không phải vì ‘tôi muốn’…Một cái gì đó đã tư tưởng
nhưng nghĩ rằng ‘cái gì đó’ là ‘cái tôi xưa cũ thi
là hoàn toàn do ức
đoán’ (une pensée ne
vient que quand elle veut, et non pas quand c’est
moi qui veux ; de sorte que c’est une altération des
faits de prétendre que le sujet moi est la condition
de l’attribut ‘je pense’. Quelque chose pense, maiis
croire que ce quelque chose est l’antique et fameux
moi, c’est une pure supposition – trong ‘Par-delà le
bien et le mal’ - (Pratique de la Philosophie..,
sđd).
Sigmund Freud tìm cách định nghĩa và
tìm hiểu những cơ cấu của Vô thức. Theo ông, sinh
hoạt tâm lý con người trải qua ba tầng : vô thức,
tiền ý thức và ý thức (l’inconscient, le
préconscient et le conscient – thường ký hiệu : Ics,
Pcs, Cs). ‘Tiền ý thức’ không là ý thức nhưng có thể
trở nên ý thức và kết hợp vớ ý thức thành hệ thống
‘tiền ý thức – ý thức’. Vô thức không nằm trong hệ
thống đó, nó tuân theo những qui luật vận hành của
nó và là kết quả của những cấm kỵ (censur) và ức chế
(refoulement). Với quan điểm ba tầng ‘vô
thức, tiền ý thức, ý thức’, Freud cho rằng sinh
hoạt tâm lý được cấu tạo qua ba cấp : ‘cái đó, cái
tôi và cái ‘trên tôi’ (le çà, le moi et le surmoi),
tạm dịch sang tiếng Việt là : Bĩ ngã, Ngã và Siêu
ngã. [từ ‘le ça’ khó dịch sang Việt ngữ hay từ Hán
Việt – ngưòi viết xin tạm dịch là : cái ‘bĩ ngã’
(cái ‘ngã bên kia’, dựa theo ‘bĩ ngạn’ trong Kinh
sách Phật giáo), có thể hiểu Siêu ngã là cái ‘Ngã vô
ngã’ (le Moi-Non moi) tức không còn phân biệt chủ
thể-đối tượng, phần nào tương đương với từ ‘Tính
Không’ nơi Phật giáo theo lời Phật : ‘Bất trụ vô vi,
bất tận Hữu vi’ trong Kinh Duy Ma]. Cái ‘Le ça’,
theo Freud là phần xung lực vô thức kích động bỡi
khoái lạc ; cái ‘Tôi’ (cái Ngã) tìm cách thỏa mãn
những khoái lạc đó tiềm ẩn nơi Vô thức lúc cơ sở vào
một số dữ kiện thực tại nhưng không biết là
đã bị chi phối bỡi các ức chế của xã hội và gia đình
đã dồn nén từ lâu. Freud tạo nên môn Phân Tâm học để
chữa trị những chứng bệnh tâm thần từ khơi dậy cõi
vô thức tức những ẩn ức về dục tình từ lâu nằm sâu
kín nơi bệnh nhân. Giải thích ‘Vô thức’ có tính cách
khoa học nầy không được một số triết gia đồng ý. Nhà
triết Alain cho Vô thức là phần thú tính và bản
năng của con người, trong lúc J.P.Sartre
nghĩ đấy là phần ‘gian ý’ (la mauvaise foi)
nơi con người. Người viết nghĩ rằng ‘vô thức’ là
phần vô hình nằm sâu trong thần trí con người bao
gồm những khuynh hướng, tình cảm xấu và tốt (có thể
là những ẩn ức vì dục vọng không thỏa mãn, có thể là
khuynh hướng hướng thượng, những mộng ước xa xôi cao
đẹp) mà xã hội, thời đại không cung cấp được điều
kiện khả dĩ bộc lộ ra để thể hiện qua những cơn mê,
giấc mộng, những hành động, cuồng ngông, những ngôn
từ trái với lẽ thường thiên hạ để bị đánh giá là
cuồng ngông, lập dị hay viễn mộng, viễn mơ, hoang
tưởng
‘Vô thức’ có thể không
là nguồn kích thích óc sáng tạo trong Khoa học kỹ
thuât, Chính trị, Kinh tế nhưng lại cần thiết trong
‘sáng tạo’ nghệ thuật, thi ca. André Breton, người
sáng lập trường phái siêu thực (surréaliste) đã
viết : ‘’Thi sĩ chính là kẻ mộng mơ dứt khoát, kẻ
đã xé rách chiếc mặt nạ vô cảm của con người tĩnh
táo nơi mình để dành chỗ cho tiếng lời cao trọng
của Ðêm đen’’ (Le poète est bien ce rêveur
définitif, celui qui déchire son masque inexpressif
d’homme éveillé, pour laisser parler les grandes
voix de la Nuit – Trích dẫn bỡi Jean-Louis Joubert
trong ‘La Poésie’, édt Armand Colin,, Paris 1988).
‘Tiếng lời cao trọng của đêm đen’ chính là những gì
dậy lên từ tiềm thức, vô thức, từ những cơn mơ, giấc
mộng, từ những si dại cuồng điên.vì chỉ trong những
trường hợp đó, con người mới thực sự tự do, thực sự
ngay thẳng, lương thiện (honnête), nói theo trường
phái Siêu thực. Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng có thể là
những nhà thơ sống với cái Vô thức nhiều nhất nhưng
là cái Vô thức hướng thượng dù có bị dày vò, ẩn ức
vì bịnh tật và thiếu vắng tình yêu.
Trực giác
(intuition)
là sự bất chợt nhận thức được ngay,
không cần qua một hoat động nào của lý trí về
một đối tượng nào đó. Trực giác cũng khó lòng định
nghĩa, khó lòng nhận ra cơ cấu sản sinh ra nó.Theo
Kant, trực giác là sự việc một thứ gì xuất hiện ngay
cho ý thức ta, vì thế, chỉ có ‘trực giác hữu cảm’
(intuition sensible) chứ không có trực giác thuấn
trí tuệ (intuition intellectuelle) vì trực giác nầy
dành cho Thượng Ðế. Ngược lại, Bergson cho rằng trực
giác khác với trí tuệ, cho ta bắt gặp được tức thời
cái tuyệt đối, cái huyền nhiệm. Nó không do lý trí,
không do trí tuệ nhưng nó cho ta trực tiếp đi thẳng
vào trí tuệ, vào cái Biết cao sâu, tinh tế nhất mà
không qua suy tư, luận lý. Thường ngày, trực giác
cũng đến với chúng ta lúc chúng ta bất chợt nhận ra
một điều gì đó chẳng hạn như nhận ra người tình đang
phản bội mình ; trường hợp nầy, trực giác có thể xem
là một linh cảm. Cái linh cảm đó thường được thấy
nơi thi cả.
Ký ức
(mémoire) :
Ký ức tức trí nhớ là khả năng
phục hồi lại trong tâm trí những gì đã qua, những sự
việc, hình ảnh, những điều ta đã học hỏi, đã chứng
kiến, đã làm, tóm lại những gì trong quá khứ nay
‘sống’ lại trong ta. Những gì trong quá khứ được xem
là những kỷ niệm nếu có liên quan đến ta. Tất cả
những kỷ niệm, hình ảnh, sự việc đã xảy ra, lâu ngày
ta quên đi nhưng lưu dấu lại trong trí nhớ nghĩa là
ta nhớ lại, thấy lại, hình dung lại. Những điều do
ký ức nhắc lại đó cần thiết cho các nhà văn, nhà thơ
viết thể loại hồi ký. Có ký ức cá nhân, có ký ức tập
thể tức ký ức của một số đông người hay của cả một
dân tộc về một giai đoạn vinh quang hay tăm tối của
đất nước, về một phong cách truyền thống (lễ giáo,
phong tục, tập quán,…) của giống nòi, tuy có quên
nhưng luôn luôn được gìn giữ nơi tiềm thức. Có một
Ký ức lớn lao hơn là ‘ký ức về Nguồn Cội’ luôn luôn
tiềm tại nơi tâm thức mà bình thường chúng ta không
để ý. Ðấy là ký ức trở về Nguồn để hồi phục cái Ðạo
thể, cái Tâm Chân Như, cái Nguồn gốc khởi thủy,
triết học gọi là ‘nỗi hoài hương Hằng thể’
(la nostalgie de l’Être) hay sự ‘trở về Cố quận’
(retour au sol natal) mà Cổ Hy Lạp gọi là ‘Ðại Ký
ức’ và mượn tên Nữ thần Mnémosyne để gọi. Ký ức cũng
là một yếu tố đóng góp cho óc sáng tạo vì hồi tưởng
lại chuyện ngày qua gợi lên trong ta những cảm xúc,
những ý tưởng mới mẻ giúp cho mọi sáng tác thêm
phong phú.
Cảm Hứng (Inspiration):
thường phiên âm là ‘yên sĩ phi lý
thuần’. Khó lòng định nghĩa cùng tìm hiểu cơ cấu sản
sinh ra nó. Nhiều người quan niệm đấy là một ơn huệ
(grâce), một tặng phẩm của Thượng Ðế (don de Dieu)
như Platon, Ronsard, Du Bellay, Boileau và trường
phái lãng mạn. Một số khác quan niệm Cảm hứng là một
kinh nghiệm của cuộc sống (expérience existentielle)
như Diderot, Beaudelaire, tuy nhiên giữa họ vẫn
nhiều khi lẫn lộn xem Cảm hứng vừa là thứ ‘bẫm sinh’
(inné) vừa là thứ được ‘thủ đắc’ (acquis) từ trường
đời. Không dài dòng nêu ra những luận cứ khác nhau
vì thực ra mọi nhận định đều chưa thể xác định cảm
hứng là gì, đến vào lúc nào và do đâu. Cảm hứng
thường chỉ xuất hiện nơi những người làm Văn học
Nghệ thuật. Ðối với những bộ môn Khoa học, Chính
trị, Kinh tế,…,cảm hứng thưòng là nỗi xúc động vui
mừng lớn lao trước một thành công không ngờ, gây
phấn khởi để tiếp tục công trình đến trọn vẹn hay
phát triển theo những hướng mới xa rộng hơn. Trong
Văn học Nghệ thuật, cảm hứng thường là nguồn động
viên hữu hiệu cho sáng tác để có những công trình
bất ngờ mang Tính Sáng tạo cao.
Qua quá trình trước tác của mình,
người viết tạm hiểu : ‘Cảm hứng là trạng thái
rung động bất chợt của thần trí trước một đối tượng
nào đó, vào một lúc nào đó gây cho ta niềm phấn
khởi, khoái hoạt hoặc bồng bột hoặc mênh mang làm
dậy nên những xúc cảm, những ý tình mới lạ, từ đó
có được những vần thơ hay, những câu văn, những đoạn
văn đẹp, những tác phẩm mang tính sáng tạo’.Ðối
tượng mà ta bắt gặp có thể không mới lạ gì như một
chiếc lá rơi, một chiều thu lạnh, một sáng mai
trong, một bình minh nơi bãi bể, một áng mây lưng
trời, một nụ cười, khóe mắt của giai nhân, một lời
than, tiếng khóc của cha mẹ, cụ già, bé thơ, một
cảnh khổ của bé mồ côi, của người tàn tật,…
nhưng lại bất chợt làm dậy lên nơi ta những xúc cảm
đưa dẫn tình ý ta đi xa. Chẳng hạn nhìn một bữa cơm
quá tệ, không vui của một gia đình nghèo khổ, bỗng
nhiên ta hình dung cảnh đầm ấm, yên vui của mọi
người ‘không có bữa cơm nghèo cũng không có cái
nghèo của bữa cơm’. Bài ’Tình tuyệt vọng’
của Arvers (sonnet d’Arvers) nẩy sinh do từ
phiền muộn không dám tỏ tình với người đẹp cao sang.
Một cơn say chếnh choáng, một nhà thơ đã hứng khởi
làm nên những bài thơ tuyệt diệu như Lý Bạch trong
những bài ‘Tương tiến tửu, Thanh bình điệu’.
Oamar-Khayyam (nhà toán học, Thiên văn học, Triết
học và nhà thơ nổi tiếng của Ba Tư), sáng sớm đã
thèm rượu, tự ví mình với nước và gió ‘I came
like Water and like Wind I go’(Tôi đã đến như
nước và đi như gió). Có thể mượn lời thơ của P.
Valéry chứng minh điều nói trên :
-Viendra
l’heureuse surprise
Une colombe,
la brise,
L’ébranlement le plus doux,
Une femme qui
s’appuie,
Feront tomber
cette pluie
Où l’on se
jette à genoux !
(Sẽ đến một bất ngờ kiều diễm, Một
cô bồ câu, một làn gió thoảng, Một xuyến xao ấm êm
kín nhiệm, Một bà tựa cửa đứng nhìn lơ đãng, Làm đổ
một trận mưa rào, Mà ta quỳ xuống tắm mình trân
trọng – trích dẫm bỡi Jean-Louis Joubert trong ‘La
Poésie’, édt. Armand Colin, Paris 1988).
. Cảm hứng cũng có thể bất
ngờ xuất hiện nhân tình cờ ta lẩm nhẩm đươc một phát
biểu nào đó hay hay khiến ta thích thú rồi trong
hứng khởi, ta tiếp tục những câu kế tiếp, nhiều khi
không cần để ý đến ý tứ, mà lại thành một bài thơ
diễm lệ. Ðiều nầy, Paul Valéry đã nói : ‘Thần
thánh duyên dáng kiều diễm chẳng cho ta được gi nơi
câu thơ đầu ; chính do ta uốn nắn câu thơ sau phải
thuậm âm với câu trước và tỏ ra xứng đáng với người
anh trưởng siêu nhiên của nó..’ (Les dieux,
grâcieusement, nous donnent pour rien tel
premier vers ; c’est à nous de façonner le second,
qui doit consonner avec l’autre, et ne pas être
indigne de son ainé surnaturel – xem La Poésie, sđd,
trang 48) .
Những nguồn cung cấp chất liệu cho
cảm hứng là thiên nhiên, người đẹp, tuổi nhỏ, giấc
mơ, tính mơ mộng , cuộc sống, cuộc đời cùng tất cả
những yếu tố khích động Tính Sáng tạo được nói trong
bài nầy. Tuy nhiên, những chất liệu đó không rõ đã
được kết tập ra sao, diễn tiến thế nào để tạo nên
cảm hứng xuất hiện bất thần. Cảm hứng là cái
gì tự nó đến, không hẳn do động cơ nào sai bảo cũng
không do một chuẩn bị gì của ta, cũng không chờ mong
nó đến. Ðôi lúc, cảm hứng đến bất ngờ nhưng đọng lại
lâu vì ta được hứng khởi, khích động bỡi nó nên tập
trung thần trí hoàn tất được một tác phẩm dài hơi,
nhất là trong sáng tác truyện ngắn, truyện dài.
Nhưng thường, Cảm hứng đến bất ngờ rồi ra đi cũng
bất ngờ -nhất là với nhà thơ-, nếu chúng ta không
nắm bắt được nó ngay làm nguồn phấn khởi cho sáng
tác.
5) Học hỏi :
Sự việc tiếp xúc, trao đổi với nhiều người, sự học
hỏi qua sách báo xưa và nay hay qua các cơ quan
truyền thông cũng giúp khá nhiều cho Tính Sáng Tạo.
Do học hỏi, ta thu nhận được những kiến thức, hiểu
biết cùng kinh nghiệm của bao người, từ đó ta có
được những nền tảng giúp tăng trưởng Tính Sáng Tạo,
từ đó ta có những phát hiện, phát minh, sáng chế ra
những thứ mới lạ. Hầu như không một thành tựu
sáng giá nào của con người không qua công phu học
hỏi. Những kiến thức, hiểu biết tích lũy qua học hỏi
sẽ là nền tảng, cơ sở giúp ta tiến hành vững vàng
mọi công trình và thêm tin tưởng vào những gì
mang tính Sáng tạo của ta. Và dù có quên thì những
kiến thức đó cũng có thể bất ngờ xuất hiện lại từng
lúc nơi ký ức như từ một cõi sa mù nào đột nhiên trở
về kích thích óc Sáng tạo. Ngày nay, các nhà Khoa
học, Chính trị, Kinh tế, Kỹ thuật,…đều thường phải
qua các Trường Ðại học hay các trường dạy nghề ở cấp
độ cao. Cả các bộ môn nghệ thuật cũng thế. Ngay cả
Thi Ca, tuy không qua một trường học nào nhưng người
sáng tác thi ca cũng phải học hỏi để biết rõ
luật thơ, các thể loại thơ, cách sử dụng ngôn ngữ
thế nào cho văn hoa, bóng bẩy, điêu luyện, ngay cả
việc đọc và thuộc thơ của nhiều người để từ đó có
được những cảm hứng mới lạ và cách hành văn trau
chuốt, phong phú, đồng thời học hỏi các bộ môn khác
để thi ca sáng tác theo kịp thời đại và có thêm ý
mới phong phú.Tại Việt Nam, lắm người, nhất là giới
nghệ sĩ, lúc tài năng đạt được đôi thành tựu, được
nổi tiếng, lại chỉ lo kiếm sống, không chịu học hỏi
thêm nên khả năng sáng tạo ngừng lại, không được
thêm những thành tựu đáng kể khác.
Tuy nhiên, cũng như Trí Thông Minh,
sự Học hỏi không là điều kiện cần và đủ giúp cho
Tính Sáng tạo phát triển vì rất nhiều người đạt được
trình độ học hỏi cao, tốt nghiệp tại nhiều Ðại Học
lớn và danh tiếng nhưng chẳng có mấy công trình mang
Tính Sáng tạo. Chẳng hạn như một Karl Witte, vào Ðại
học Leipzig lúc 9 tuổi, đỗ Tiến sĩ Triết năm 14
tuổi, Tiến sĩ Luật khoa năm 16 tuổi và trở thành
Giáo sư Ðại Học Bá Linh ở số tuổi đó và theo trắc
nghiệm của Terman, ‘thương số thông minh’ của Karl
Witte là 180, như thế ông ta quả là đệ nhất thông
minh rồi nhưng lại không có một công trình nào mang
tính Sáng tạo để được là thiên tài (Psychologie de
le Création – sđd). Ở Việt Nam, một Nguyễn Mạnh
Tường, 21 tuổi đỗ hai bằng Tiến sĩ nhưng cũng không
có công trình nào gọi là Sáng tạo. Nhất là
trong thi ca, rất nhiều nhà thơ lớn chẳng có một
trình độ học vấn nào cao cấp cả.
6)
Ðam mê và kiên trì :
Ðam mê là trạng
thái của tình cảm hay của trí tuệ chuyên chú, say
mê vào một vấn đề, một đối tượng nào đó khiến ta
tập trung hết mọi khả năng thần trí (concentration
d’esprit) của ta để săn đuổi đến kỳ cùng hầu sao cho
bắt gặp được để thỏa mãn một sở thích hay một ước
nguyện nơi ta như Ðam mê săn bắn, đam mê nghiên cứu,
đam mê sáng tác, đam mê làm giàu, đam mê đọc sách,
đam mê thể thao,… Ðam mê kích thích rất nhiều tính
Sáng tạo vì khiến ta từ bỏ mọi thứ khác để chỉ
chuyên chú vào một hướng đi, một việc làm nhất định,
do đó ta vận dụng hết mọi năng lực tập trung thực
hiện hướng đi đó. Và mỗi thành tựu lại càng kích
thích đam mê giúp tính Sáng tạo thêm điều kiện phát
triển. Do Ðam mê mà ta ‘chung thủy’, kiên trì với
việc làm, với khuynh hướng của ta. Dù có năng khiếu
mà thiếu đam mê thì năng khiếu đó sẽ bị ngưng đọng,
bị thui chột, không thể giúp cho óc Sáng tạo tăng
tiến. Sự kiên trì trong đam mê là điều kiện cho
những thành tựu lớn. Khổng Minh bảo ‘Mỹ hữu kham,
kham hữu mỹ’ và M. Heidegger cũng bảo ‘Trong
kiên trì,chín mùi sự vinh quang’ (Dans la
patience, murit la grandeur – bản dịch Pháp ngữ của
André Préau, trong ‘Questions III, Gall. Paris 1989,
trang 31).
7) Bức xúc của cảnh
ngộ, môi trường :
Khả năng sáng tạo cũng có
thể bất ngờ xuất hiện do bức xúc của cảnh ngộ, môi
trường, từ đó ta bất ngờ nghĩ và tìm ra một cách
thế, một phương pháp, một sáng kiến mới đê thoát
vượt bức xúc đó hoặc thay đổi khuynh hướng của ta
sang một ngã khác hay nói lên lên những bức xúc, khổ
đau đã phải chịu đựng một cách tinh tế. Ðiều nầy,
người bình thường cũng thường trải qua như thay đổi
việc làm, nghề nghiệp, môi trường sinh sống, chuyển
đổi ngành học,…Trường hợp cô Dương Như Nguyện, lúc
qua Mỹ, theo học nghành Báo chí và truyền thông
nhưng vì thấy bao người, nhất là người VN tỵ nạn
Cộng sản, vì không hiểu pháp luật mà phải chịu bao
oan ức nên cô bỏ nghành báo chí chuyển sang nghành
Luật và trở thành vị Chánh án nữ đầu tiên người Việt
tại Hoa Kỳ (hiện Cô đang là Giáo sư Luật học tại Ðại
học Denver. Cô còn viết văn và nghiên cứu về Văn
học, do sở thích nhưng có thể phần lớn do từ di
truyền của Cha và mẹ cô). Bao nhiêu người do bức xúc
của cảnh ngộ, do bị điêu đứng về cuộc sống, đã có
những công trình sáng giá, mang tính sáng tạo mà
trước đấy họ không có hoặc những công trình của họ
vượt hẳn những gì đã có lâu nay. Một Nguyễn Chí
Thiện, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Huy Thiệp, Dương
Thu Hương, Ðỗ Thị Hoàng Diệu,…và bao nhiêu nhà thơ,
nhà văn VN hải ngoại như Phương Triều, Song Nhị,
Phương Hà, Ðỗ Bình, Cao Tần, Thụy Khanh,….,do khốn
khổ, đọa đày bởi chế độ Cộng sản đã làm thơ, làm văn
nói lên những thảm họa của mình cùng của dân nước,
đã cống hiến nhiều sáng tác phẩm giá trị và trở
thành những nhân vật tên tuổi trên văn đàn. Phần lớn
những thiên tài trước nay đã do phấn đấu vượt thoát
hay phải chịu đựng cảnh đời tối tăm, thiếu thốn mà
thành tựu nhiều công trình sáng giá để trở thành
thiên tài về một phương diện nào đó. Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Ðinh Hùng,
Bùi Giáng,…chẳng hạn.
8) Cô Ðơn :
Cô đơn khác với cô độc, đơn độc.
Cô độc, đơn độc là tình trạng một thân một mình,
không nương tựa ai, không cậy nhờ ai, cũng không có
ai tiếp xúc, giúp đỡ mình hay trong tình trạng bị
mọi người ruồng bỏ, phải sống cảnh bơ vơ
(abandonné) ; cũng có thể là sở thích ưa xa lánh, tự
tách mình khỏi mọi giao du, tiếp xúc đê tránh mọi
phiền nhiễu, thích thú được sống với riêng mình. Cô
đơn, ngược lại, vẫn sống hòa đồng cùng xã hội, trong
mọi giao liên, tiếp xúc nhưng cảm thấy không đồng
tình, đồng điệu, không thông cảm, thông giao do một
khuynh hướng, một nỗi niềm nào đó mà mọi người thiên
hạ không chấp thuận, không thể đồng quan điểm, không
thể cùng chia sẻ, hợp tác hoặc có thông cảm nhưng
không thể cùng đồng hành trong chung một hướng đi,
chung một quan niệm, một việc làm. Do đó thường tách
mình khỏi mọi chung đụng, tự tạo một thế giới cho
riêng mình, sống với cái tâm thức khép kín, sống với
nỗi buồn đau, tư lự trong tâm tư hoặc để trầm tư,
suy nghiệm hướng vọng về một toàn chân, toàn bích
nào đó từ lâu nuôi dưỡng. Trần Tế Xương đã diễn tả
nỗi cô đơn của ông trong một bài đường luật khá
hay :
Một mình đứng
giữa quảng trơ vơ
Biết có ai chăng để đợi chờ
Nước biếc non xanh coi vắng vẻ
Kẻ đi người lại dáng bơ vơ
Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt,
Ðợi nước càng thêm tóc bạc phơ
Ðường đất xa khơi ai mách bảo?
Biết đâu mà ngóng đến
bao giờ?
( Lạc đường)
Trong cuộc sống, con người thường trải chịu bốn cô
đơn : cô đơn trong cuộc sống (không người thân
thích, không nơi ăn, chốn ở, không việc làm, nghèo
đói, bơ vơ, bị hất hủi,..), cô đơn trong tình cảm
(không người yêu, không được chia sẻ nỗi niềm, thiếu
một tri âm, tri kỷ..), cô đơn trong chí hướng (không
người đồng tâm, đồng chí, đồng hành), cô đơn trong
tư tưởng (không ai cùng nhìn ra quan điểm, tư tưởng
của mình). Ba cô đơn đầu sớm muộn có thể vượt qua
hay quên đi ; riêng cô đơn về tư tưởng thì miên
viễn, trường kỳ và cũng không thể quên vì tư tưởng
đi trước thời đại, khó có một ai tán đồng mà còn bác
bỏ, cho là không tưởng, khùng điên, lập dị.
Ðấy là cái cô đơn của một Thích Ca thắc mắc về lý do
‘cuộc đời bể khổ’ đã phải cam chịu ‘bất hiếu’ (rời
bỏ cha mẹ), ‘bất nghĩa’(rời bỏ vợ con), ‘bất trung’
(rời bỏ dân nước) để lặn lội lên rừng tìm Ðạo giải
thoát cho thế gian. Sau khi đắc đạo, trở lại với thế
gian, Ngài vẫn cô đơn giữa đệ tử mình cùng mọi người
thiên hạ vì thế nên đã phải dùng lối ‘biện chứng bát
nhã’ để thuyết pháp và trước khi tịch diệt đã ngậm
ngùi ’suốt bao năm ta có nói lời gì’.
Ðấy là cái cô đơn của một Jésus, biết trưóc ‘con
cáo có hang, chim trời có tổ ; song Con người không
có chỗ mà gối đầu’ (Ma : 8 :20) và nói rõ
‘Tiên tri (nơi đây xin
hiểu là nhà tư tưởng) chỉ bị trong xứ mình và người
nhà mình khinh dễ mà thôi’(Ma
13 : 57), cô đơn ngay giữa thời đại, ngay giữa gia
đình và môn đồ và cả những thế hệ về sau nên đã
phải ngậm ngùi’Nếu các ngươi là kẻ mù thì không
có tội lỗi chi hết ; nhưng vì các ngươi nói rằng :
Chúng ta thấy nên tội lỗi các ngươi vẫn còn’
(Jean : 8-41) vì cái ‘thấy’ của người đời thường
khác với cái ‘thấy’ của nhà tư tưởng, của nhà tiên
tri.
Ðấy là cái cô đơn của một Nguyễn Du, kẻ ‘Thiên
tuế trường ưu vị tử tiền’ (trước khi chết còn lo
nghĩ chuyện nghìn sau – câu thơ tiếng Hán của ND
trong bài ‘Mộ Xuân cảm hứng), con người ‘Nhỡn để
phù vân khan thế sự, Yêu gian trường kiếm quải thu
phong’ để ‘Vô ngôn độc đối đình tiền trúc’
mà luôn nghĩ đến cảnh ‘Sương tuyết tiêu thời
hợp hóa long’(3). Cái tư tưởng và tâm chí đó ám
ảnh mãi Nguyễn Du. Cảm nhận ra được diễn tiến nhân
sinh nhưng không biết cách nào giảng giải và không
rõ thời điểm nào diễn ra ‘thời hợp hóa long’,
cho mãi đến lúc đọc ‘Kim Vân Kiều truyện’ của Thanh
Tâm tài nhân, thấy kết cục của câu chuyện đáp ứng
được tư tưởng mình nên đã phóng tác thành một tác
phẩm tư tưởng bất hủ và đặt tên tác phẩm mình là
‘Ðoạn trường tân thanh’ (tiếng kêu mới về đau
khổ, có nghĩa cái nhìn mới, cái ý nghĩa mới của đau
khổ).
Ðấy là cái cô đơn của một Tản Ðà, nhìn giấc mộng
con, mộng lớn tan thành mây khói, đã mượn người ả
đào, tạm xem là tri kỷ để gởi gắm niềm cô đơn :
-Ðời đáng chán
hay không đáng chán
Cất chén
quỳnh riêng hỏi bạn tri âm !
Ðấy cũng có thể là cái cô đơn của một Bùi Giáng sau
khi trình bày hết mọi phù du thế tục, đã kết luận là
‘nói gì thêm nữa cũng là sai’ mà hãy nhìn Mùa Xuân
phía trước đang đón chờ nhân thế bước vào :
…Xin đừng, nói nữa là sai
Mùa Xuân đang đợi bước ai đi vào.
Chào nguyên xuân (Mưa
Nguồn)
Cũng có thể đấy là cái cô đơn của Thượng Ðế đã phải
chịu ‘tự phân ly mình’, tự ‘đối tượng hóa’ mình để
có thể hiểu về mình :
Hỡi Thượng
Ðế, u sầu chi quá đổi
Chẻ chia mình để giải tỏa cô đơn
Tự chứng quả giữa dòng đời trôi nổi
Ði tìm yêu trong đáy thẳm tình buồn…
N.T.
Hầu như tất cả các bậc thiên tài đều cô đơn nhưng ba
cái cô đơn về cuộc sống, về tình cảm, về chí hướng
sự nghiệp đều có thể vượt qua. Ngày nay, những kẻ có
tài đều được xã hội văn minh bảo bọc, nuôi dưỡng và
tạo điều kiện giúp phát triển tài năng cùng óc sáng
tạo. Riêng cái cô đơn về tư tưởng thì không có cách
nào để thoát khỏi ; cái ‘Tính Sáng tạo’ của nhà tư
tưởng khó lòng đương thời và cả nhiều thế hệ về sau
nhìn ra mà phải chờ diễn tiến lịch sử về lâu về dài
mới có thể hiện bày, minh thị.
Trong tất cả mọi bộ môn học thuật thì Nghệ thuật,
nhất là Thi Ca dễ đưa con người vào Cô đơn tư tưởng
nhất. Ðiều nầy do từ ngôn ngữ thi ca, thứ ngôn ngữ
dễ gần với tư tưởng, với Lẽ Ðạo nhất (xin nói sau).
Mà Lẽ Ðạo và Thi Ca là những thứ vô bổ đối cuộc sống
thường nhật, chẳng có công dụng thực tế nào vì chẳng
thêm cho nhân loại một thứ của cải nào, chẳng tạo
cho con người một lợi tức nào, cũng chẳng là phượng
tiện truyền thông hữu hiệu, chẳng đem lại một kiến
thức mới mẻ nào giúp cho tiến bộ, văn minh, chẳng
giúp giải quyết được gì mọi sự vụ thế gian, cũng
chẳng dùng để giải trí, vui chơi ; ngay cả không
nuôi nổi người làm thơ. Vì thế, càng thiên về thi ca
càng dễ rơi vào cô đơn, thứ cô đơn tư tưởng đối với
những nhà thơ lớn.
6) TưởngTượng, Liên tưởng, Trừu Tượng hóa và Tổng
Quát hóa :
Tưởng tượng, trong ý nghĩa
sáng tạo là khả năng biểu thị thực tại bằng những
hình ảnh (image) không hoặc chưa có trong thực tại,
một thực tại vắng bóng, một thực tại chưa hiện hữu,
nói theo G. Bachelard là một ‘thực tại hư ảo’
(irréel), một khả năng đưa dẫn thần trí ta đến một
cái gì bên kia dữ kiện thực tại, đến một thế giới
bên kia thế giới biểu kiến (monde des apparences),
đến những gì chưa có, ‘đến những gì đã qua, chưa
tới cùng tính cách khả thể của những thứ đó’
(faculté que nous avons d’aller au-delà du donné, de
penser l’absent, le passé, le futur, et le possible
– Pratique de la Philosophie de A à Z, Hatier, Paris
1994). Óc tưởng tượng nhiều khi đưa ta tiếp xúc với
một thế giới siêu nhiên, chập chờn những hình ảnh,
những sự việc sẽ xảy đến và ta như đang với bắt,
hướng về. Óc tưởng tượng, trong những trường hợp đó
được xem như một linh khiếu, một ‘năng
khiếu linh thị’ (don visionnaire). Năng khiếu
linh thị nầy thường thấy nơi những nhà tư tưởng lớn
như một Jésus, một số thiền sư, một số nhà Ðạo học,
Thần học, một số nhà văn, nhà thơ lớn như Tagore,
Rilke, Tralk, Holderlin, Kalil Gibran,..Ở Việt Nam,
có thể kể Nguyễn Du, Ðinh Hùng, Bùi Giáng,…Victor
Hugo đã nói : .
Le poète en des jours impies
Vient préparer des jours meilleurs
Il est l’homme des utopies
Les pieds ici, les yeux ailleurs
En tout temps, pareil aux prophètes
Victor Hugo (La Fonction du poète)
(Trong tháng
ngày vô luân, nghịch bướng, Thi nhân sửa soạn chuỗi
ngày đep sáng, Gã là kẻ nôn nao ắp đầy ảo tưởng,
Chân nơi đây, cặp mắt nơi kia, Như những tiên tri
trong mọi thời, linh đoán) .
Thượng Ðế, Bản lai vô ngã, Thiên đường, Ðịa ngục,
Nghiệp báo, Luân hồi nhìn chung đều là những hình
ảnh tưởng tượng nhằm dụng ý nói lên Nguồn gốc sáng
tạo, cảnh sống tươi vui mai nầy hay những trừng phạt
phải gánh chịu do việc làm thiện ác của con người
trong cuộc sống, cuộc đời. Tưởng tượng rất cần thiết
trong Nghệ thuật. Beaudelaire bảo : "Trái
tim chứa đựng đam mê, trái tim chứa đựng sự hy sinh,
tội ác ; chỉ riêng tưởng tượng chứa đựng thi ca"
(Le cœur contient la passion, le cœur contient le
dévouement, le crime ; l’imagination seule contient
la poésie – Notes sur la poésie, trích dẫn bỡi
Pierre Seghers trong ‘Le Livre d’Or de la Poésie
française des Origines à 1940’, Coll. Marabout,
1972, trang 210). Những truyện, những phim giả
tưởng, những tranh hoạt họa (dessins animés), những
thơ truyện ngụ ngôn (fables), những tranh ảnh lập
thể (cubisme) tiêu biểu cho óc tưởng tượng nầy. Các
truờng phái Văn học Nghệ thuật lãng mạn, siêu thực,
tượng trưng nhiều óc tưởng tượng hơn là các truờng
phái tự nhiên hoặc hiện thực. Do tưởng tượng mà
trong Văn học có cách ‘hư cấu’ hoặc sự việc hoặc
nhân vât, tâm lý, cảnh trí,..., ngay cả trong những
tiểu thuyết lịch sử.
Nhà khoa học lúc nêu lên
những ‘giả thuyết’, mặc nhiên cũng đã sử dụng óc
tưởng tượng để sau đó chứng minh trước khi hình
thành một định luật, một biểu thức toán học.
‘Trừu tượng hóa’
(abstraire, abstraction) là chỉ chú mục vào một
thành phần riêng biệt của một hiện tượng, một khái
niệm (notion) để từ đó tìm ra những nét đặc thù đưa
đến liên tưởng những sự việc, sự vật khác, so
sánh, đối chiếu, thấy được những nét tương đồng,
tương dị giữa sư vật, giữa những khái niệm, quan
điểm. Paul Reverdy cho rằng hình ảnh trong thơ ca
gợi cảm nhiều nhất do sự liên tưởng giữa các hình
ảnh. Ông bảo : "Hình ảnh mạnh mẽ không do nó
có tính cách bạo tàn hay ma quái mà do sự liên tưởng
ý nghĩa càng xa và càng sát đúng" (Une image
n’est pas forte parce qu’elle est brutale ou
fantastique, mais parce que l’association des idées
est lointaine et juste – trích dẫn bỡi Pierre
Seghers, sđdn trang 372). Trong Nghệ thuật, trừu
tượng hóa giúp ta nhận ra những gì mấp mé bên lề,
những gì ẩn dấu sau cái mặt ngoài thường nhật rồi
tổng quát hóa ra, từ đó đưa đến những hình ảnh
tượng trưng, những biểu tượng chung về một sư việc,
sự vật, một khái niệm đi xa hơn sự vật hay khái niệm
ta có lúc ban đầu như màu trắng tượng trưng cho tinh
khiết, trinh bạch, chim bồ câu tượng trưng cho hòa
bình, chữ thập đỏ tượng trưng cho sự cứu giúp, chữa
thương,…Những biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa,
thậm xưng, loại suy (analogie) tỷ giảo, chuyển nghĩa
(tropes) do từ tưởng tượng, trừu tượng hóa và tổng
quát hóa đã khiến thơ văn được súc tích, cô đọng,
lung linh, nhiều khi chỉ diễn tả một thực tại nào đó
thôi nhưng mang chở tâm tư người đọc vang vọng
những âm hưởng xa xôi, diệu vợi.
10) Can đảm lội ngược dòng :
Can đảm nơi
đây không là thái độ hay hành động quả cảm, khí
khái, can trường thực hiện một việc làm nguy hiểm
hay đối phó với một tình trạng bất trắc hoặc không
khuất phục trước cường quyền, bạo lực. Can đảm mang
tính cách sáng tạo là không chấp nhận lối ‘đường
mòn’ lâu nay, không thuận theo thói thường thiên hạ
trong mọi phán đoán, nghĩ suy, trong mọi quan điểm,
qui điều có sẵn mà phát hiện ra những ‘mặt trái’,
những bất túc của những thứ đó, tìm ra những gì mới
mẻ, đúng đắn, thực chất hơn mọi quan điểm, nhận định
lâu nay. Albert Einstein tìm ra ‘không gian cong’
vì không hẳn thừa nhận ‘không gian phẵng’ của
Newton ; Riemann hình thành môn ‘Hình học
phi Euclide’ do từ thấy ‘hình học Euclide’ không
đủ để giải thích được cấu trúc của vũ trụ. Những
Pablo Picasso (về hội họa), Beaudelaire, Mallarmé,
Rimbaud, André Breton,….đã tìm ra những ‘mới lạ’
trong Nghệ thuật, Văn học do từ chối bỏ những quan
điểm của các trường phái cổ điển, tư nhiên,.. Nguyễn
Du đã cho Kiều và Kim Trọng tư do đính ước, đã cho
Từ Hải phản động lại xã hội là đã can đảm làm ngược
lại quan điểm luân lý và chính trị thời phong kiến.
Ðức Thích Ca chủ trương ‘Vô Ngã’ là đã chống lại
quan điểm của Bà La Môn giáo lúc bấy giờ. Tính Sáng
tạo, phần lớn do từ dám ‘lội ngược dòng’ thời đại,
nhất là về măt Tư tưởng.
11) Sức khỏe, bịnh tật, giới phái, những chất
kích thích:
Ðây chỉ là
những yếu tố phụ, không thường xuyên và cũng không
lắm cần thiết cho Tính Sáng tạo.
-Sức khoẻ. Bịnh
tật.
Dĩ nhiên một sức khỏe tốt, tráng kiện là
điều kiện giúp tinh thần sáng láng minh mẫn để phát
huy óc sáng tạo và đeo đuổi mọi công trình của kẻ
thiên tài đến trọn vẹn. Những thiên tài về mặt khoa
học kỹ thuật, nếu không có sức khoẻ tốt sẽ không thể
tiếp tục công trình được dài lâu để thêm những phát
minh, sáng chế mới như một Riemann chết sớm lúc 40
tuổi vì bịnh lao phổi. Ðức Thích Ca từ bỏ lối tu khổ
hạnh, trở lại ăn uống bình thường mới đủ sức ‘thiền
tọa’ suốt 49 ngày liền và đột khởi nhận ra Lẽ Ðạo
nhiệm màu.
Tuy nhiên, về một số mặt nào đó, nhất là trong Văn
học, Nghệ thuật, Tư tưởng, đôi khi bịnh tật lại là
điều kiện cho óc sáng tạo. Bị rẫy rụa, vò xé vì bịnh
tật, sức phấn đấu quy dìu về mặt tinh thần, từ đó
nẩy sinh những ý mới lạ. Một F. Nietzche bị bịnh
giang mai (syphilis) đưa đến tình trạng khủng hoảng
hành hạ suốt cuộc đời, đã phát hiện những quan điểm
tân kỳ mang tính sáng tạo cao qua những chủ trương "ý chí quyền lực, sự quy hồi miên viễn của thể
tính đồng nhiên, con người siêu đẳng’ (volonté
de puissance, le retour éternel de l’Identique, le
surhomme,.), chống lại nền Siêu hình học đương thời.
Một Bùi Giáng, do điên loạn đã có những vần thơ cao
kỳ, tuyệt hảo cũng như tối tăm cùng những tư tưởng
mới lạ… Một Hàn Mặc Tử, do cơn bệnh của mình đã trở
thành một thi sĩ nổi bật tiếng tăm ; thơ ca ông lẩn
khuất những trăn trở, buồn đau vì bịnh hoạn cùng
tính chất siêu hình hướng về huyền nhiệm, về Thượng
Ðế.
Tuy nhiên, không phải bịnh tật tạo nên thiên tài mà
chính thiên tài vì dằn vật bỡi căn bệnh mà Tính Sáng
tạo bị kích thích và phát huy, do đó người đời
thường cho rằng những thiên tài là những kẻ bất bình
thường, bịnh hoạn và khùng điên.
Giới phái (le Sexe) Nói đến giới phái là nói
đến phái nam, phái nữ cùng lúc có thể đề cập đến vấn
đề yêu đương và tình dục.
-Giới nữ thường ít khả
năng sáng tạo bằng phái nam. Ðiều nầy dễ hiểu vì nữ
giới phải cáng đáng việc gia đình, nên sức nghĩ, sức
làm bị giới hạn trong môi trường sinh hoạt đó nên
không có được những động cơ, điều kiện kích thích óc
sáng tạo. Thêm vào đó, phái nữ thường ít học, nhất
là ở một số xứ Á Ðông, hoặc có học thì cũng không
đeo đuổi đến mức độ cao. Tuy nhiên, không phải thế
mà không có nhiều bậc thiên tài phái nữ. Về mặt khoa
học, có thể kể Bà Marie Sklodowska (vợ nhà Bác học
Pháp Pierre Curie), người Ba Lan, nghèo nàn nhưng
quyết đeo đuổi nghiệp khoa học, đã cùng chồng khám
phá chất Uranium vào năm 1898 và cả hai cùng được
giải Nobel. Một số nhà Toán học nữ như Sonia
Kovalevskaia (1850-1891, người Nga), Sophie Germain
(1776-1831, người Pháp), Marie Somerville
(1780-1872, người xứ Ecosse),…(xem : Psychologie de
la Création, sđd). Ngày nay, phái nữ đã tham gia vào
tất cả mọi hoạt động bất cứ về lãnh vực nào nên khá
nhiều Khoa học gia phái nữ nổi tiếng về Không gian
học, Vi tử học, Di truyền học, Tin học, Sinh học,…
Về mặt Văn học, Nghệ
thuật, phái nữ trước nay cũng rất nhiều bậc tài năng
sáng giá mà lịch sử luôn nhắc đến và tác phẩm thường
được dùng làm mẫu mực giảng dạy cho bao thế hệ về
sau. Ở Việt Nam, ta có những Ðoàn Thị Ðiểm, Bà Huyện
Thanh Quan, Hồ Xuân Hương,…Trên thế giới, những Mme
De Sévigné, Mme De Stael, Simone de
Beauvoir,…(Pháp), Emily Dickinson (Hoa Kỳ),…là những
nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Về âm nhạc, điêu khắc,
hầu như chưa có nhân vật nữ nào thật xuất sắc. Về ca
hát, vũ điệu, phim ảnh, ta có rất nhiều nghê sĩ được
truyền tụng, tài nghệ luôn được nhắc nhở.
-Yêu đương : Nơi đây, chỉ nói về tình yêu Nam
Nữ. Không rõ, trong các nhà Khoa học nổi tiếng, có
ai do tình ái hoặc tốt đẹp hoặc bất như ý mà đã có
những công trình mang Tính Sáng tạo cao. Riêng về
mặt Văn học, Nghệ thuật, tình ái luôn luôn là đề tài
bất tận cho sáng tác. Một tình yêu trắc trở, tuyệt
vọng gây bao buồn đau, thống khổ, dằn vật là nguồn
kích thích để thành tựu nhiều tác phẩm tuyệt tác.
Người viết không rõ bao nhiêu trường hợp như thế.
Môt Léonard de Vinci, một Michel Ange, một Van Gogh,
một Beethoven, Wagner,.., một Shakespeare, Tolstoi,
Dostoiesky, một Gustave Flaubert, Lamartine, Victor
Hugo, Albert Camus,..…không rõ có do vì một tình yêu
không toại nguyện mà trở thành thiên tài ? Riêng
Arvers vì không thể tỏ tình với một nữ bá tước đã có
bài thơ nổi tiếng mà Khái Hưng đã dịch sang Việt ngữ
là ‘Tình tuyệt vọng’. Ở Việt Nam, rất lắm trường hợp
như thế, tuy thiên tài về Thi ca, Nghệ thuật chưa
được xác định bỡi lịch sử. Một Lê Trọng Nguyễn, một
Ðinh Hùng, một Vũ Hoàng Chương có thể trong trường
hợp nầy và đã có những bản nhạc, những bài thơ tuyệt
đep, được ca tụng. Bùi Giáng phần nào cũng trong
trường hợp thiếu vắng một người yêu mà ru mình vào
cô đơn và điên loạn (nếu có thể bảo thế) để sáng tác
nên vô số thơ ca.
Càng yêu nhiều càng đau khổ. Càng thất bại trong
tình yêu càng sáng tác mạnh. Nhưng những sáng tác
chỉ chuyên nói về tình yêu nam nữ không thôi, chưa
thể là tuyệt tác mang tính sáng tạo cao mà phải mở
rộng tình yêu riêng tư đó đến những tình yêu lớn
rộng khác như yêu người, yêu đất nước, quê hương,
yêu đời cùng hướng vọng đến một chân trời diệu vợi,
một cảnh sống thánh thiện nào vừa giải thoát mình
vừa giải thoát cuộc đời ngang trái, trầm luân.Thơ ca
người Việt hải ngoại mang chứa điều nầy tuy chưa có
mấy sáng tác được xếp vào hàng trác tuyệt.
-Tính
dục : Tính dục là nhu cầu sinh lý, ai cũng có.
Tính dục quá căng, quá cương, dù thỏa mãn đến chán
chê vẫn còn đòi hỏi sẽ đưa đến những hành động dâm
đãng, làm thương luân bại lý và bị dánh giá là cuồng
dâm, bạo dâm (sadisme), vô sĩ (cynisme), mất nhân
cách. Tính dục được thể hiện qua lịch sử theo nhiều
cách. Cách hợp lý, hợp pháp và hợp tình nhất là ‘một
vợ một chồng’, hai nam nữ yêu thương nhau rồi tiến
đến hôn nhân, thành lập gia đình ; đấy là cách phù
hợp với luân lý Ki-Tô giáo hiện được thế giới tôn
trọng. Những vụ ngoại tình, lang chạ dù của chồng
hay vợ đều bị lên án và trừng phạt nặng nhẹ hay cho
phép được ly dị. Trong những chế độ mẫu hệ, phụ hệ,
vấn đề đa thê, đa phu do nhu cầu kinh tế hay quản
trị xã hội, không bị xem là dâm đãng vì do nhu cầu
xã hội hay do phong tục, do qui điều luân lý lúc bấy
giờ. Tại các xứ Hồi giáo, người chồng có thể có đến
bốn vợ cũng không thể xem đấy là dâm đãng vì phù hợp
với qui điều tôn giáo.
Tính dục mang tính dâm loạn, dâm ô (luxure,
pornographie) là cách không chỉ làm tình với nhiều
người mà với bất kỳ người nào, không được sự đồng
thuận của người đó và bằng cách bạo hành (như hiếp
dâm hay thực hiện đủ trò cuồng bạo), bằng sở thích
‘ham của lạ’, bất kể niên kỷ (ham còn trinh, còn
tân), kể cả kẻ đáng tuổi cha mẹ, cô dì, cả những kẻ
cùng dòng họ khá gần với mình (con dâu, con rể, vợ
chồng của cha mẹ,vợ chồng của bạn bè, kể cả những
nam nữ tu sĩ). Tính dâm đãng, dâm bôn, nói chung là
tà dâm, phần lớn nơi nam giới, do khả năng sinh lý
quá phương cương nhưng nhiều khi do sở thích ưa
chiếm hữu và ưa phạm tội như một kẻ không học thức,
không địa vị xã hội muốn hưởng thụ và dày vò một phụ
nữ trí thức có địa vị hay có danh tiếng (bá tước, tử
tước, bác sĩ, luật sư,…ca sĩ, minh tinh màn bạc, nữ
tu sĩ,…). Không rõ, có thiên tài nào do ‘tà dâm’ mà
phát triển tính Sáng tạo để có được những công trình
lớn lao không ? Về mặt khoa học hầu như không một ai
nhưng về mặt Văn học, Nghê thuật, có lẽ cũng đôi
trường hợp. Một Donatien Alphonse François Sade
(174O-1814), sau khi cưới vợ (năm 1763 với Renée de
Montreuil) bị giam 15 ngày vì tà dâm, đã viết bao
tác phẩm như ‘Justine ou les malheureux de la
vertu, Aline et Valcour, La Nouvelle Jistine, suivie
de l’Histoire de Juliette, sa sœur,…’, toàn là
dâm loàn dù có mang tính cách triết lý, liên tiếp bị
lên án, phải tù liên tiếp 30 năm và chết trong tù.
Tác phẩm của ông một thời được hoan nghênh, xem như
là có tính cách ‘cách mạng’ trong tình yêu vì mang
tính cách đả phá các tín điều luân lý và tôn giáo.
Dù sao, người ta hoan nghênh sáng tác của ông nhưng
không thể không chê trách, lên án tính dâm loạn nơi
tác phẩm của ông. Ở Việt Nam, trường hợp Phạm Duy.
Nhà nhạc sĩ danh tiếng nầy, có phải cũng do tính ‘tà
dâm’ mà sáng tác hăng say, đều đặn, nhiều tác phẩm
xuất sắc ? Bao nhiêu tác phẩm văn học cùng thi ca mô
tả những cảnh dâm loạn, có thể tác giả không mắc
phải tính nầy, không thể hiện bằng hành động nhưng
cũng rất có thể trong dòng máu đã lẩn khuất ít nhiều
khuynh hướng đó, điều mà cả Thích Ca, cả Jésus và
đạo đức thông thường đều bài bác. Một quyển Kinh Ấn
Ðộ dạy các kiểu cách làm tình (người viết không nhớ
tên quyển Kinh) được dịch sang nhiều thứ tiếng và
được xem là sách cần thiết cho việc ‘giáo dục tình
dục’ (éducation sexuelle), có lẽ tác giả cũng trong
trường hợp nầy. Liệu có thể bảo Hồ Xuân Hương, nhà
thơ nữ tài ba của Việt Nam, ít nhiều cũng bị mặt
tình dục chi phối nên thơ bà luôn luôn khiến liên
tưởng đến những cơ quan sinh dục.và chuyện làm
tình ? Ngày nay, tại Việt Nam quốc nội cũng như nơi
người Việt hải ngoại, khá nhiều tiểu thuyết, văn thơ
cùng trên báo chí và diễn đàn Internet cổ súy thứ
văn chương mang nặng tính tà dâm đến độ tục tĩu,
không riêng phái nam mà cả phái nữ.
Dù
sao, tính dục đưa đến độ tà dâm nếu có thể tạo nên
đôi tác phẩm đặc sắc thỉ cũng không thể xem đấy là
kích thích tố cần thiết cho Tính Sáng tạo vì giá trị
một tác phẩm gắn liền với giá trị nhân cách của tác
giả. Hơn nữa, đấy chỉ là đôi trường hợp hi hữu chứ
phần lớn những thiên tài không do từ tà dâm mà có óc
Sáng tạo.
-Những
chất kích thích : Ðể kích thích tính Sáng tạo,
một số người –nhất là giới Văn Nghệ sĩ- thường quen
dùng nhiều chất kích thích, thông thường nhất là
cà-phê, thuốc lá, rượu rồi đến cả những chất nhiều
độc tính như thuốc phiện, bạch phiến, canabis,…và cả
gái. Có thể lúc đầu chỉ là ham vui với bạn bè nhưng
sau đó thành thói quen nghiện ngập, khó lòng buông
bỏ. Ðể tránh cơn buồn ngủ trong khi sáng tác, người
ta dùng từng cốc cà-phê đậm đặc ; để cho qua đôi
phút thờ thẫn, ‘bế tắc’ không tìm ra ý, ra lời diễn
tả một ý nào khúc mắc, người ta hút thuốc liên miên
rồi nhìn khói thuốc vòng vo, bỗng nhiên nẩy sinh đôi
từ lạ. Ðể quên một buồn đau, bực bội, uất nghẹn nào
đó do thất tình, thất chí hoặc để những vật vã về
thể xác dồn về dằn vật thần trí, từ đó nầy sinh
những cảm giác mạnh, những ý nghĩ táo bạo mà diễn tả
được những cảm giác, cảm xúc bình thường không thể
có, người ta dùng rượu đến độ say túy lúy. Cao Bá
Quát đã từng bảo : ‘Ðoạn tống nhất sinh duy hữu
tửu’ (dứt bỏ cuộc đời chỉ riêng có rượu). Thùy
Dương Tử (giải nhất thi đàn Bạch Nga do Nguyễn Vỹ tổ
chức) đã có những câu thơ :
Tôi gọi
nơi đây là quán rượu
Rượu ân tình, rượu Tổ Quốc ta yêu
Những ai đi qua từng trưa, từng sớm, từng chiều
Xin mời lại… Rượu thương
mình vô kể..
Thuốc phiện, bạch phiến, cần sa cùng các thứ dược
phẩm có độc tính làm giảm đau đớn thể xác vì căn
bệnh nào đó thì lại như đem lại khoái cảm, khiến
thần trí lâng lâng, phiêu diêu dìu vào một thế giới
phiêu bồng nào đó mà tình cảm cùng thần trí lúc bình
tĩnh không thể nào có được, từ đó kích thích óc Sáng
tạo. Và gái, sau những giờ phút nhục thân thỏa mãn
tràn trề, sau nhưng quằn quại của đam mê là những
vui thỏa hay chán chường rũ liệt để có cái nhìn đời,
nhìn thế sự khác với thường ngày. Xin không dông dài
điều nầy.
Một Winston Churchill không thể giã từ nàng tiên
Nicotine. Ông hút liên miên xì-gà, và cảm thấy thần
trí ung dung, thoải mái trong mọi giải quyết nhiều
vấn đề rối rắm (psychologie de la Création, sđd,
trang 196). Voltaire, Buffon, Fontenelle rất nghiện
cà-phê. Sébastien Bach cũng thế, đã soạn nhạc
phẩm 'cantate du café’. Balzac lại tìm nơi rượu
nguồn kích thích cảm hứng đôi khi như xuất thần.
Nhiều nghệ sĩ rất nghiện rượu như về hoạ : Utrillo,
Toulouse-Lautrex, Modigliani ; về thi ca : Rimbaud,
Nerval, Musset, Poe ; về nhạc : Haendel, Gluck,…Về
các độc tố khác, Baudelaire vì để chữa bệnh đã phải
hít hơi ether rồi thành thói quen dù thấy rõ tai
hại ; Edgar Poe rất nghiện rượu và tự xem mình như
một nô lệ cho nàng tiên nâu (Psychologie de la
Création, sđd, trang 199, 200)
Không rõ xưa kia, những Lý Bạch, Thôi Hộ, Bạch Cư
Dị, Ðỗ Mục,…Tô Ðông Pha,…có nghiện thứ nào không và
có do những chất kích thích trên mà có khối lượng
thơ tuyệt tác. Ở Việt Nam, Lưu Trọng Lư, Ðinh Hùng,
Lê Văn Trương,…, Tạ Ký, Hoàng Trúc Ly, Thùy Dương
Tử, …là những nhà thơ nghiện thuốc phiện và nghiện
rượu. Còn nhiều nữa. Bùi Giáng không nghiện bất cứ
thứ gì.
Dù
rằng những chất kích thích trên có giúp cho nhà nghệ
sĩ dễ tìm cảm xúc, cảm hứng, dễ tập trung thần trí
vào một đề tài nào để có những sáng tác hay lạ nhưng
không hẳn là yếu tố cho Tính Sáng tạo. Chẳng qua vì
quen dùng nên chúng trở thành cần thiết không thể
thiếu, khó lòng từ bỏ rồi biện hộ cho chúng bằng
cách mượn chúng chứng minh khả năng sáng tạo của
mình. Không một kẻ bình thường nào tự dưng uống
rượu, dùng ca-phê, thuốc lá hay thuốc phiện cùng các
thứ kích thích khác mà trở nên thiên tài với óc sáng
tạo lớn. :
12) Cơ hội May mắn:
Nhiều trường hợp, những kẻ xuất sắc hay thiên tài
lúc đầu chẳng một ai biết và tự mình cũng không nhận
ra được khả năng độc đáo của mình. Sự may mắn bất
ngờ bỗng đến để tạo cơ hội, điều kiện cho thiên tư
nẩy nở. Newton rời trường học, về chăm lo nông trại
của mẹ, nếu không gặp được cuộc viếng thăm của người
Bác đã từng dạy ở Ðại học Cambridge, sẽ chẳng bao
giờ nhận được trau giồi để trở thành một nhà vật lý
lừng danh. Victor Cousin, nhà triết học duy tâm
Pháp, vốn là một trẻ bụi đời, đến 10 tuổi vẫn mù
chữ, may sao gặp người mẹ của một bạn cùng bọn, đã
dạy cho biết đọc biết viết. Gauss, được gọi là ‘ông
hoàng toán học’ (le prince des mathématiques),
lúc nhỏ nghèo nàn nhưng may sao được người em của
mẹ, làm nghề thợ dệt, chăm lo dạy dỗ cho ông. Niel
Abel, nhà toán học Na Uy nổi tiếng do nhà toán học
Michael d’Holmboe nhận ra khả năng thiên phú, từ đó
phát triển óc sáng tạo trong lúc vị giáo sư trước
lại không hề biết đến (Psychologie de la Création,
sđd, trang 86). Edith Piaff, người ca sĩ Pháp nổi
tiếng thế giới đã sống lang thang lề đường, chỉ ca
hát giúp trong những quán bar, tình cờ được một nhạc
sĩ tới quán bar, để ý giọng hát, nên đã giúp khả
năng thiên phú của Bà phát triển. Khá nhiều trường
hợp may mắn như thế. Một Lý Công Uẩn, nếu không nhờ
sư Lý Khánh Vân và sư Vạn Hạnh nhận ra những khác
thường và nuôi dưỡng, có lẽ đã không trở thành vị
vua xuất sắc của lịch sử nước ta. Trong lúc đó, khá
nhiều thiên tài, óc sáng tạo nẩy nở sớm và nhiều
công trình có Tinh Sáng tạo cao nhưng không gặp may,
đã phải âm thầm, chẳng một ai biết đến như một
Omar-Khayyam, sinh vào giữa thế kỷ 11, nhà Toán học,
Thiên văn học, triết học và là nhà thơ nổi tiếng của
Ba Tư (Iran ngày nay) nhưng đương thời chẳng ai biết
đến , mãi sau nầy, sau bao nhiêu thế kỷ mới được
lịch sử nhận ra (xem Carolina Việt Báo, Charlotte –
USA, Trà Nguyễn chủ nhiệm, số 16, tháng 04/2006).
Cơ hội may mắn cũng có thể là một trường hợp, một sự
việc nào đó xảy ra, ta quan sát được, bỗng nhiên kết
hợp mọi tư lự, băn khoăn, thao thức của ta vào một
điểm duy nhất nào đó mang tính Sáng tạo cao. Người
ta thường kể rằng chính do quan sát quả táo rơi
xuống đất mà Newton phát hiện ra định luật "Vạn
vật hấp dẫn" mà bao suy tư lâu nay chưa đưa đến
một kết luận toàn triệt, nhất thống.
Lazzlo Biro, ký giả người Hungary, quan sát một sân
chơi boule de pétanque
thấy viên "bi" lăn trên sân
vừa mới ướt vì mưa,để lại
dấu vì loại bi này bằng kim loại
tỷ trọng cao. Anh ta bỗng
nhiên nghĩ ra cách tạo một cây bút đầu tròn mà ngày
nay ta gọi là ‘viết bi’ (stylo à bille), sáng kiến
đó được một nhà kinh doanh ứng dụng và anh ta trở
nên giàu có. Rất nhiều trường hợp, vì thiếu điều
kiện may mắn nên bao nhiêu kẻ có tài không thể phát
huy óc sáng tạo của mình.
Trên đây là những góp nhặt sách báo, thêm vào những
kinh nghiệm của người viết qua quá trình trước tác,
dĩ nhiên còn thiếu sót nhiều. Sáng Tạo và Tính Sáng
Tạo, nhiều khi không có dữ kiện để chứng minh một
cách rõ ràng. Khoa Tâm Lý học đưa ra nhiều dữ kiện
dựa vào các nghiên cứu khoa học, nhưng người viết
vẫn thấy khó lòng diễn đạt được hết một vấn đề vừa
thực nghiệm vừa tâm linh. Mong bạn đọc, nhất là
những nhà sáng tác, trước tác, bằng kinh nghiệm và
suy nghiệm của mình bổ túc cho bài viết.
B.- Tính Sáng Tạo trong Thi Ca :
Xin nói trong một bài khác.
|