Thứ ba, 16/9/2003, 11:06 GMT+7

CIA được tái tạo thế nào? (3)

Giám đốc CIA Robert Gates giai đoạn 1991-1992.

Năm 1995, John Deutch đảm nhiệm chức Giám đốc CIA. Ông đă xem xét lại và sửa chữa các kế hoạch của Woolsey. Là một nhà khoa học từ Viện công nghệ Massachusetts, Deutch cũng chú ư tới t́nh báo kỹ thuật. Ông từng phụ trách về hoạch định công nghệ cho Bộ Quốc pḥng.

Trong các năm 1995-1996, t́nh báo kỹ thuật lại được hỗ trợ và phản ánh sự quan tâm của Deutch đối với các cơ sở thu thập thông tin. Ông cũng dành thời gian đáng kể trong các năm 1995 - 1996 để lập ban quản lư vũ trụ liên hợp để phối hợp chi tiêu nhằm sản xuất các vệ tinh gián điệp và xây dựng một cơ quan mới là Cơ quan quốc gia về về chụp ảnh và vẽ bản đồ (NIMA) để thay thế Cục Chụp ảnh trung ương yếu kém. (Nhiệm vụ là chuyển đổi các bức ảnh t́nh báo kỹ thuật thu được bằng phương tiện điện tử hoặc dụng cụ quang học thành những thước phim có thể xem được, những sự tái hiện bằng điện tử hoặc các phương tiện truyền thông khác để các nhà phân tích nghiên cứu).

Nhưng Deutch không thể hoàn toàn kiểm soát việc hoạch định tương lai của CIA. Ông vẫn phải lưu ư đến những đề nghị cải cách của các uỷ ban của Quốc hội (ví dụ, Uỷ ban đặc biệt và thường trực về t́nh báo của Hạ nghị viện 1996), một uỷ ban của Tổng thống và Quốc hội (Uỷ ban về các vai tṛ và khả năng 1996 ) và các nghiên cứu tư nhân (trong số này có hội đồng các quan hệ đối ngoại; Pincus 1996) tán thành có thêm hoạt động t́nh báo gián điệp, có thêm các viên chức phân tích, tăng thêm liên hệ giữa giám đốc CIA với cộng đồng rộng lớn hơn của các cơ quan t́nh báo. Deutch và Tổng thống Clinton đă chấp nhận (trong nhiều trường hợp đă rất ủng hộ) nhiều đề nghị cải cách nói trên.

Nếu c̣n tiếp tục giữ chức vụ Giám đốc CIA th́ có lẽ Woolsey cũng đi theo con đường đó. Cả hai đều có chung cái nh́n rừng rậm thù địch đối với sự cần thiết của công tác t́nh báo, đều say mê các vệ tinh và các thiết bị công nghệ cao. Tuy vậy, đối với Woolsey, trào lưu chính trị tiến tới thu nhỏ chính phủ liên bang ở mức độ lớn đă trở thành một sức mạnh không thể cưỡng lại được vào năm 1993 -1994, và đă dẫn đến việc cắt giảm ngân sách của CIA (cũng như của Bộ Quốc pḥng). Buộc phải khuất phục trước các thực tế chính trị đối nội đó và sức ép của Thượng nghị sĩ DeConcini cũng như những ngời khác, Woolsey đành quay sang nhiệm vụ hoạch định và tiến hành việc thu nhỏ cộng đồng t́nh báo một công việc không vui vẻ ǵ đối bất cứ vị lănh đạo cơ quan nào.

Tuy nhiên, vào lúc Deutch được chỉ định làm Giám đốc CIA th́ phong trào t́m lợi nhuận hoà b́nh đă yếu đi khá nhiều. Những nhân vật chủ chốt (trong số này có các uỷ viên của Uỷ ban t́nh báo và CHủ tịch Hạ nghị viện) bắt đầu nhấn mạnh ưu tiên chống lại các mối đe doạ từ bên ngoài, coi việc đó quan trọng hơn cắt giảm ngân sách. Một ngân sách không cân đối sẽ gây tai hoạ, những con rắn độc sẽ nguy hiểm chết người. Vào lúc đó, Woolsey đă rời CIA và bị đánh giá thấp nhưng quan điểm và những nguyện vọng của ông về ngân sách cuối cùng đă thắng.

Phối hợp t́nh báo

Cho đến lúc gần kết thúc chiến tranh lạnh, việc cải tiến sự phối hợp về t́nh báo vẫn ít được coi trọng (Johnson 1996). Tuy có một nhăn hiệu chung là cộng đồng t́nh báo, các cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ đă bị chia rẽ cả trong nội bộ lẫn bên ngoài trong nhhiều năm. Sự chia rẽ không chỉ xuất phát từ những bất đồng về văn hoá viên chức (ví dụ các nhà phân tích, học giả của CIA mâu thuẫn với các chàng cao bồi tiến hành hoạt động ngầm) mà c̣n do các hệ thống chỉ huy thiếu rơ ràng trong toàn bộ bộ máy an ninh quốc gia.

Giám đốc CIA được coi là người phụ trách tất cả các cơ quan mật vụ, nhưng ông sớm phát hiện ra rằng Bộ Quốc pḥng và Chủ tịch Hội đồng các tham mưu trưởng liên quân có thể là những đối thủ mạnh (nếu không muốn nói là những con đười ươi nặng 800 bảng Anh). Điều đó cũng đúng đối với các vẫn đề t́nh báo quân sự chiến thuật và chiến lược tổng cộng chiếm từ 95 đến 90% toàn bộ ngân sách t́nh báo. Đôi khi các nhân vật phá đám có thể can thiệp và cản trở sự hợp tác liên ngành; ví dụ vào những năm 1960, trong một thời gian Edgar Hoover, Giám đốc Cục điều tra liên bang (FBI) thậm chí không thèm nói chuyện với Richard Helms, Giám đốc cơ quan t́nh báo trung ương (CIA).

Những cố gắng của các Giám đốc CIA để khắc phục các thế lực ly tâm đó đều bị thất bại (Hastedt 1986 - 1987; Turner 1985, 1987). Sự chú ư cải tiến phối hợp liên ngành đă tiến triển một cách rất khó nhọc từ năm 1947 đến năm 1985 (Johnson 1996), và đạt được tốc độ vững chắc hơn trong vàinăm cuối cùng của chiến tranh lạnh khi các Giám đốc William Casey (1981, 1987), William Webster (1987 - 1991) và Robert Gates (1991 -1992), do sự hạn chế ngày càng tăng về ngân sách và sự chỉ trích của Quốc hội về những hoạt động trùng lặp quá nhiều trong cộng đồng t́nh báo, đă bắt đầu tập trung nhiều hơn vào việc sáp nhậ một số chương tŕnh và hoạt động.

Một trong những bước quan trọng nhằm khắc phục các thế lực ly tâm trong cộng đồng t́nh báo là việc Giám đốc CIA Casey thành lập Trung tâm chống khủng bố (CTC) năm 1986 và Trung tâm chống ma tuư (CNC) năm 1987, cả hai đều đặt trụ sở tại CIA nhưng gồm các viên chức t́nh báo thuộc khắp cộng đồng - đó là những cơ cấu đầu tiên được gọi là trung tâm liên kết. Năm 1988, GIám đốc Webster lập Trung tâm phản gián (CIC) và năm 1991, Giám đốc Gates lập ra Trung tâm không phổ biến vũ khí (NPC) cùng phối hợp vói một loạt nhóm đặc nhiệm liên ngành nhằm cải tiến sự phối hợp về t́nh báo (Gates 1994).

Trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, dưới thời Woolsey, các cố gắng nhằm tăng cường phối hợp trong toàn cộng đồng t́nh báo vẫn được tiếp tục. Trên hết, Woolsey t́m cách xây dựng những mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa CIA và t́nh báo quân sự, một mối quan hệ đă xấu đitrong nhiều năm. Một cựu Giám đốc CIA nhớ lạirằng sự thù gét này được nuôidưỡng do sự khinh bỉ ngày càng tăng trong CIA đối với việc các nhà phân tích t́nh báo quân sự có xu hướng lan truyền những kịch bản trường hợp tệ hạinhất đă bị phóng đạivề các nhu cầu t́nh báo của Hoa Kỳ (Schlesinger 1994). Woolsey đă cử một đô đốc làm Phó Giám đốc thứ nhất CIA, cử thêm một phó giám đốc phụ trách các vấn đề quân sự và đă hợp tác với Bộ Quốc pḥng dù có những căng thẳng, và dưới sức ép của Quốc hội - để lập và cùng quản lư Cục Chụp ảnh trung ương mới nhằm phục vụ cho việc phổ biến t́nh báo bằng ảnh chụp đă được cảitiến cho các chiến trường (Conner 1993, 5; Johnson 1992 1993, 64).

John Deutch tiếp tục chiều hướng tiến tới quân sự hoá t́nh báo, một cách quá hăng hái theo ư kiến của một số người chỉ trích. Ông đă đưa thêm nhiều sĩ quan tại ngũ về CIA làm cố vấn quân sự và làm việc tại tầng 7 của trụ sở CIA, một cơ quan dân sự tự hào về tính độc lập của ḿnh. Nhóm maphia quân sự của Deutch đă gây khó chịu cho nhiều quan chức CIA và làm dấy lên nỗi lo sợ là t́nh báo chiến lược phi quân sự (kể cả các vân đề kinh tế và chính trị toàn cầu) sẽ không c̣n vai tṛ quan trọng to lớn đối với Giám đốc CIA và đang bị thay thế bởi sự ám ảnh của giới quân sự về t́nh báo chiến thuật (được Lầu Năm góc gọi là Hỗ trợ các hoạt động quân sự, tên tắt là SMO).Tuy nhiên, xét từ khía cạnh hẹp hơn về cảitiến sự phối hợp, th́ CIA và t́nh báo quân sự (chiếm đại bộ phận cộng đồng t́nh báo) đă có sự hợp tác chặt chẽ nhất ít nhất là ở cấp cao nhất của bộ máy nhờ mối quan hệ chặt chẽ của Deutch với các nhà lănh đạo Lầu Năm góc (kể cả với thủ trưởng cũ của ḿnh là Bộ Trưởng Quốc pḥng William Perry).

Hơn nữa, trong những năm dưới quyền Woolsey, việc giảm bớt tạm thời ngân sách CIA chủ yếu do những kiềm chề kinh tế về đối nội và nhận thức tạm thời cho rằng mức độ đe doạ quốc tế đă giảm xuống cùng với sự sụp đổ của Liên Xô - đă thúc đẩy các nhà quản lư t́nh báo Hoa Kỳ t́m cách giảm bớt nhân sự thừa và hợp tác hàihoà với nhau hơn. Một trong những biểu hiện của điều đó là cố gắng tập hợp nguồn nhân lực về liên hệ trong toàn cộng đồng để tiếp xúc với Quốc hội.

Trong nội bộ CIA, Deutch tiếp tục cuộc thử nghiệm của người tiền nhiệm của ḿnh trong việc kết hợp các viên chức phân tích và các viên chức hành động, những người vốn kỵ nhau như lửa và nước. Tại tầng 7 của trụ sở CIA, Deutch và các phụ tá quân sự nhiệt t́nh phối chế giàn hợp xướng gồm các bộ phận khác nhau của cơ quan CIA và cộng đồng t́nh báo rộng lớn hơn trong khi các viên chức lâu năm mỉm cười châm biếm và nhớ lại những cố gắng thiếu hiệu quả của các Giám đốc CIA trước đây để phối hợp hoạt động của các cơ quan mật vụ (các quan chức CIA 1995).

Phản gián

Trong suốt hai thập niên then chốt của chiến tranh lạnh (1954 - 1974) James Angleton đứng đầu bộ phận phản gián của CIA. Lúc đầu, năng lực nghiệp vụ và xă hội không thể chê trách được của ông đă nâng cao vị thế của đội ngũ phản gián. Nhưng do ông quản lư ngày càng chặt chẽ nếu khong muốn nói đến bệnh hoang tưởng về sự an toàn của các hồ sơ phản gián của ḿnh, cho nên chẳng bao lâu bộ phận đó đă trở nên biệt lập tại trụ sở chính của CIA (Mangold 1991; Winks 1987; Angleton 1976). Cuối cùng, vào năm 1974 Angleton bị cách chức và nhiệm vụ phản gián bước vào giai đoạn phi tập trung hoá trong CIA.

Khi chính quyền Reagan nhậm chức năm 1981, người ta lại quay trở lại nguyên tắc tập trung hoá của Angleton về công tác phản gián với việc Giám đốc Casey nhấn mạnh việc lập các trung tâm phối hợp như Trung tâm chống khủng bố và ma tuư, tiếp đó các Giám đốc Webster và Gates lập Trung tâm phản gián và không phổ biến vũ khí. Mỉa mai thay, việc cố gắng đạt được một sự phản ứng có phối hợp hơn về t́nh báo đối với các mối đe doạ từ bên ngoài lại bắt đầu đúng vào lúc chiến tranh lạnh chuẩn bị kết thúc.

Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, một trong những nhân tố kích thích sự thay đổi trong công tác phản gián là nhận thức cho rằng trên thực tế t́nh báo quân sự Nga đă tăng cường hoạt động do thám tại Hoa Kỳ từ năm 1989 (Webster 1991; Gates 1994). Phát hiện đó đă củng cố quan đIểm của Woolsey cho rằng CIA phải duy tŕ - thực tế cần phải tăng khả năng phản gián của ḿnh. Hơn nữa, các công ty Hoa Kỳ than phiền rằng vào gần cuối cuộc chiến tranh lạnh, họ trở thành mục tiêu của các hoạt động do thám của nước ngoàihơn bao giờ hết và họ yêu cầu các chuyên gia phản gián của chính phủ giúp đỡ (Gates 1992).

Các quan chức CIA né tránh nhiệm vụ t́nh báo công nghiệp dễ gây tranh chấp (do thám cho công ty General Motors), nhưng họ sẵn sàng giúp các công ty Hoa Kỳ ngăn chặn các hoạt động gián điệp do các cơ quan t́nh báo nước ngoàitiến hành. Hơn nữa, việc đánh bom Trung tâm Thương mạiManhattan năm 1992 và đánh bom Toà nhà liên bang tạithành phố Oklahoma năm 1994 đă nhắc nhở bất người nào nhất thời quên rằng chống khủng bố vẫn là một trách nhiệm quan trọng. Ngoàira, Hoa Kỳ vẫn tràn ngập ma tuư bất hợp pháp và không thể nào lơ là nhiệm vụ pḥng chống ma tuư.

Như vậy, phản gián và các ngành anh em của nó là chống khủng bố, chống ma tuư đă trở thành những cổ phiếu ngày càng tăng trưởng trong khi Liên Xô đă biến mất (nhưng không phảicác cơ quan t́nh báo trước kia của nó cũng biến đi). Trên hết, việc phát hiện vụ Aldrich Ames quan chức t́nh báo có vỏ bọc cao cấp nhất của Liên Xô đă xâm nhập vào CIA năm 1994 chắc chắn đă làm cho người ta chú ư nhiều hơn đến chức năng phản gián trong khi các nhà điều tra của chính phủ và Quốc hội yêu cầu giải thích về sự thất bại khủng khiếp này trong việc giữ ǵn an toàn cho cơ quan CIA.

Thế nhưng chức năng phản gián có thể bị giảm chú ư dần: không giống t́nh báo kỹ thuật, công tác phản gián thiếu một định chế hỗ trợ vững chắc bên trong và bên ngoài cộng đồng t́nh báo. Ngoài ra, dù nó quan trọng tới đâu đi nữa, mọi người thừơng ít hiểu biết về công tác phản gián trừ một số ít ṇng cốt những người thực hiện, và đó là một ngành dễ gây nhàm chán nên không thể thu hút được sự chú ư lâu dài ở các cấp cao.

Thứ hai, 15/9/2003, 16:04 GMT+7

CIA được tái tạo thế nào? (2)

Giám đốc CIA John M.Deutch.

Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta cần phải xác định một loạt cơ sở thể hiện những đặc điểm chủ yếu của CIA trong mấy năm trước và sau khi kết thúc chiến tranh lạnh. Thời gian được chọn cho sự phân tích này là từ năm 1985 đến năm 1996. Nó cho phép ta có một cơ sở so sánh để xem liệu có xảy ra thay đổi hay không.

Trong số những đặc điểm quan trọng nhất cần phải được xem xét là những nhiệm vụ được CIA nhấn mạnh trước và sau chiến tranh lạnh, đặc biệt là CIA đă phân bổ nguồn lực cho các hoạt động của ḿnh như thế nào; những nước và phe phái nào là mục tiêu của các hoạt động đó; ngân sách, nhân sự và các sửa đổi và chấn chỉnh về tổ chức; những phản ứng của CIA đối với các tổ chức giám sát thuộc ba ngành của chính quyền (khả năng chịu trách nhiệm), và cuối cùng là mối quan hệ của CIA với các nhóm gây sức ép bên ngoài và các phương tiện truyền thông.

Tiếp cận thông tin về hoạch định chính sách t́nh báo mà phần lớn đựơc giữ bí mật qủa là một thách thức. Tôi phải dựa vào những những phương pháp luận có chất lượng hơn nhưng kém chính xác hơn so với mong muốn của ḿnh; để tranh sai lầm, tôi phải phỏng vấn nhiều và kiểm tra thêm với các chuyên gia t́nh báo (đương chức hay đă nghỉ hưu) và sàng lọc cẩn thận những bằng chứng tư liệu công khai với số lượng hạn chế nhưng đang tăng lên. Mặc dù có những khó khăn về phương pháp luận, CIA là một công cụ quan trọng về chính sách đối ngoại, do đó cần cố gắng t́m hiểu hoạt động của nó. Tôi đă bắt đầu nghiên cứu bộ ba t́nh báo (những nhiệm vụ then chốt của CIA), rồi xác định những cơ sở cho phép tôiđánh giá được con đường tiến triển của CIA trong thập niên đầy biến động vừa qua của các vấn đề quốc tế.

Bộ ba t́nh báo

Mục đích cơ bản của CIA là ngăn không để xảy ra một Trân Châu Cảng nữa, tức là bảo vệ Hoa Kỳ chống lại những mối đe doạ nguy hiểm từ bên ngoài. Nhằm mục đích đó, nhiệm vụ cốt lơi được nêu trong quy chế thành lập CIA (Luật An ninh quốc gia Hoa Kỳ năm 1947) là thu thập, phân tích và phối hợp các thông tin về đối ngoại. Trung tâm của tiến tŕnh t́nh báo này là mục tiêu xoá bỏ hoặc giảm bớt tính bất định cho những người ra quyết định của chính quyền (Clapper 1995, 3; xem thêm Berkowitz và Goodman 1989; Ford 1993).

Việc thu thập tin t́nh báo liên quan đến việc t́m cách tiếp cận các thông tin về các đối thủ nước ngoài, chủ yếu gồm việc sử dụng những nguồn tin công khai nhưng cũng dùng gián điệp (người làm t́nh báo, c̣n gọi là HUMINT; Cline 1976; Johnson 1989; Westerfield 1995) hoặc các phương tiện cơ khí (t́nh báo kỹ thuật hay TECHINT; Burrows 1989; Brujioni 1993; Richelson 1990).

CIA nhanh chóng đảm nhận nhiệm vụ thứ hai: phản gián (CI) mặc dù điều đó không được nêu trong quy chế thành lập. Những bí mật do CIA tập hợp được phảibảo vệ và đó là trách nhiệm của các sĩ quan phản gián. Ngoài các biện pháp an ninh cơ bản (hàng rào, trạm gác), các quan chức phản gián c̣n được giao nhiiệm vụ tiến hành những hoạt động xông xáo hơn ví dụ luồn sâu vào cơ quan t́nh báo nước ngoài với một vỏ bọc nhằm phá hoại các nỗ lực của đối thủ đang hoạt động t́nh báo và quấy rối đối với Hoa Kỳ (Wise 1992; Zuehlke 1980).

Nhiệm vụ thứ ba gây tranh căi nhiều nhất, là hoạt động bí mật (CA), tức là những hoạt động nhằm tác động đến t́nh h́nh ở nước ngoài mà không để người ta quy tội cho Hoa Kỳ (Deutch 1995). Hoạt động bí mật c̣n được gọi trong nội bộ là phương án thầm lặng hay những hoạt động đặc biệt bao gồm việc bí mật can thiệp vào công việc của các nước khác thông qua tuyên truyền, thao túng chính trị, phá hoại kinh tế và các hoạt động bán quân sự kể cả những mưu toan ám sát trong quá khứ. (Johnson 1992, 1996; Resiman và Baker 1992; Treverton 1987; Quỹ thế kỷ XX, 1992).

Thu thập và phân tích t́nh báo

Trong những năm cuối cùng của chiến tranh lạnh (1985 - 1991) sự chú ư đến t́nh báo kỹ thuật tiếp tục tăng lên với tốc độ vừa phải như đă liên tục xảy ra kể từ khi CIA được thành lập năm 1947 (Johnson 1996). Sự chú ư đến t́nh báo sử dụng điệp viên thường thiếu đều đặn, giảm dần từ năm 1986 đến năm 1989 rồi lại bắt đầu tăng lên cho đến khi kết thúc cuộc chiến tranh lạnh. Việc nhấn mạnh công tác phân tích cũng đi theo con đường gần như song hành nhưng luôn luôn thấp hơn t́nh báo bằng điệp viên. Cũng tương tự như t́nh báo kỹ thuật, tuy mức độ nhấn mạnh thấp hơn rất nhiều, các cố gắng phối hợp đă tăng lên một cách vững chắc.

Trong những năm sau khi kết thúc chiến tranh lạnh (1992 - 1996), việc chú trọng đến t́nh báo kỹ thuật tiếp tục tăng rồi tạm thời gảm bớt trong năm 1994 và sau đó lại tăng. Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, t́nh báo sử dụng gián điệp đă tăng một cách vững chắc cho đến năm 1996, c̣n việc nhấn mạnh đến phân tích lúc đầu tăng, rồi giảm đI, rồi lại tăng. Nhnữg cố gắng phối hợp liên ngành tiếp tục tăng lên một cách chậm chạp.

Trong giai đoạn đầu của thời kỳ John M.Deutch lănh đạo năm 1995 –1996, mỗi hoạt động trên đều được nhấn mạnh nhiều hơn một chút. Deutch trở thành Giám đốc Cơ quan t́nh báo trung ương vào tháng 1 – 1995, vào lúc các quan chức ở Washington đang có những ư kiến nước đôi về công tác t́nh báo. Một mặt họ muốn cắt giảm ngân sách và cải cách công tác t́nh báo, mặt khác, họ lại lo ngại trước những mối đe doạ mới đang diễn ra ở nước ngoài đối với Hoa Kỳ và sự cần thiết phảiduy tŕ một lá chắn t́nh báo mạnh. Nhờ sự vận động hành lang khéo léo của Deutch và việc các nhà lănh đạo Đảng Cộng hoà trong Quốc hội (đặc biệt là ở Hạ nghị viện) người ta ngày càng tin rằng ngành t́nh báo xứng đáng được ủng hộ nhiều hơn, cuộc tranh luận đă sớm chuyển sang tăng ngân sách cho CIA và các cơ quan t́nh báo khác.

Việc chấm dứt chiến tranh lạnh đă không ảnh hưởng sâu sắc đến những nhiệm vụ cốt lơi của CIA. Năm 1994 , dưới thời Woolsey đă có một số biến động tạm thời mà đáng kể nhất là việc giam ủng hộ đối với t́nh báo kỹ thuật. Nhưng trong những năm đầu lănh đạo đầy năng nổ của Deutch, mọi chỉ số đều cho thấy có tăng tiến. Ngay trong ví dụ dễ thấy nhất là việc giảm nhấn mạnh về t́nh báo kỹ thuật th́ sự giảm sút đó cũng chỉ trong một thời gian ngắn. Và trong những năm quá độ ấy cũng không có sự thay đổi nào về vị trí tương đối của bốn hoạt động so với t́nh h́nh của chúng trước khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ.

Sự thăng trầm của t́nh báo kỹ thuật xảy ra sau khi chiến tranh lạnh kết thúc phản ánh sự căng thẳng giữa hai mục tiêu mâu thuẫn nhau của các cơ quan t́nh báo trong những năm đó. Một mục tiêu là giảm chỉ tiêu về t́nh báo, liên quan đến việc t́m lợi nhuận hoà b́nh sau khi kết thúc chiến tranh lạnh và đó là lư do t́nh báo kỹ thuật suy giảm trong năm 1994. Tuy nhiên, các dữ liệu cũng cho thấy rơ là trong năm1996, nói chung người ta chấp nhận giả thuyết -những con rắn- của James Woolsey cho rằng lúc này thế giới là nơithậm chí c̣n nguy hiểm hơn trước và do đó, t́nh báo nên được tăng them ngân sách.

Các lập trường không nhất quán: đó là đặc trưng của thời kỳ Woolsey làm Giám đốc CIA. Ông đặc biệt chú ư đến t́nh báo kỹ thuật, một mối quan tâm cá nhân có từ lâu của ông khi c̣n là quan chức Lầu Năm góc trước khi chuyển sang CIA. Tuy nhiên, Woolsey phải đương đầu với các nhà lập pháp, với quan chức Nhà Trắng đang chủ trương cắt giảm ngân sách, một mục tiêu rơ ràng trái ngược với việc Giám đốc CIA ưa thích các hệ thống thiết bị đắt tiền.

Woolsey bắt đầu nhiệm kỳ năm 1993 với một nỗ lực mạnh mẽ để tăng ngân sách cho các cơ quan t́nh báo, không chỉ riêng t́nh báo kỹ thuật mà toàn bộ hoạt động t́nh báo, thể hiện chủ trương toàn diện muốn có một cơ quan t́nh báo hùng mạnh hơn trong một thế giới hậu cộng sản vẫn c̣n thù địch. Dù lúc đầu Giám đốc CIA đă tích cực yêu cầu, tinh thần cắt giảm chi phí của Quốc hội tỏ ra quá mạnh và không thể khắc phục được, cho nên ngân sách t́nh báo bắt đầu giảm so với đỉnh cao lịch sử 26 - 28 tỷ USD/ năm trong thời kỳ 1989 - 1991 (Weiner 1996a).

Đáng ra việc Woolsey khăng khăng nói rằng Hoa Kỳ đang đối mặt với một thế giới ngày càng thù địch hơn đă có thể tránh được việc giảm nhanh ngân sách CIA. Nhưng phong thái công tố viên của ông (mà một số thành viên Quốc hội coi là ngạo mạn và chối tai) đă làm mất ḷng một số những nghị sĩ có ảnh hưởng nhất chuyên theo dơi công tác t́nh báo, kể cả Chủ tịch uỷ ban về t́nh báo của Thượng nghị viện là Dennis DeConcini (Đảng Dân chủ - bang Arizona).

Lúc đầu Woolsey dùng phép ẩn dụ về một thế giới giống như một khu rừng rậm để bảo vệ các chương tŕnh cuả CIA, nhưng ít lâu sau ông đă thận trọng thay thế h́nh ảnh những con rắn độc ḅ khắp nơitrên thế giới bằng một lư lẽ cơ bản về quản lư tỏ ra thuyết phục hơn. Ông chuyển sang vận động cho việc cấp các khoản tiền ngắn hạn cho ngành t́nh báo cho phép tiết kiệm trên cơ sở dàihạn bằng cách thống nhất các hoạt động t́nh báo (đặc biệt là các chương tŕnh phóng vệ tinh t́nh báo kỹ thuật). Rơ ràng Quốc hội không muốn ủng hộ việc tăng ngân sách quốc pḥng hay t́nh báo trong giai đoạn 1992 -1994 và Nhà Trắng cũng vậy; trong khi tranh cử, các chính trị gia trong cả hai ngành đều tán thành giảm bớt thâm hụt ngân sách như là một vấn đề ưu tiên lớn. Do đó,Woolsey buộc phải rút lui các lời cảnh báo khủng khiếp về những con rắn và chuyển sang một luận điểm thiết thực hơn(tuy là ngắn hạn) về quản lư tốt hơn để bảo vệ ngân sách t́nh báo.

Giám đốc CIA khẳng định rằng việc tăng cường cấp tiền sẽ giúp làm cho quản lư có hiệu quả và sẽ sớm tiết kiệm được nhiều tiền - đặc bịệt là làm giảm nhu cầu về những vệ tinh mới đắt tiền khi những mô h́nh cũ hơn được điều chỉnh quỹ đạo và giao những nhiệm vụ mới (Woolsey 1993a). Đến năm 1997, Giám đốc CIA dự định giảm 50% số vệ tinh và giảm trên 50 % trạm thu tin mặt đất (Woolsey, tàiliệu đă dẫn). Cũng về t́nh báo kỹ thuật, Giám đốc dự định sẽ giảm 25% nhân sự Vụ Khoa học công nghệ (DST) và giảm 1.700 viên chức trong các bộ phận hỗ trợ kỹ thuật (Woolsey 1994, 8-9).

Đối với t́nh báo gián điệp, Giám đốc CIA dự tính vào năm 1997 sẽ giảm một số viên chức theo dơi các đIệp viên ở nước ngoài. Vụ hoạt động, cơ quan phụ trách bộ máy t́nh báo của CIA sẽ giảm 700 người; vào năm 1997 Vụ T́nh báo, gồm các viên chức chuyên phân tích cũng sẽ giảm 1000 người tức là giảm 1/3, xuống ngang với mức nhân sự năm 1977 (Woolsey 1994, 7-8). Một số tiền tiết kiệm được do thống nhất các chương tŕnh t́nh báo kỹ thuật sẽ được chuyển vào việc chiêu mộ các điệp viên ở nước ngoài.

Những thay đổi được dự định ấy là khá toàn diện. Sự nhấn mạnh về hoạt động t́nh báo gián điệp vẫn tương đối ổn định v́ Woolsey nhấn mạnh yêu cầu cần tăng đIệp viên ở nước ngoài. Việc giảm nhân sự tạibộ chỉ huy và các trạm mặt đất sẽ được bù lạibăng việc tăng đIệp viên ở nước ngoài.

Tiếp theo việc thu gọn lại sẽ là sự thành lập một số lượng lớn hơn những trung tâm thu thập t́nh báo tại những quốc gia mà trước đây CIA đă bỏ sót trong thời kỳ Hoa Kỳ tập trung chú ư vào Liên Xô. Các ưu tiên t́nh báo mới sẽ bao gồm cả những nước tuy nhỏ nhưng có thể sẽ là mối đe doạ cho Hoa Kỳ (khi gần kết thúc chiến tranh lạnh, CIA đă cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những tin tức không đầy đủ về các vùng rối ren trong đó có Grenada, Panama, Lybia, Bắc Triều Tiên và Iraq); tăng thêm hoạt động t́nh báo kinh tế vĩ mô (đối với các chính phủ, chứ không phải các công ty kinh doanh nước ngoài), một chủ đề ngày càng quan trọng và đă bắt đầu thu hút khoảng 40% các nguồn lực thu thập phân tích t́nh báo vào giai đoạn đầu của thời kỳ sau chiến tranh lạnh (so với dưới 10% trước đó); và một loạt các quan tâm khác từ thu thập dữ liệu về các mối đe doạ về môi trường và sức khoẻ toàn cầu (ví dụ, bênh AIDS) đến ḍng người tị nạn và ma tuư (Johnson 1992 - 1993). Quan tâm lớn nhất của những người lănh đạo CIA là sự lo sợ về sự phổ biến vũ khí rộng khắp, đặc biệt là mối nghi ngờ về chương tŕnh bom nguyên tử của Bắc Triều Tiên.

Nh́n chung, trong thời kỳ đầu mới nhậm chức, Woolsey đă đ́nh chỉ tất cả mọi việc thuê thêm nhân công và đă giảm gấp đôi mức giảm nhân sự 12% do Nhà Trắng khuyến nghị (Woolssey 1993a). Các số liệu về nhân sự cho thấy CIA dự tính giảm 12% nhân sự từ năm 1994 đến 1997 (Johnson 1992 - 1993). Woolsey đă nói: "Chúng ta phải bù lại sự cắt giảm này bằng một cơ cấu mềm dẻo và có khả năng đáp ứng (Woolsey 1994,8).