GIỚI THIỆU
Toàn cầu hóa
(globalization)
là một thuật
ngữ thường
xuyên được
nói đến
trong kinh
tế chính trị
và trong
cuộc sống
hàng ngày. Ở
Việt Nam,
thuật ngữ
này chỉ được
đề cập sau
thời kỳ thực
hiện chính
sách Đổi mới
năm 1986.
Đại hội Đảng
Toàn quốc
lần thứ 6
năm 1986 đã
cho rằng sự
đóng cửa hay
khép kín nền
kinh tế nội
địa là nguy
cơ gây tụt
hậu phát
triển kinh
tế. Thay vì
vậy, Việt
Nam phải mở
cửa ra thị
trường thế
giới bên
cạnh việc
giữ vững độc
lập và an
ninh lãnh
thổ theo
định hướng
xã hội chủ
nghĩa. Trong
cuộc họp
Thượng đỉnh
của khối
ASEAN lần
thứ 6 tại Hà
Nội ngày 15
tháng 12 năm
1998, cựu
Thủ tướng
Phan Văn
Khải nhận
định rằng
các nước
đang phát
triển phải
đối mặt với
những thách
thức và cơ
hội khi gia
nhập nền
kinh tế toàn
cầu. Việt
Nam hay
ASEAN, tất
nhiên, không
phải là
những cá
nhân duy
nhất tham
gia vào tiến
trình này.
Với quan
điểm trung
lập về sự
phát triển
của toàn cầu
hóa, bài
viết đưa ra
định nghĩa
về toàn cầu
hóa và truy
tìm nguồn
gốc của tiến
trình này
nhằm chứng
minh rằng
các giai
đoạn phát
triển của nó
đều gắn liền
với sự phát
triển lịch
sử tất yếu
của nhân
loại. Toàn
cầu hóa thật
sự đã ảnh
hưởng khác
nhau lên
cuộc sống
của nhân
loại ở từng
thời kỳ, và
điều quan
trọng hơn là
Việt Nam hay
các nước
đang phát
triển khác
phải hiểu
được bản
chất của
tiến trình
để có thể
tận dụng
thời cơ, đối
mặt thách
thức và tìm
các biện
pháp ngăn
ngừa các ảnh
hưởng tiêu
cực hữu hiệu
khi cần.
ĐÔI NÉT VỀ
TIẾN TRÌNH
TOÀN CẦU HÓA
Kể từ buổi
đầu của thời
kỳ phong
kiến, biên
giới kinh
tế, chính
trị và văn
hóa giữa các
quốc gia trở
nên khó bền
vững hơn mặc
dù độc lập
lãnh thổ và
bản sắc
riêng của
mỗi dân tộc
vẫn được tôn
trọng và bảo
vệ. Với sự
hợp tác quân
sự của các
nước Đồng
minh trong
giai đoạn
cuối của
Chiến tranh
Thế giới thứ
II và những
phát triển
vượt bậc của
khoa học
công nghệ,
giao thông
và thông tin
từ nửa sau
thế kỷ 20,
thế giới
dường như
được thu hẹp
lại về cả
thời gian
lẫn không
gian cho dù
còn nhiều
nơi và dân
tộc khác vẫn
còn cô lập
với thế giới
hiện đại.
Lần đầu tiên
vào năm
1944, từ
điển
Merriam
Webster
đã công nhận
động từ
«toàn
cầu hóa»
(globalize)
như một từ
tiếng Anh có
nghĩa.
Với sự phát
triển và
chuyển giao
khoa học xảy
ra trên quy
mô lớn đã
giúp các
nước xích
lại gần nhau
hơn và hợp
tác trong
nhiều lĩnh
vực như kinh
tế, chính
trị và xã
hội. Diễn
đàn Kinh tế
Thế giới tại
Davos (Thụy
Sĩ) vào
tháng 1 năm
1999 đã
khẳng định
toàn cầu hóa
không còn là
một xu thế
nữa, mà nó
trở thành
một thực tế
mang nhiều
cơ hội và
thách thức
cho các quốc
gia. Một
trong những
ví dụ nổi
bật của toàn
cầu hóa là
sự hội nhập
kinh tế quốc
tế và mở
rộng quan hệ
ngoại giao
của các quốc
gia. Tiến
trình này đã
thúc đẩy sự
tăng trưởng
kinh tế trên
thế giới với
sự gia tăng
GDP toàn cầu
từ 2,7 lần
vào nửa đầu
thế kỷ 20
đến 5,2 lần
vào nửa cuối
thế kỷ 20,
và tốc độ
tăng trưởng
GDP thế giới
đạt đến
3,6%/năm.
Ví dụ như
đối với Việt
Nam, chúng
ta đã thiết
lập quan hệ
ngoại giao
với 167
nước, có
quan hệ
thương mại
với 160
nước, và có
thể thu hút
đầu tư trực
tiếp của các
công ty và
tập đoàn
kinh tế của
hơn 70 quốc
gia. Ngoài
ra, sự ra
đời của các
tổ chức quốc
tế trong
kinh tế, văn
hóa, an ninh
hay giáo dục
ví dụ như
WTO, ASEAN,
APEC, ASEM,
EU, UN,
UNESCO,
v.v... hay
các khu vực
thương mại
tự do (FTA)
và các thỏa
thuận thương
mại khu vực
(RTA) là
những minh
chứng của
tiến trình
này. Sự hợp
tác kinh tế
và sản xuất
quốc tế được
thể hiện
trong một ví
dụ cổ điển
khác của
việc sản
xuất máy bay
Airbus. Đôi
cánh của
Airbus được
sản xuất tại
Anh, thân và
đuôi của
Đức, cửa máy
bay do Tây
Ban Nha sản
xuất, và
Pháp chịu
trách nhiệm
thiết kế
buồng lái và
công đoạn
lắp ráp cuối
cùng. Ngoài
ra, Airbus
còn ký hợp
đồng với 27
quốc gia
khác để sản
xuất các
thiết bị cần
thiết, với
khoảng 35%
các chi tiết
trong máy
bay do hơn
500 công ty
của Mỹ cung
cấp.
Có nhiều
định nghĩa
và quan điểm
khác nhau về
toàn cầu hóa
và quá trình
phát triển
của nó mặc
dù nhiều
người vẫn
hay cho rằng
toàn cầu hóa
giống như
quốc tế hóa
ở sự phát
triển mạnh
mẽ của các
lực lượng
sản xuất và
sự hợp tác
xuyên quốc
gia của các
nước trong
lĩnh vực
kinh tế.
Tiến trình
này cũng
được xem như
hệ quả tất
yếu của sự
phát triển
vượt bậc về
số lượng và
chất lượng
của lực
lượng sản
xuất và sự
tương tác
kinh tế quốc
tế.
Tuy nhiên
không chỉ
đơn thuần là
sự xích lại
gần nhau của
các nước,
toàn cầu hóa
là tiến
trình bao
gồm một hoặc
hàng loạt
các sự kiện
và hoạt động
về kinh tế,
chính trị,
văn hóa hay
môi trường
trên thế
giới có tác
động vừa
tích cực lẫn
tiêu cực
giữa các
quốc gia.
Đây được xem
như là kết
quả của sự
phát triển
sản xuất và
phân công
lao động
trên bình
diện quốc
tế.
Những tác
động này đã
và đang làm
thay đổi cấu
trúc và quan
hệ xã hội,
trật tự thế
giới và gia
tăng mối
quan hệ về
kinh tế,
chính trị và
xã hội quốc
tế.
Nhìn chung
có ba quan
điểm khác
nhau về hiện
tượng toàn
cầu hóa. Hầu
hết các quốc
gia đều xem
đây là một
hiện thực
mới trong
thời kỳ cạnh
tranh kinh
tế quốc tế
mà các cá
nhân, tập
đoàn kinh tế
và chính phủ
phải chấp
nhận tìm
cách đối phó
và khai thác
lợi ích của
nó.
Nhờ vào
những sự
phát triển
của công
nghệ, truyền
thông và
giao thông
nên con
người, hàng
hóa, ý tưởng
và đồng vốn
có thể dịch
chuyển xuyên
quốc gia.
Theo quan
điểm này,
toàn cầu hóa
cũng được
xem như một
cơ hội và
thách thức
cho các quốc
gia đang
phát triển
trong việc
trao đổi
hàng hóa,
dịch vụ và
các nguồn
tài chính
hai chiều
với các quốc
gia phát
triển. Những
phát minh và
chuyển giao
công nghệ về
thông tin và
giao thông
cũng đã
nhanh chóng
đem lại
nhiều lợi
ích to lớn
cho việc
phát triển
cơ sở hạ
tầng, giao
lưu kinh tế
và kiến thức
mới cho các
quốc gia
đang phát
triển.
Tuy nhiên,
một số học
giả như
Pierre
Bourdieu,
Namoi Klien
hay Loic
Wacquant
từng lên
tiếng chỉ
trích tiến
trình toàn
cầu hóa, cho
rằng nó là
quá trình
«Mỹ
hóa»
(Americanization)
hay bề mặt
của chủ
nghĩa đế
quốc mới của
Mỹ và các
nước tư bản
phương Tây.
Sau khi Liên
Xô và các
nước Đông Âu
sụp đổ, Mỹ
trở thành
siêu cường
quốc trên
thế giới và
các nước
khác dường
như máy móc
lấy các kiểu
mẫu hay
chính sách
của Mỹ để
làm thước đo
chuẩn mực
cho riêng
mình hay cho
các hoạt
động kinh tế
quốc tế.
Theo quan
điểm bảo thủ
của họ,
chúng ta
dường như
quá lạm dụng
những mỹ từ
mới như
«toàn cầu
hóa», «đa
văn hóa»,
«thời đại
mới» hay
«hậu hiện
đại», nhưng
lại thiếu
những hiểu
biết sâu sắc
về chủ nghĩa
tư bản, hay
bất công và
phân tầng
trong xã
hội. Họ
tranh cãi
rằng các tổ
chức toàn
cầu – đa
phương như
Ngân hàng
Thế giới
(WB), Tổ
chức Thương
mại Thế giới
(WTO), Cộng
đồng chung
châu Âu
(EU)… chẳng
qua là những
tổ chức do
các cường
quốc sáng
lập, và là
phương tiện
để họ bảo vệ
lấy mình,
thực thi
quyền lực và
ảnh hưởng
lên các nước
đang phát
triển ở vị
trí ngoại
vi.
Các tập đoàn
quốc tế này
đang thao
túng sự cô
lập biên
giới kinh tế
và chính trị
giữa các
quốc gia,
làm mờ nhạt
vai trò của
nhà nước và
chính phủ.
Thật ra, mặc
dù quan điểm
của
các
học
giả này
là bênh vực
các nước
nghèo đến
mức thái quá
trong cuộc
chạy
marathon
không cân
sức này, họ
vẫn đúng khi
cả thế giới
đang ở đỉnh
cao của sự
phân cực. Ví
dụ, theo một
báo cáo của
UNDP (Chương
trình Phát
triển của
Liên Hiệp
Quốc) năm
1997, tỷ lệ
chênh lệch
thu nhập
giữa 20% dân
số thế giới
ở các nước
giàu và 20%
ở các nước
nghèo là
1:30 vào năm
1960, 1:60
năm 1990 và
1:74 vào năm
1997. Vào
năm 1985,
thu nhập
bình quân
tính theo
đầu người ở
các nước
giàu gấp 76
lần so với
các nước
nghèo. Nhưng
đến năm
1997, chỉ số
này tăng lên
288 lần.
Hiện nay 3
tỷ người
trên thế
giới có mức
sống dưới 2
USD/ngày, và
1,3 tỷ người
có thu nhập
dưới 1
USD/ngày.
Một quan
điểm khác về
toàn cầu hóa
mang tính
trung lập.
Họ gồm những
nhóm người
ít quan tâm
đến hiệu ứng
của hiện
tượng này,
và họ xem
tiến trình
này như một
sự phát
triển tất
yếu của lịch
sử nhân loại
và ảnh hưởng
mạnh mẽ đến
cuộc sống
con người.
Một quan
điểm đáng
trân trọng
của những
học giả
thuộc trường
phái này là
họ đang cố
gắng lên
tiếng bênh
vực những
nhóm người
bất lợi về
mặt sinh lý,
địa lý, xã
hội, giáo
dục, tôn
giáo, thu
nhập và dân
tộc.
Đây là những
người
ít có tiếng
nói hay cơ
hội tiếp xúc
với thế giới
hiện đại, và
vì thế họ
không thể
trực tiếp
tham gia vào
tiến trình
này. Nhưng
đồng thời
vẫn có
các tổ chức
và cá nhân
khác cố gắng
bênh vực họ
thông qua
các tổ chức
nhân đạo,
phi chính
phủ, các
diễn đàn thế
giới dành
cho người
nghèo, người
khuyết tật…
Những hoạt
động của các
tổ chức này
đang được sự
đồng tình
của cộng
đồng thế
giới, và họ
dần dần có
tiếng nói
mạnh mẽ trên
trường kinh
tế và chính
trị quốc tế.
Theo quan
điểm này,
toàn cầu hóa
không còn là
một xu thế
phát triển
một chiều từ
các quốc gia
đã phát
triển áp đặt
lên các nước
đang phát
triển nữa.
Thật ra,
tiến trình
này đã có
khuynh hướng
di chuyển đa
chiều giữa
các quốc
gia.
Nói chung,
toàn cầu hóa
được đề cập
nhiều trong
lĩnh vực
kinh tế vì
đây là quá
trình làm
gia tăng mối
quan hệ, tác
động qua lại
và phụ thuộc
lẫn nhau
giữa các
quốc gia. Nó
thường được
xem như là
sự tự do hóa
các hoạt
động kinh tế
và thương
mại quốc tế
với sự điều
hành của
chính phủ
từng quốc
gia và các
tổ chức quốc
tế. Một đặc
điểm nổi bật
của hiện
tượng này là
sự dịch
chuyển (hay
còn
gọi là «dòng
chảy») của
bốn yếu tố:
hàng hóa –
dịch vụ, di
– nhập cư,
khoa học kỹ
thuật và
tiền tệ (ở
dạng đầu tư
trực tiếp
nước ngoài –
FDI) trong
giai đoạn tự
do thương
mại (cho dù
không phải
là tự do
hoàn toàn).
CÁC GIẢ
THUYẾT VỀ
LỊCH SỬ TIẾN
TRÌNH TOÀN
CẦU HÓA
Có rất nhiều
quan điểm
khác nhau về
quá trình
hình thành
và phát
triển của
toàn cầu hóa
dựa trên sự
tiến hóa của
nhân loại từ
thời kỳ du
mục đến nông
nghiệp, công
nghiệp, hậu
công nghiệp
và thời đại
thông tin
ngày nay.
Nhưng nói
chung, tiến
trình này
luôn bị ảnh
hưởng bởi sự
phát triển
của khoa học
kỹ thuật và
sự lớn mạnh
của kinh tế
tư bản chủ
nghĩa đi từ
chủ nghĩa
phong kiến
sang thực
dân và đế
quốc.
Ở từng thời
kỳ khác nhau
thì toàn cầu
hóa đều có
bản chất
khác nhau và
ảnh hưởng
mạnh mẽ đến
cuộc sống
con người.
Sự
phát triển
của khoa học
kỹ thuật,
đặc biệt
trong lĩnh
vực giao
thông, thông
tin và sản
xuất nửa
sau thế kỷ
18 và
đầu thế kỷ
19 đã thật
sự làm thay
đổi đời sống
con người và
thế giới. Ví
dụ như tàu
thủy chạy
bằng hơi
nước được
phát minh
năm 1807, và
tàu thủy
vượt Đại Tây
Dương được
đóng
năm1817.
Ngoài ra,
đầu máy xe
lửa chạy
bằng hơi
nước được
chế tạo ở
Anh năm
1802, và xe
lửa chạy
trên đường
sắt kéo
nhiều toa
với tốc độ
nhanh hơn
trước được
chế tạo năm
1814. Máy
điện tín
được phát
minh ở Nga
và Mỹ vào
giữa thế kỷ
19 giúp nhân
loại tiết
kiệm nhiều
thời gian
trong thông
tin liên
lạc. Trong
lĩnh vực
nông nghiệp,
phân hóa học
lần đầu tiên
được sử dụng
vào thế kỷ
19. Đối với
ngành công
nghiệp tiêu
dùng, phương
pháp sản
xuất nhôm
nhanh và rẻ
được phát
minh vào
cuối thế kỷ
19. Những
phát minh
trong thế kỷ
20 như ti
vi, máy vi
tính, máy
bay, xe hơi,
kỹ thuật lai
tạo trong
công nghệ di
truyền,
v.v... đã
thật sự giúp
nhân loại
thu hẹp lại
khoảng cách
và thời
gian, tạo
điều kiện
cho sự ra
đời của nền
kinh tế tri
thức (với
bốn cột trụ
là công nghệ
sinh học,
công nghệ
ngoài không
gian, công
nghệ thông
tin, và vật
liệu mới) và
kinh tế sáng
tạo (chủ yếu
dựa trên
nghiên cứu
và phát
triển). Biên
giới kinh
tế, văn hóa
và xã hội
của từng
quốc gia
riêng biệt
trở nên mỏng
mảnh, và
nhân loại có
xu hướng
xích lại gần
nhau hơn bao
giờ hết.
Với lý
thuyết về
dịch chuyển
lao động và
sự phát
triển của
thuyết tự do
mới, các
tác giả như
Mittelman
(2000) hay
Giáo sư
Dapice
(2002) cho
rằng toàn
cầu hóa đã
trải qua ba
thời kỳ
chính. Thời
kỳ thứ nhất
xuất hiện
cách đây
khoảng 5.000
năm khi một
số nhóm
người đã bắt
đầu vượt
khỏi biên
giới của bộ
tộc hay lãnh
thổ của mình
để xâm chiếm
dân tộc
khác, hay
chỉ để trao
đổi hàng hóa
và tìm nơi
định cư mới.
Thời kỳ thứ
hai bắt đầu
cùng với sự
ra đời của
chủ nghĩa
thực dân, tư
bản và công
nghiệp hóa
xảy ra cách
đây khoảng
400 năm và
kéo dài đến
thập niên
1970.
Trong suốt
thế kỷ 18,
thế giới đã
chứng kiến
một sự di
dân ồ ạt của
khoảng 10
triệu nô lệ
da đen sang
các nước
thực dân và
các nước
thuộc địa
của Anh và
Pháp đang bị
khai thác do
tình trạng
thiếu lao
động ở các
nước này.
Đầu những
năm thế kỷ
20, hàng
triệu người
đổ xô đến
các «vùng
đất hứa» ở
Mỹ hay Úc để
đào vàng.
Nguyên nhân
chính vẫn là
do sự đói
nghèo, sự đe
dọa về chiến
tranh và hạn
chế về cơ
hội nghề
nghiệp ở các
nước châu
Âu. Đến
những năm
1960, Mỹ bắt
đầu vươn
mình trở
thành siêu
cường quốc
sau Thế
chiến thứ
hai, và thế
giới một lần
nữa chứng
kiến sự di
chuyển ào ạt
lực lượng
lao động có
kỹ năng và
bán kỹ năng
từ các nước
châu Âu sang
Bắc Mỹ, gây
ra chảy máu
chất xám đến
mức Liên Hợp
Quốc phải
lên tiếng
báo động vào
năm 1967.
Trong thời
kỳ thứ ba
xảy ra kể từ
những năm
1970, các
nước tư bản
phải đối phó
với sự sụp
đổ của hệ
thống
Bretton
Woods (được
44 quốc gia
thành lập
vào năm 1944
và chấm dứt
hoạt động
vào tháng 8
năm 1971 do
lạm phát kéo
dài của nền
kinh tế Mỹ
trong suốt
thời kỳ
chiến tranh
tại Việt Nam
kéo theo sự
tuột giá của
đô-la Mỹ),
và sự khủng
hoảng năng
lượng nghiêm
trọng xảy ra
tại châu Âu.
Các nước đã
và đang phát
triển đã
phải áp dụng
các chiến
lược phát
triển kinh
tế mới, tăng
cường ứng
dụng khoa
học kỹ thuật
và tận dụng
đồng vốn đầu
tư từ nước
ngoài và tư
nhân. Những
khái niệm cô
lập các hoạt
động kinh tế
từ thập niên
60 để bảo vệ
nền kinh tế
nội địa ở
các nước
đang phát
triển bắt
đầu bị phê
bình. Các
nhà kinh tế
thuộc trường
phái tự do
mới (với cao
trào xuất
hiện vào
những năm
cuối thập
niên 70) tin
rằng giữa
các quốc
gia, bất kể
là nước giàu
hay nghèo,
đều có chung
những qui
luật phát
triển kinh
tế. Theo
quan điểm
này, chính
phủ các nước
phải giảm
vai trò kiềm
chế cứng
nhắc của
mình trong
các hoạt
động kinh
tế, đồng
thời khuyến
khích tự do
mậu dịch và
áp dụng các
qui tắc về
lợi thế so
sánh. Mặc dù
quan điểm tự
do mới bị
chỉ trích
gay gắt về
tính nhân
văn trong
cạnh tranh
kinh tế bởi
những học
giả hậu cấu
trúc luận,
thời kỳ này
được xem là
giai đoạn
chuyển tiếp
của toàn cầu
hóa sang một
bước phát
triển mới kể
từ sau khi
Liên Xô và
Đông Âu sụp
đổ và thế
giới được
sắp xếp lại
theo một bố
cục mới.
Theo quan
điểm về
sự phát
triển của
chủ nghĩa
thực dân,
một
số nhà lịch
sử cho rằng
hiện tượng
toàn cầu hóa
trải qua ba
thời kỳ với
lần một xảy
ra vào thế
kỷ 16, lần
hai vào thế
kỷ 19, và
lần ba kéo
dài trong
những năm
cuối thế kỷ
20. Cả hai
làn sóng đầu
tiên đều
xuất phát từ
tham vọng
bành trướng
đất đai của
những người
lãnh đạo
châu Âu.
Hiện tượng
này đã dẫn
đến sự ra
đời của chủ
nghĩa thực
dân đầu tiên
ở Bồ Đào Nha
và Tây Ban
Nha, kế tiếp
đến Anh và
Pháp. Sự
kiện lịch sử
quan trọng
nhất giữa
hai giai
đoạn này là
việc thực
dân châu Âu
xâm chiếm
châu Mỹ, Úc
và Phi;
khiến người
Mayas,
Aztecs và
thổ dân
Aborigines ở
Úc mất hết
đất đai và
trở thành nô
lệ cho người
da trắng.
Những nước
kém phát
triển khác
như Việt
Nam, Ấn Độ,
Ma-lay-xi-a,
In-đô-nê-xi-a,
An-giê-ri,
Ma-rốc… trở
thành thuộc
địa của Anh
và Pháp.
Với những
thành quả
của cách
mạng công
nghiệp lần
thứ nhất của
Anh vào nửa
cuối thế kỷ
18, giai cấp
tư bản châu
Âu trở thành
lực lượng
chủ yếu thúc
đẩy tiềm lực
kinh tế
trong xã hội
bên cạnh
việc bần
cùng hóa
giai cấp vô
sản. Sự phân
biệt giàu
nghèo xảy ra
không chỉ
tại các nước
tư bản thực
dân mà còn
tạo nên sự
cách biệt
thu nhập
trên thế
giới. Ví dụ,
vào cuối
những năm
1890 thu
nhập bình
quân của các
nước Tây Âu
cao hơn các
nước Đông Âu
gấp 80%.
Cuối thế kỷ
19, Anh từng
tự hào với
sức mạnh
quân đội của
họ, và cho
rằng «Mặt
trời chưa
bao giờ lặn
ở Anh.»
khi thuộc
địa của họ
trải rộng
khắp nơi
trên địa
cầu.
Vào những
năm 1800,
châu Âu
chiếm được
khoảng 35%
lãnh thổ
trên thế
giới, và con
số này tăng
lên 67% vào
năm 1878 và
85% năm
1914.
Tuy vậy,
thực dân
phương Tây
vẫn luôn đối
mặt với các
sự phản
kháng mãnh
liệt từ các
nước thuộc
địa, gây ra
biết bao
thiệt hại về
con người và
vật chất.
Thật vậy,
trong những
năm 1910
chiến tranh
đã cướp đi
sinh mạng
của 38 triệu
người. Chiến
tranh Thế
giới thứ
nhất không
phải là liều
thuốc giải
quyết chiến
tranh, mà nó
đã tạo nên
một thế giới
bị tàn phá
thảm hại
ngay sau đó.
Đến sau Thế
chiến thứ
II, Mỹ trở
thành cường
quốc số một
trên thế
giới với
tham vọng bá
chủ toàn cầu
đã hình
thành chủ
nghĩa đế
quốc, bành
trướng ảnh
hưởng về
kinh tế và
chính trị
của mình đến
các nước kém
phát triển.
Tuy nhiên,
đến cuối thế
kỷ 20, toàn
cầu hóa
không còn
được xem như
sự xâm chiếm
lãnh thổ
mang tính vũ
trang nữa,
mà nó là sự
hội nhập và
lấn át giữa
các nền kinh
tế, các mâu
thuẫn kinh
tế và chính
trị hầu như
được giải
quyết trong
hòa bình,
ngoại trừ
những nạn
khủng bố của
các nhóm
chính trị
cực đoan. Kể
từ cuối thập
niên 80, có
bốn sự kiện
lớn ảnh
hưởng đến
tiến trình
toàn cầu
hóa:
(1)
sự lớn mạnh
của các công
ty xuyên
quốc gia nhờ
vào sự phát
triển của
khoa học kỹ
thuật, đặc
biệt trong
giao thông,
công nghệ
thông tin và
viễn thông;
ví dụ như
Toyota,
Boeing,
Sony, LG,
v.v...
(2)
sự giảm
thiểu vai
trò điều
hành của
chính phủ
các nước
phương Tây
trong các
hoạt động
kinh tế tài
chính; thay
vì vậy,
chính phủ
tích cực
đóng vai trò
điều hòa và
tạo các điều
kiện thuận
lợi cho các
hoạt động
kinh tế quốc
tế,
(3)
sự sụp đổ
của Liên Xô
và Đông Âu,
và (4)
sự ảnh hưởng
to lớn về
mặt tài
chính lên
lĩnh vực
chính trị ở
các quốc gia
đã phát
triển.
Nếu nói theo
lý thuyết về
sự phát
triển thương
mại quốc tế
và các tổ
chức kinh tế
quốc tế,
các
nhà kinh tế
- sử học
khác cũng
phân chia
quá trình
phát triển
của toàn cầu
hóa dựa trên
bốn giai
đoạn lịch sử
kể từ thế kỷ
14. Giai
đoạn một bắt
đầu từ những
năm 1350 khi
mạng lưới
thương mại,
trao đổi
động vật,
hàng hóa
(gồm vải
vóc, đồ gốm
sứ, hồ tiêu,
quế…) giữa
châu Âu và
Trung Quốc
phát triển
mạnh. Mạng
lưới này kéo
dài từ Pháp
và Ý dọc
theo biển
Địa Trung
Hải đến Ai
Cập, và sau
đó theo
đường bộ
xuyên khắp
Trung Á đến
Trung Quốc.
Thương mại
đường biển
cũng kéo dài
từ biển Đỏ,
qua Ấn Độ
Dương, vòng
qua eo
Malacca đến
bờ biển
Trung Quốc,
và nó phát
triển mạnh
từ những năm
cuối thế kỷ
15 khi châu
Mỹ được tìm
ra một cách
tình cờ
trong quá
trình tìm ra
một con
đường tơ lụa
bằng đường
biển của
thực dân
châu Âu cũ.
Trao đổi
thương mại
giữa các
quốc gia
trong thời
kỳ này được
sự bảo hộ
của quân đội
nhà nước để
tránh việc
cướp bóc. Bù
lại, các
thương nhân
phải trả
thuế mỗi khi
họ vận
chuyển ngang
một vùng
lãnh thổ
mới. Giao
thương trong
thời kỳ này
được xem như
«chuỗi ngọc
trai» khi
từng phần
địa lý kết
nối lại để
tạo nên hệâ
thống kinh
thương quốc
tế.
Giai đoạn
hai bắt đầu
từ năm1500
đến 1700 khi
các nhà cầm
quyền châu
Âu (điển
hình là Bồ
Đào Nha, sau
này liên kết
với Hà Lan,
Pháp và Anh)
xâm chiếm
châu Phi.
Với hệ thống
hải quân
mạnh mẽ họ
có thể bắt
buộc các
thương nhân
trả thuế dọc
tuyến đường
Ấn Độ Dương.
Đến những
năm1700,
trao đổi
hàng hóa
trên thế
giới trở nên
chuyên
nghiệp hơn
khi một số
thương nhân
và chính phủ
châu Âu đã
sáng lập ra
các công ty
thương mại
vận tải biển
đầu tiên để
mua bán sỉ
và lẻ có huê
hồng theo
tuyến Âu –
Á. Thời kỳ
thứ ba bắt
đầu vào cuối
thế kỷ 18 và
đầu thế kỷ
19 khi khoa
học kỹ thuật
với hệ thống
đường sắt và
tàu thủy hơi
nước phát
triển, đã
giúp cho con
người tiến
lại gần nhau
hơn. Nhưng
đồng thời,
châu Âu dần
dần mất vai
trò kiểm
soát châu
Mỹ, đầu tiên
ở phía Bắc,
sau lan rộng
đến miền Nam
nước này.
Với cuộc
cách mạng
giành độc
lập ở Mỹ với
Hiệp ước
Vec-xai năm
1783, các
cuộc phản
kháng ở
Haiti và
Pháp, các
nước thuộc
địa bắt đầu
nhận thức rõ
hơn về quyền
độc lập lãnh
thổ và kinh
tế của họ.
Trong suốt
thời kỳ này,
chính phủ
phải giữ vai
trò điều
hành kinh tế
thông qua
các đạo luật
thương mại.
Từ thời kỳ
Thế chiến
thứ hai
kéo dài đến
giai đoạn
hậu Chiến
tranh lạnh,
các nước tư
bản, và kể
cả các nước
kém phát
triển, mới
bắt đầu bước
lại gần nhau
trong lĩnh
vực hợp tác
kinh tế và
cho ra đời
hàng loạt
các tổ chức
quốc tế và
khu vực.
Một quan
điểm khác
cho rằng
toàn cầu hóa
trải qua ba
thời kỳ. Lần
thứ nhất xảy
ra từ năm
1870 đến
1914 khi có
khoảng 60
triệu người
(chiếm 10%
lực lượng
lao động
trên thế
giới lúc đó)
di cư từ
châu Âu đến
Mỹ để tìm
vàng, hay để
tìm cuộc
sống tốt hơn
ở vùng đất
mới được
khám phá
này. Sự di
cư này càng
kích thích
sự phát
triển của
giao thông
và thông
tin, khiến
cho hàng
hóa, sức lao
động và tiền
bạc được di
chuyển giữa
các quốc
gia. Làn
sóng thứ hai
xảy ra từ
năm 1950 đến
1980 khi Thế
chiến thứ II
kết thúc, và
kinh tế –
chính trị
thế giới
được phân
chia thành
hai cực: tư
bản và xã
hội chủ
nghĩa. Bộ ba
Mỹ, Tây Âu
và Nhật đã
liên kết
chặt chẽ để
đẩy mạnh
kinh tế tư
bản lên một
tầm mới
thông qua
các tổ chức
quốc tế và
các vòng đàm
phán thương
mại như GATT
(Hiệp định
chung về
Thuế quan và
Mậu dịch, và
vòng đàm
phán Uruguay
của GATT kéo
dài trong 8
năm từ 1986
đến 1994 đã
dẫn đến hiệp
ước thành
lập Tổ chức
Thương mại
Thế giới -
WTO) hay IMF
(Quỹ Tiền tệ
Quốc tế).
Bên cạnh đó,
trong thời
kỳ từ những
năm 1950 đến
1960, các
tập đoàn
công nghiệp
lớn trên thế
giới cũng
bắt đầu mở
rộng phạm vi
hoạt động
của họ vào
các nước
đang phát
triển không
thuộc khối
xã hội chủ
nghĩa, đặc
biệt ở các
nước Mỹ
La-tinh. Kể
từ sau những
năm 1980
được xem là
thời kỳ thứ
ba của toàn
cầu hóa khi
các quốc gia
đã bắt đầu
ký kết các
hiệp định
song và đa
phương về
mặt kinh tế
thông qua sự
điều hành
của các tổ
chức quốc
tế, mà điển
hình là WTO.
Nhìn chung
trong thời
kỳ này các
công ty đa
quốc gia dần
dần có ảnh
hưởng mạnh
đến vai trò
điều hành
của các
chính phủ.
Toàn
cầu hóa đã
thu hút
nhiều sự
quan tâm đặc
biệt kể từ
thời kỳ
hậu Chiến
tranh lạnh
(sau 1989)
khi các nước
tiến lại gần
nhau hơn về
mặt hợp tác
kinh tế. Một
mặt, vì lo
ngại rằng
mình có thể
bị tụt hậu
trong cuộc
đua marathon
này, chính
phủ các nước
nhanh chóng
tận dụng
khoa học
công nghệ,
mở cửa nền
kinh tế,
tăng cường
thương mại
và đầu tư.
Mặt khác,
các quốc gia
cũng phải
đối mặt với
các tệ nạn
như di –
nhập cư bất
hợp pháp, cá
cược – bài
bạc, tin
tặc, mua bán
ma túy,
khủng bố,
mãi dâm hay
rửa tiền.
Một điều gây
đau đầu các
nhà lãnh đạo
là những tệ
nạn này,
trực tiếp
hay gián
tiếp, đều
đóng góp vào
GDP của họ
và tạo nên
một nền
«kinh tế tội
phạm». Theo
một báo cáo
của UNDP năm
1999, chỉ số
an toàn của
nhân loại đã
có chiều
hướng giảm
xuống trong
các lĩnh vực
cá nhân, sức
khỏe, môi
trường và
chính trị.
Chẳng hạn
gần đây trên
thếâ giới có
khoảng 200
triệu người
sử dụng chất
ma túy, nửa
triệu phụ nữ
và các em
gái ở các
nước đang
phát triển
bị bán sang
các nước Tây
Âu. Các cơn
bão El Nino
và La Nina
do sự tăng
nhiệt độ của
địa cầu đã
khiến 22.000
người chết,
118 triệu
người bị
thương, gây
thiệt hại 33
tỷ đô-la.
Nhân loại
bắt đầu quan
tâm về những
vấn đề của
từng quốc
gia có thể
ảnh hưởng
trên phạm vi
toàn cầu và
luôn tìm ra
những giải
pháp và
chiến lược
phát triển
mang tính
bền vững.
Toàn cầu hóa
đã thật sự
làm thay đổi
mọi mặt
trong đời
sống con
người.
Thật ra, kể
từ những năm
1980 kinh tế
thế giới đã
bắt đầu bước
vào ngưỡng
cửa chung
toàn cầu.
Giai đoạn
này đã chứng
kiến sự lớn
mạnh của vận
tải hàng
không,
công-ten-nơ
hóa, thông
tin liên
lạc, công
nghệ sinh
học và
Internet.
Theo Tiến sĩ
Vũ Thành Tự
Anh, những
thành tựu
khoa học này
đã giúp cho
thế giới thu
hẹp lại rất
nhiều bằng
«tốc độ cao,
khoảng cách
nhỏ, mật độ
cao và cường
độ lớn». Tận
dụng sự
chêch lệch
của múi giờ
và khả năng
vận tải siêu
tốc của máy
bay, thương
nhân có thể
họp ở
Singapore
vào sáng nay
và dự một
cuộc họp báo
tại Thành
phố Hồ Chí
Minh vào
buổi chiều
cùng ngày.
Thông tin dự
báo về thiên
tai có thể
được phát đi
khẩn cấp
trước một
tuần, và các
nước hay
lãnh thổ lân
cận cũng
được cảnh
báo nhờ vào
các thiết bị
vệ tinh.
Thông qua
mạng truyền
thông báo
chí, những
vấn đề hay
nhân vật
trên thế
giới mà
trước đây
chúng ta
chưa hề biết
đến nay lại
trở thành
tiêu điểm
thảo luận
hàng ngày
như việc bầu
cử ở Mỹ, đại
dịch SARS
hay cuộc
thánh chiến
của Bin
Laden. Dường
như thế giới
chúng ta
xích lại gần
nhau hơn về
kinh tế khi
lịch sử cho
thấy rằng sự
co cụm kinh
tế sẽ dẫn
đến sự sụp
đổ tất yếu
về chính trị
xã hội. Mở
cửa kinh tế
và thị
trường hóa
các hoạt
động kinh tế
đã giúp cho
nhiều quốc
gia ví dụ
như Trung
Quốc, Ấn Độ
và cả Việt
Nam thoát
khỏi quỹ đạo
nghèo đói và
lạc hậu của
mình để vươn
mình vào thị
trường quốc
tế. Một
trong những
yếu tố dẫn
đến sự nhảy
vọt về kinh
tế và nâng
cao chuẩn
mực sống của
các nước là
khả năng
truy cập, sử
dụng thông
tin và kiến
thức nhanh
và hữu hiệu
nhất. Kiến
thức ảnh
hưởng trực
tiếp đến sự
phát triển
kinh tế và
thịnh vượng
chung của
một quốc
gia, và điều
này đã tạo
ra cuộc cách
mạng công
nghiệp –
thông tin
lần thứ ba
trên phạm vi
toàn cầu.
Kinh tế tri
thức chiếm
khoảng 45 –
50% GDP ở
các nước Bắc
Mỹ và Tây
Âu, khoảng
hơn 50% ở
các nước
OECD (Tổ
chức Hợp tác
và Phát
triển Kinh
tế). Với bốn
ngành chủ
đạo của nền
kinh tế tri
thức gồm
công nghệ
sinh học,
công nghệ
thông tin,
công nghệ
ngoài không
gian và kỹ
thuật vật
liệu mới, đã
phá vỡ những
rào cản kiến
thức, giúp
nhân loại
tiến lên một
tầm văn minh
mới, cùng
nghiên cứu
và sản sinh
ra kiến thức
mới hơn.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại,
có nhiều giả
thuyết khác
nhau về lịch
sử của toàn
cầu hóa,
nhưng nói
chung tiến
trình này
gắn chặt với
sự tiến hóa
lịch sử
của nhân
loại, mà
trong đó
thương mại
quốc tế gia
tăng với sự
dịch chuyển
của hàng hóa
- dịch vụ,
con người, ý
tưởng - phát
minh - kiến
thức, và
tiền tệ theo
hướng tiêu
cực lẫn tích
cực. Ngoài
ra, tiến
trình này
còn làm giảm
sút vai trò
điều hành
của các
chính phủ
trong các
hoạt động
kinh tế bên
cạnh sự gia
tăng ảnh
hưởng của
các tổ chức
và tập đoàn
quốc tế với
các chuẩn
mực quốc tế
được thành
lập và áp
dụng (ví dụ
như ISO).
Bởi vì toàn
cầu hóa luôn
bao gồm tính
hai mặt như
tính quốc tế
- quốc gia,
toàn cầu -
địa phương,
truyền thống
- ngoại lai,
hay tích cực
- tiêu cực;
sự thâm nhập
những sản
phẩm văn hóa
nước ngoài
dẫn đến sự
ra đời của
chủ nghĩa đa
văn hóa,
đồng hóa
và lai căng
là điều
không thể
tránh khỏi
đang xảy ra
ở nhiều
nước. Tiến
trình này
cũng làm
phân cực
giàu - nghèo
và phân tầng
xã hội càng
trở nên phổ
biến hơn.
Để kết thúc
bài viết,
tôi xin được
trích dẫn ý
kiến của
Tiến sĩ Vũ
Thành Tự Anh
khi nói về
toàn cầu hóa
như một vấn
đề «thời
tiết» không
thể tránh
khỏi. Chúng
ta phải dự
báo nó đúng
lúc, chính
xác và am
hiểu qui
luật vận
động của
tiến trình
này để có
thể tận dụng
thời cơ hay
tìm ra các
biện pháp
thích hợp để
phòng ngừa
các ảnh
hưởng xấu.
NGUYỄN HỒNG
CHÍ
(24
/ 07 / 2006)
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Albrow, M.,
& King, E.
(1990).
Globalization,
knowledge
and society.
London:
Sage.
Bourdieu,
P., &
Wacquant, L.
(2000). La
nouvelle
vulgate
planetaire.
Le Monde
Diplomatique.
May 1st,
2000.
Burbules, N.
C., &
Torres, C.
A. (2000).
Globalisation
and
education:
An
Introduction.
In N. C.
Burbules, &
C. A. Torres
(Eds.),
Globalisation
and
education:
Critical
perspectives
(pp. 1-26).
New York:
Routledge.
Castells, M.
(1999).
Flows,
networks,
and
identities:
A critical
theory of
the
informational
society. In
M. Castells,
R. Flecha,
P. Freire,
H. A.
Giroux, D.
Macedo, & P.
Willis
(Eds.),
Critical
education in
the new
information
age.
Lanham,
Oxford:
Rowman &
Littlefield
Publishers,
Inc.
Christie,
P., & Sidhu,
R. (2002).
Responding
to
globalization:
Refugees and
the
challenges
facing
Australian
schools.
Mots
Pluriels, 21,
May.
Dapice, D.
(2002).
Globalization:
History,
current
outlook, and
implications
for Vietnam.
Fulbright
Economics
Teaching
Program in
Vietnam.
Available:
Dirlik, A.
(1996). The
global in
the local.
In R.
Wilson, & W.
Dissanayake
(Eds.),
Global/local:
Cultural
production
and the
transformational
imaginary.
Durham: Duke
University.
Do, D. D.
(2003).
Nhung co so
ly thuyet,
thuc tien va
xu huong
dieu chinh
chinh sach
kinh te doi
ngoai o mot
so nuoc chau
A trong boi
canh toan
cau hoa va
tu do hoa
(Theoretical
and
practical
bases and
tendencies
to regulate
foreign
economic
policies in
some Asian
countries in
the contexts
of
globalization
and
liberalization).
Hanoi: The
Gioi
Publishing
House.
Giddens, A.
(1990).
The
consequences
of modernity.
Stanford,
California:
Stanford
University
Press.
Head, K.
(1997).
Mechanisms.
Available:
http://pacific.commerce.ubc.ca/keith/Lectures/mne2.html
Luke, A, &
Luke, C.
(2000). A
situated
perspective
on cultural
clobalisation.
In N. C.
Burbules, &
C. A. Torres
(Eds.),
Globalisation
and
education:
Critical
perspectives
(pp.275-297).
New York:
Routledge.
Marginson,
S. (1993).
Education
and public
policy in
Australia.
Cambridge:
Cambridge
University
Press.
Mason, R.
(1998).
Globalizing
education:
Trends and
applications.
London, New
York:
Routledge.
McGrew, A.
G. (1992).
Modernity
and its
future.
Cambridge:
Polity
Press.
Mittelman,
J. (2000).
The
globalization
syndrome:
Transformation
and
resistance.
Princeton,
NJ:
Princeton
University
Press.
Mok, J. K.
H., & Lee,
M. H. H.
(2003).
Globalization
or
glocalization?
Higher
education
reforms in
Singapore.
Asia
Pacific
Journal of
Education,
23 (1),
15-42.
Ohmae, K.
(1990). The
borderless
world.
Power and
strategy in
the
interlinked
economy.
New York:
Harper
Business.
Phan, N. L.
et
al.(2003).
Lịch sử 8.
Ho Chi Minh
City: Nhà
Xuất bản
Giáo dục.
Reich, R.
(1991).
The works of
nations.
London:
Simon and
Schuster.
Robertson,
R. (1992).
Globalization
as a
problem.
Globalization:
Social
theory and
global
culture.
London:
Sage.
Stiglitz, J.
(1998).
Towards a
new paradigm
for
development:
Strategies,
policies,
and
processes.
Geneva:
UNCTAD.
Tabb, W. K.
(1999).
Progressive
globalism:
Challenging
the audacity
of capital.
Monthly
Review, 50
(9), 1-10.
Tai lieu boi
duong kien
thuc co ban
ve hoi nhap
kinh te quoc
te. (2004).
Ha Noi: Bo
Thuong mai.
Tomlinson,
J. (1999).
Globalization
and culture.
Cambridge:
Polity.
UNDP Human
Development
Reports.
(1999). New
York.
Vu, T. H.
(2000).
Influences
of
globalization
on
developing
countries
and the
integration
of Vietnam
(Anh huong
cua toan cau
hoa doi voi
cac nuoc
cham tien va
tien trinh
hoi nhap cua
Vietnam).
Vietnam
Prospect
(Vien tuong
Vietnam).
Available:
Vu, T. T. A.
(2006).
Tan man toan
cau hoa.
Fulbright
Economics
Teaching
Program in
Vietnam.
Available:
Waters, M.
(2001).
Globalization
(2nd
ed.).
London:
Routledge.
Wikipedia,
The Free
Encyclopedia.
Available:
Yeung, H. W.
(2001).Questioning
the uneven
terrains of
economic
globalization.
Paper
presented at
the
Conference
on
"Geographies
of Global
Economic
Change" at
the Graduate
School of
Geography,
Clark
University,
USA, 12-14
October.
Yeung, H. W.
(2003). The
limits to
globalization
theory: A
geographic
perspective
on global
economic
change.
Economic
Geography,
78 (3),
1-21. |