Rượu Trung Quốc xuất hiện cách
nay khoảng 7.000 năm, từ thời Thần Nông, ông vua huyền sử dạy dân nghề
nông và trồng thảo dược, vì việc trồng ngũ cốc dần dần đưa đến việc
nấu rượu. Theo một thuyết khác, kỹ thuật nấu rượu bắt đầu từ đời Hạ
(2100 TCN — khoảng 1600 TCN). Các tửu khí (vật dùng đựng và uống rượu)
mà các nhà khảo cổ khai quật được cho thấy từ xa xưa, rượu sớm được
dùng trong cúng tế.
●
Người Trung Quốc phân biệt:

— Bạch tửu
白 酒
(rượu trắng) chế
tạo bằng cách chưng cất, độ cồn trên 30%, thường được hâm nóng trước
khi uống nên còn gọi là thiêu tửu
燒
酒.
Bạch tửu không tốt cho sức khỏe bằng hoàng tửu.
— Hoàng tửu
黄
酒
(rượu vàng) chế tạo bằng cách lên
men, có độ cồn dưới 20%, có thể chưng cất thành bạch tửu. Các tỉnh
Chiết Giang, Phúc Kiến, Sơn Đông, Thiệu Hưng rất nổi tiếng về hoàng
tửu.
Ngũ cốc làm rượu không giống nhau: miền Nam dùng gạo nếp; miền Bắc
dùng lúa mì, đại mạch, cao lương hoặc hỗn hợp ngũ cốc. Ngoài ra, còn
dùng nho (bồ đào), lê, cam, trái vải, sơn tra, mía v.v... Nước rất
quan trọng vì nó góp phần vào sự lên men. Men rượu gọi là
khúc bính
麴
餅 hay
tửu dược 酒
药
. Hương vị riêng của rượu còn tùy
thuộc độ pH của nước. Người ta dùng thêm một số thảo dược để tạo màu
và hương vị đặc trưng. Loại rượu thảo dược có thể dùng làm gia vị nấu
ăn.
Nổi tiếng nhất Trung Quốc là rượu Mao Đài (tỉnh Quý Châu), được tôn là
quốc tửu
國
酒.
Ngoài ra, còn có thể kể đến rượu Phần và rượu Trúc Diệp Thanh (tỉnh
Sơn Tây); rượu Ngũ Lương Dịch, rượu Kiếm Nam Xuân, rượu Đại Khúc, rượu
Đặc Khúc, rượu Lô Châu Lão Diếu (tỉnh Tứ Xuyên); rượu Cổ Tỉnh (tỉnh An
Huy); rượu Dương Hà Đại Khúc (tỉnh Giang Tô); rượu Đồng (tỉnh Quý
Châu); rượu Mỹ Vị Tư (tỉnh Sơn Đông); rượu nho đỏ Bắc Kinh, rượu nho
trắng Sa Thành (tỉnh Hà Bắc); rượu nho trắng Dân Quyền (tỉnh Hà Nam);
rượu nếp Thiệu Hưng (tỉnh Chiết Giang) v.v... Người Trung Quốc còn chế
loại rượu thuốc hay rượu bổ như rượu nhân sâm, rượu cao hổ cốt, rượu
lộc nhung, rượu rắn, rượu tráng dương bổ thận v.v... Các thầy thuốc
thường pha dược liệu vào rượu vì rượu dẫn thuốc rất tốt.
Người Trung Quốc thích uống rượu vào các dịp quan trọng: ngày Tết
Nguyên đán, ngày Tết Trùng dương (hay Trùng cửu, tức ngày mồng 9 tháng
9 Âm lịch), ngày thôi nôi và đầy tháng của trẻ, cưới hỏi, thi đậu,
thăng quan tiến chức, mừng thọ, sinh nhật, chia tay đưa tiễn... Ở miền
Nam, khi sinh con gái, cha mẹ cô bé nấu rượu, cho vào bình, chôn xuống
đất. Lúc con gái lấy chồng, bình rượu được đào lên làm quà mừng cô
dâu.
Khi mời rượu, chủ nhân phải rót đầy tràn ly vì rót vơi sẽ bị cho là
không tôn trọng khách. Phải mời bậc trưởng thượng uống trước. Người
mời rượu nên đứng dậy, hai tay nâng ly. Khi cụng ly, người nhỏ tuổi
(hay người có địa vị thấp hơn) phải để ly thấp hơn miệng ly người kia
một chút.
Khi nâng ly thì mời mọc đẩy đưa, chúc tụng qua lại, nào là «Chúc ngài
phúc như Đông hải, thọ tỷ Nam sơn», hay «tửu phùng tri kỷ thiên bôi
thiểu» 酒 逢 知 己 千
杯 少 (uống rượu gặp tri kỷ,
ngàn ly cũng là ít),...
Lúc uống thì phải làm một hơi cạn ly. Không uống được thì phải nhờ
người khác uống thay để giữ thể diện. Tửu lượng kém thì nên nói trước
để mọi người thông cảm, bằng không, đến lượt uống mà từ chối thì sẽ bị
trách là xem thường mọi người.
●
Người Trung Quốc nói về rượu
— Rượu có thể ích lợi cho
người mà cũng có thể gây hại cho người. (Tửu năng ích nhân diệc năng
tổn nhân. 酒 能 益 人
亦 能 損 人).
— Trà khiến người ta sảng khoái, rượu khiến người ta mờ mịt. (Trà lịnh
nhân thanh, tửu lịnh nhân hôn
茶 令 人 清 酒 令 人 昏).
— Tào Tháo (155—220) nói: «Để giải ưu sầu chỉ có Đỗ Khang.» (Hà dĩ
giải ưu, duy hữu Đỗ Khang. 何 以 解 憂 唯 有
杜
康
). Tào Tháo ám chỉ rượu là Đỗ Khang
杜
康
(Đỗ Khang thường được xem là ông
tổ nghề rượu).
— Dùng rượu để tiêu sầu gọi là «phá thành sầu»
破 城 愁.
Nhưng chắc gì rượu làm tan lòng sầu? Lý Bạch
李 白
(701—762) than: «Rút đao chém nước, nước vẫn trôi; lấy rượu tưới sầu,
sầu càng sầu.» (Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu; tương tửu kiêu sầu,
sầu cánh sầu. 抽 刀
断 水 水 更 流 , 將 酒 澆 愁 愁 更 愁
). (Dị bản: Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu; cử bôi tiêu sầu, sầu
cánh sầu. 抽
刀 断 水 水 更 流 , 举 杯 销 愁 愁 更 愁 =
Rút đao chém nước, nước vẫn trôi;
nâng chén tiêu sầu, sầu càng sầu).
●
Tửu khí của Trung Quốc cổ đại
Tửu khí (vật
dùng đựng rượu và uống rượu) của Trung Quốc cổ đại chủ yếu được dùng
trong cúng tế.
Các
tửu khí có hình dáng và tên gọi khác nhau: (1)
tước 爵 , (2) giác 角 ,
(3) cô 觚 , (4) chí 觶 , (5) hồ 壺 , (6) bôi 杯 , (7) giả 斝 , (8) tôn 尊 ,
(9) dữu 卣 , (10) di 彝 , (11) quang 觥 , (12) lôi 罍 , (13) bẫu
瓿
, (14) hoà
盉
.
Ảnh minh hoạ một
số tửu khí bằng đồng xanh:














LÊ ANH MINH
Một phần
của bài này đã đăng Xuân SGGP Thứ Bảy năm Đinh Hợi
http://www.sggp.org.vn/XuanThuBay/2007/2/84919/