TỪ VỤ ÁN ALFRED DREYFUS
ĐẾN PHIÊN XỬ EMILE ZOLA
(1894-1908)
*
DO
THÁI Ư?
CÓ
TỘI!
1894
Trong bối cảnh
chiến tranh lạnh giữa hai nước Pháp - Đức vào cuối thế kỷ 19, bà Marie
Bastian* nhân viên quét dọn Đại Sứ Quán Đức tại Paris được giao phó
nhiệm vụ nhặt tất cả mọi giấy tờ trong sọt rác sứ quán, và giấu thay vì
đốt tức khắc tại chỗ, để sau đó giao lại cho thiếu tá tình báo
Hubert-Joseph Henry* tại nhà thờ Sainte Clotilde. Trong đợt thu nhặt
tháng 9 năm 1894, có bản kê một số tài liệu quốc phòng mật về pháo binh
mà tác giả của nó đề nghị bán cho đại tá tùy viên quân sự Đức Maximilien
Von Schwartzkoppen (từ đây gọi tắt là «bản kê» = «bordereau»). Vì
tài liệu này xác nhận có sự phản bội ở mức cao cấp ngay tại Bộ Tham Mưu
Pháp, nó được gửi gấp cho Sở Thống Kê (thực chất là Sở Tình Báo Quân
Đội) do đại tá Jean Sandherr chỉ huy để điều tra. Kẻ bị tình nghi tức
thì là Alfred Dreyfus*, một sĩ quan gốc Do Thái, vì đã từng tập sự trong
ngành pháo binh, và chữ viết lại hao hao giống. Bức thư được lần lượt
giao cho 5 chuyên gia tuồng chữ giám định: trong khi 2 người đầu (Alfred
Gobert, Eugène Pelletier) không dám xác nhận, 3 người kia (Alphonse
Bertillon, Etienne Charavay, Pierre Teysonnières) quả quyết đấy chính là
tuồng chữ của nghi can. Dreyfus bị gọi lên Bộ Chiến Tranh cho thiếu tá
Armand Du Patay de Clam* thẩm vấn, rồi quẳng vào ngục Cherche-Midi ngay
ngày 15 tháng 10 năm đó, tư gia bị lục soát để tìm thêm tang chứng tưởng
tượng.
Từ nhiều tháng trước, giới báo chí bài
Do Thái đã phát động phong trào chống việc lưu giữ sĩ quan Do Thái trong
quân đội Pháp. Dưới sự tổ chức của thiếu tá Henry, tin tức nay bắt đầu
được tiết lộ trên các nhật báo. Ngày 29-10, tờ Tiếng Tự Do (La
Libre Parole) loan tin đồn một sĩ quan làm gián điệp cho Đức bị bắt ngay
tại Bộ Tham Mưu; ngày 31, Tia Chớp (L’Eclair) xác nhận tin trên,
trong khi Tổ Quốc (La Patrie) cho biết thủ phạm là người Do Thái,
và tờ Buổi Chiều (Le Soir) đưa ra tên Alfred Dreyfus. Trở lại
phát giác trên ngày 1-11, Tiếng Tự Do của Edouard Drumont* bắt
đầu chiến dịch gây áp lực bằng một báo động vịt
«Chuyện gián điệp này rồi sẽ bị ém nhẹm cho coi, vì tên
sĩ quan đó là người Do
Thái. Toàn thể cộng đồng Do Thái đã chuyển mình»,
rồi từ đấy tờ báo này không ngừng gây áp lực đòi quân đội đem Dreyfus ra
xét xử.
Ngày 2-11, sau khi trình bày sự việc
trước nội các Charles Dupuy trong buổi họp Hội Đồng Chính Phủ, bộ trưởng
Bộ Chiến Tranh Auguste Mercier* chuyển hồ sơ xuống đại tướng tổng đốc
Paris Félix Gustave Saussier. Ngày 7-11, việc lập hồ sơ dự thẩm được
giao cho thiếu tá Bexon d’Ormescheville. Ngày 17-11, tướng Mercier hứa
trên tờ Nhật Báo (Le Journal) là cuộc điều tra «sẽ chấm dứt
trước 10 ngày». Ngày 4-12, tướng Saussier triệu tập toà án chiến
tranh để xử Alfred Dreyfus, mặc dù hồ sơ dự thẩm chỉ vỏn vẹn có «bản kê»
với tuồng chữ mà ngay cả các chuyên gia cũng không nhất trí là của nghi
can.
Vì quyết tâm, khả năng và ngay cả sự
trong sạch của chính bộ trưởng Bộ Chiến Tranh cũng bị giới báo chí bài
Do Thái nghi ngờ, để trấn an dư luận và tự vệ, Mercier tuyên bố trên tờ
Le Figaro ngày 28-11 rằng tội phản bội của Dreyfus là
«tuyệt đối, chắc chắn». Ký giả Arthur Meyer bình luận trên nhật báo
Người Xứ Gaule (Le Gaulois, bảo hoàng) ngày hôm
sau: «Ngay cả để bảo vệ danh dự mình, một sĩ quan không thể in ra một
dòng chữ nếu bộ trưởng Bộ Chiến Tranh không cho phép. Thế mà ở đây đại
tướng Mercier đã đăng hay để đăng một bài phỏng vấn dài về đại úy
Dreyfus; nặng hơn cả một cáo trạng, đây đã là lời kết tội thực sự, một
bản án tử hình. Chúng tôi chúc mừng tờ Le Figaro đã may mắn tìm được một
bài phỏng vấn quan trọng cỡ này, nhưng chúng tôi không khen ngợi đại
tướng Mercier. Nếu ngài bộ trưởng Bộ Chiến Tranh đã kết án đại úy
Dreyfus như thế, thì liệu cái tòa án chiến tranh sắp được triệu tập để
xét xử nghi can sẽ còn được bao nhiêu tự do?»
.
Luật sư Edgar Demange* không vận động được để phiên xử có
thể diễn ra công khai, Alfred Dreyfus bị xử kín ngay tại ngục thất ngày
19-12, và đến ngày 22-12 thì bị kết án đày chung thân ở Đảo Ác Quỷ (Ile
du Diable) tại Guyane, dựa trên «xác quyết» của Henry, lý
thuyết kỳ quái của Bertillon (2 tuồng chữ không trùng hợp hoàn toàn vì
Dreyfus đã cố ý... giả chữ viết của mình) và nhất là nhờ một thủ đoạn
bất hợp pháp. Trước phiên họp biểu quyết, 7 sĩ quan trong hội thẩm đoàn
đã được bộ trưởng Bộ Chiến Tranh Auguste Mercier cung cấp một hồ sơ mật
về Dreyfus mà cả Dreyfus lẫn luật sư Demange đều không hay biết (trái
với thủ tục trong quân pháp là bên bị phải nhận được hồ sơ buộc tội này
ít nhất 3 ngày trước phiên xử để có thể nghiên cứu và phản biện), trong
đó có một tài liệu khống về sau bị phát hiện là do chính Henry đặt vào,
với câu ám chỉ quyết định: «Kèm theo đây là
12 bản đồ mà
tên D. vô lại đưa tôi nhờ chuyển cho ông»
của tùy viên quân sự Ý Alessandro Panizzardi trong một bức thư gửi đồng
nghiệp Đức Von Schwartzkoppen.
Nói chung, báo giới đều thỏa mãn với
bản án. Tờ Thời Báongày24-12 viết: «công
lý chẳng những đã được thực thi, mà thực thi một cách tốt đẹp»
.Một
sớm một chiều trở thành người hùng, đại tướng bộ trưởng Mercier thừa
thắng xông lên, đòi Quốc Hội tái lập án tử hình
đối với những trọng tội như tội phản quốc, tạo cơ hội cho
lãnh tụ cánh tả Jean Jaurès* chỉ trích sự phân
biệt đối xử giữa sĩ quan với lính trơn trong quân đội: «Thống chế
Bazaine*, bị xác quyết là phạm tội phản quốc, tuy đã lãnh án tử
hình, song không bị xử bắn. Đại úy Dreyfus, bị toà xử nhất trí về tội
phản bội, đã không bị kết án tử hình. Và, trước những bản án loại này,
cả nước chứng kiến là người ta đã bắn bỏ, không tha thứ, không thương
hại, những người lính trơn chỉ mắc mỗi tội là đã có một phút lầm lạc hay
bạo hành... Nếu người ta không xử bắn [Dreyfus], đấy là vì
người ta đã không muốn, trong khi luật pháp cho phép»
.
Cuộc tranh luận tiếp theo căng đến nỗi, rốt cuộc, ông dân biểu Jaurès và
ngài bộ trưởng Bộ Nội Vụ Louis Barthou hẹn gặp nhau ngay hôm sau ở một
trận quyết đấu
trong rừng. Vì đấy là ngày Giáng Sinh, nhờ lòng bác ái vô lượng của
Chúa, cả hai ông đều bắn trật địch thủ, và hân hoan về nhà không thương
tích.
1895
Ngày 5-1-1895, đại úy Dreyfus bị hạ
nhục trong sân Trường Võ Bị, trước một đám đông khán giả hớn hở, cuồng
nộ, khi người ta lột lon, bẻ kiếm của đương sự: «Treo cổ bọn Do
Thái!»... «Tên phản bội chết tiệt!»... «Xử giảo hết bọn Judas!»...
Léon Daudet* đã tả lại cảnh tượng ấy như sau: «Tuy nhiên, hắn vẫn
tiến tới giữa hai người lính, cái xác chết với những bước chân diễu binh
vô hồn, nhìn thì mảnh khảnh mà to lớn
vì nhục nhã, như thể sự căm thù đã chiếm lĩnh thể xác hắn và chế ngự
được cả cơn lốc cảm xúc quay cuồng bên trong... Đến gần chỗ chúng tôi,
hắn còn thu đủ nghị lực để hô lên «Vô tội», giọng hấp tấp trắng bệch.
Bây giờ thì hắn đến trước tôi rồi, trong khoảnh khoắc băng ngang, mắt
khô quánh, cái nhìn mất hút trong quá khứ, chắc thế, vì tương lai đã
chết tốt với danh dự. Không còn tuổi. Không còn tên. Không còn cả sắc
da. Tuyền một màu phản bội. Mặt nhợt nhạt, nhẵn thín, đê tiện, không
chút ân hận, nhất định phải là mặt ngoại tộc thôi, thân tàn ma dại của
một biệt khu [Do Thái] nào đó. Vẫn còn một cái nhìn chòng
chọc gan lì xua đuổi mọi tình cảm trắc ẩn. Đấy là lần cuối cùng hắn còn
sánh bước bên cạnh con người, và hắn tỏ ra tự chủ, sẵn sàng đương đầu
với sự ô nhục đến mức giống như là hắn đã tận dụng được thời cơ đó»
.
Maurice Barrès cũng kể với giọng tương tự: «Khi
hắn tiến về phía chúng tôi, mũ kê-pi sụp tới trán, cặp kính không càng
kẹp trên sống mũi sắc tộc, mắt giận dữ và khô quánh, mặt câng câng thách
thức, hắn hô lên, phải nói thế nào nhỉ? hắn hạ lệnh «Hãy nói với cả nước
Pháp rằng tôi vô tội» bằng một giọng không thể chấp nhận nổi. Hàng loạt
nào «Judas! », nào «Đồ phản quốc!», ào ra tới tấp. Không biết từ mãnh
lực của định mệnh mà hắn mang trong người hay do bạo lực của những ý
tưởng mà tên họ hắn đã kết hợp lại, kẻ khốn nạn tạo ra ở tất cả khán giả
hàng tràng chửi ác cảm. Bộ mặt ngoại tộc, sự trơ trơ cứng nhắc, tất cả
cái không khí toát ra ở hắn khiến ngay cả người tự chủ nhất cũng phải
thấy ứa gan»
.Thật
ra, thái độ ngoan cố hay ngoan cường của sĩ quan Do Thái này có thể được
giải thích đơn giản hơn, nếu người xem đọc được một câu trong thư an ủi
chồng của Lucie Dreyfus: «Anh hứa sẽ can đảm,
và anh đã giữ lời, em cám ơn anh. Phẩm cách của anh, phong thái đẹp đẽ
của anh đã chinh phục được quả tim của nhiều người»
.
Sự thật là phẩm cách cùng lời kêu oan không ngừng của cựu
đại úy Alfred Dreyfus đã gây hoang mang cho không ít khán giả. Có thể
nào ông ta bị xử oan thực chăng? Còn thiếu một bằng chứng tuyệt đối để
chiến thắng được trọn vẹn: sự thú nhận của chính nghi can. Các báo bài
Do Thái thi nhau đăng lại lời tâm sự và thú nhận... tưởng tượng của
Dreyfus với đại úy Charles Lebrun-Renault, sĩ quan có trách nhiệm canh
giữ ông. Tất cả đều bị ký giả Eugène Clisson của tờ Le Figaro
chứng minh sau đó là láo khoét, trừ một chi tiết: tài liệu buộc tội
Dreyfus đã xuất phát từ Đại Sứ Quán Đức chứ không phải từ Bộ Tham Mưu.
Nguy tai, Đại Sứ Quán Đức là một ổ gián điệp?! Georg Munster-Ledenburg,
đại sứ Đức, tức thì đòi yết kiến tổng thống Pháp để phản đối. Trong cuộc
gặp gỡ đêm 15-1-1895, Jean Casimir-Perier xác nhận nguồn gốc của «bản
kê», nhưng cho rằng một sứ quán không thể bị xem là phải chịu trách
nhiệm về loại thư từ không chờ đợi mà vẫn nhận được. Hai bên đi đến thỏa
thuận rằng một thông cáo báo chí theo hướng đó là đủ để tránh khủng
hoảng ngoại giao, trong khi ngài bộ trưởng Bộ Chiến Tranh Pháp Auguste
Mercier vẫn cố trình bày cuộc gặp gỡ trên cho bất cứ ai muốn nghe như
một đêm «lịch sử», «bi đát», vì chiến tranh chỉ tránh được trong
đường tơ kẽ tóc!
Ngày 15-1-1895, tổng thống Casimir-Perier từ chức,
chán ngán vai trò tượng trưng trong một nội các mà ông không kiểm soát
nổi (ông chỉ được báo cáo về hồ sơ mật một ngày trước khi gặp đại sứ
Đức!), và một Quốc Hội mà ông tùy thuộc. Auguste Mercier ra tranh cử với
lời kêu gọi: «Quốc Hội phải bầu cho người đã lôi tên phản bội Dreyfus
ra trước tòa án chiến tranh», nhưng chỉ được có 3 phiếu. Dân biểu
Félix Faure* được bầu làm tổng thống Cộng Hoà Pháp ngày 17-1-1895
.
Tối hôm đó, kẻ vô tội Alfred Dreyfus lên thuyền để đi đến nơi sẽ là mồ
chôn sống cuộc đời mình, trong sự im lặng đồng lõa của cả nước Pháp. Một
sĩ quan Do Thái đã phản bội, hắn đã đền tội, chẳng ai thấy có gì để nói
nữa. Ngay cả Georges Clemenceau*, người sau này sẽ tích cực bênh vực
Dreyfus, lúc đó còn đánh giá ông trên tờ Công Lý (La Justice):
«Như vậy là hắn chẳng có thân nhân, vợ con, không có tình cảm đối với
một cái gì cả, không có một liên hệ nào với người hay gia súc, chẳng có
gì khác hơn ngoài một tâm hồn bẩn thỉu, một trái tim ti tiện»
.
Trừ vợ ông, Lucie Dreyfus, vẫn không ngừng kêu oan trong sa mạc, và anh
của ông, Mathieu Dreyfus, vẫn tiếp tục tìm cách «quậy», với sự trợ giúp
của một ký giả Do Thái trẻ có khuynh hướng vô chính phủ là
Bernard-Lazare*. Bộ ba bị dư luận gọi mỉa mai bằng một cái tên đầy khinh
thị: «nghiệp đoàn Do Thái».
1896
Đầu tháng 7-1895, trung tá Georges Picquart* lên làm
giám đốc Sở Tình Báo thay Sandherr về hưu. Và đầu tháng 3-1896, sở này
chận bắt được thiếp điện đoạn tuyệt («le petit bleu» = «mảnh giấy
xanh», điện tín chưa gửi) của Von Schwartzkoppen gửi cho thiếu tá
Ferdinand Walsin Esterházy*. Picquart quyết định điều tra về viên thiếu
tá nổi tiếng ăn chơi đàng điếm với hành tung bất hảo trên, và mau chóng
khám phá ra rằng tuồng chữ trong bản kê các tài liệu mật đề nghị bán cho
địch chính là của sĩ quan gốc Hungari này. Kinh hoảng, Picquart thông
báo cho các đại tướng Tham Mưu Trưởng Charles Le Mouton de Boisdeffre
(5-8-1896) và Tham Mưu Phó Charles-Arthur Gonse (3-9-1896). «Tên Do
Thái đó phải nằm lại ở Đảo Ác Quỷ thì việc gì đến anh?», Gonse hỏi.
- « Nhưng mà, thưa đại tướng, hắn vô tội» - «Hồ sơ này không mở lại
được nữa, có dính líu tới đại tướng Mercier và đại tướng Saussier» -
«Nhưng mà vì hắn vô tội...» - «Nếu anh kín miệng thì sẽ chẳng
ai biết» - «Điều ngài nói thật là kinh tởm, thưa đại tướng. Tôi
chưa biết sẽ phải làm gì, dù sao, tôi sẽ không mang bí mật này xuống mồ»
,Picquart
liều lĩnh đáp.
Cũng ngày 3-9, báo chí đăng lại một
tin của tờ Tin Hàng Ngày (DailyChronicle)bên Anh, theo đó Alfred
Dreyfus đã hoặc đang chuẩn bị vượt ngục, với sự hỗ trợ tài chính và ngay
cả nhân sự của cộng đồng Do Thái Hoa Kỳ. Thật ra, đây chỉ là một tin vịt
do chính Mathieu Dreyfus tung ra, để vụ án không rơi vào quên lãng. Trên
Đảo Ác Quỷ, tù nhân Dreyfus bỗng dưng được chiếu cố đặc biệt chặt chẽ:
chòi ở bị dựng thêm vách ván chung quanh, chân bị cùm và xích vào
giường. Tuy nhiên, mánh lới trên cũng tạo được hậu quả bất ngờ: thấy
động, phe chống Dreyfus làm một sai lầm. Ngày 14-9-1896, để vĩnh viễn
khoá miệng «nghiệp đoàn Do Thái» và cô lập nó với phần dư luận còn hoang
mang, tờ Tia Chớp lần đầu tiên nói đến cái hồ sơ mật đã khiến
Alfred Dreyfus bị kết án, nghĩ rằng làm như thế là mang lại bằng chứng
không thể chối cãi về tội trạng của Dreyfus, quên mất rằng nó cũng đồng
thời là bằng cớ không thể chối cãi về sự vi phạm thủ tục xét xử.
Ngày 16-9, Lucie Dreyfus dựa vào sự
thú nhận rằng phiên tòa đã sử dụng một thủ tục bất hợp pháp để kiến nghị
lên Quốc Hội xin xử lại. Ngày 6-11, ký giả Bernard-Lazare cho xuất bản
tập sách mỏng tựa là Một ngộ phán pháp lý: sự thật về vụ án
Dreyfus (Une erreur judiciaire : la vérité sur l’affaire
Dreyfus) tại Bruxelles để tránh bị tịch thu, và sau đó tìm cách
thuyết phục một số nhân sĩ nổi tiếng công chính (như thượng nghị sĩ
Auguste Scheurer-Kestner*, nhà văn Emile Zola*) nhưng không thành công.
Báo chí xôn xao; trong một phiên họp Quốc Hội, dân biểu André Castelin
yêu cầu chính phủ Pháp truy tố Bernard-Lazare, nhưng biết rằng cách tốt
nhất để phi tang không phải là quậy dư luận ồn lên mà là nhận chìm
xuồng, nội các Jules Méline khoanh tay
bất động.
Mặt khác, cấp trên của Picquart quyết
định đẩy sĩ quan «có vấn đề» này khỏi Paris: một quân lệnh ký ngày 27-10
gửi ông đi thanh tra vùng biên giới phía Đông. Đồng thời, Henry lại làm
giả một cuộc trao đổi thư khác giữa hai tùy viên quân sự Ý - Đức vào
cuối tháng 10, trong đó chữ D. trước kia viết tắt nay được khai triển
trọn vẹn thành Dreyfus. Trong văn kiện sau gọi là «thư khống Henry» («le
faux Henry») này, Von Schwartzkoppen đã than phiền về lòng tham của
Dreyfus: «Rõ ràng là tên Dreyfus chó má này bây giờ đòi hỏi nhiều
quá», trong khi Panizzardi dặn dò: «Tôi đọc thấy rằng một dân
biểu sắp chất vấn về Dreyfus. Nếu ở Rome người ta đòi thêm giải thích
mới, tôi sẽ nói là chưa bao giờ có quan hệ gì với tên Do Thái này. Đồng
ý như thế nhé. Nếu người ta hỏi ông, cứ nói như vậy» .
Ngày 10-11, tờ Buổi Sáng (Le
Matin) in lại bản sao bức thư nhặt được trong Đại Sứ Quán Đức, do chuyên
viên nhận tuồng chữ Teysonnières bán lại. Mathieu Dreyfus từ nay có thể
phóng to tài liệu này bên cạnh chữ viết thật của Alfred Dreyfus, và phổ
biến rộng rãi để mọi người có thể so sánh. Dư luận ngày càng phân vân,
tập sách mỏng của Lazare được nhà xuất bản Stock nhận tái bản ngay tại
Pháp. Ngày 26-12, từ vùng biên giới phía Đông, Picquart bị thuyên chuyển
sang phục vụ ở Tunisie.
Như vậy, mặc dù lúc ấy đã biết Dreyfus vô tội và ngay cả
tông tích thủ phạm đích thực, Bộ Tham Mưu quân đội vẫn quyết định giữ im
lặng hầu bảo vệ hai huyền thoại: «danh dự tổ quốc» (người Pháp
không bao giờ phản quốc!) và «thanh danh của quân đội» (quân đội
không bao giờ sai lầm)! Tuy nhiên, để phòng ngừa bất trắc, một mặt,
Esterházy đã bị rút khỏi mọi sinh hoạt quân sự từ ngày 17-8, vì «bệnh
tật tạm thời» («infirmités temporaires»); mặt khác,
Hubert-Joseph Henry được thăng chức trung tá và bổ nhiệm chỉ huy trưởng
Sở Tình Báo thay Georges Picquart vào tháng 1-1897.
1897
Vào tháng 5-1897, thái độ xấc láo của Henry khiến
Picquart lo ngại mình có thể là nạn nhân của một bộ máy ám hại. Về nghỉ
phép tại Paris vào cuối tháng 6-1897, sĩ quan này quyết định kể hết
những khám phá của ông cho luật sư Louis Leblois nghe, và tuy yêu cầu
ông ta kín miệng, vẫn thận trọng ủy thác cho bạn nhiệm vụ bảo vệ mình
trước pháp luật. Ngày 13-07, Leblois thông báo cho Phó Chủ Tịch Thượng
Viện Auguste Scheurer-Kestner những tiết lộ của Picquart, kể cả yêu cầu
kín miệng. Nhân vật cao cấp của chính phủ này quyết định vận động giải
oan cho Alfred Dreyfus mà không gây thêm khủng hoảng trong quân đội.
Một biến cố văn hoá bên lề, tuy sau
này đóng vai trò quyết định trong cuộc tranh chấp: ngày 19-10, số đầu
tiên của nhật báo Bình Minh (L’Aurore, khuynh hướng cộng hoà xã
hội) ra đời, với một ban biên tập trong đó có Georges Clemenceau, Urbain
Gohier, và Bernard-Lazare. Ernest Vaughan, người sáng lập tờ báo, chịu
thu nhận Lazare, lúc ấy còn đang vận động ngược xuôi để minh oan cho
Dreyfus và do đó bị các nhật báo khác tẩy chay, với một điều kiện: không
được dùng diễn đàn của ông trong cuộc tranh chấp pháp lý.
Scheurer-Kestner lần lượt xin gặp tổng
thống Felix Faure (29-10) và bộ trưởng Bộ Chiến Tranh Jean-Baptiste
Billot (30-10). Vị nguyên thủ quốc gia hứa sẽ giữ thái độ trung lập
thiện cảm, còn ngài bộ trưởng thì hứa sẽ mở ra một cuộc điều tra trong
vòng 15 ngày. Sự thực là Billot đã hạ lệnh gửi Picquart ra vùng biên
giới loạn lạc giữa Tunisie và Libye từ ngày 10-10, và trong một phiên
họp tại Bộ Chiến Tranh ngày 16-10, bộ ba tướng tá Gonse, Henry và Du
Patay đã lấy quyết định, vừa thông báo cho Esterházy bằng thư nặc danh
về những nguy hiểm đang chờ đợi y, vừa bảo đảm cho y hậu thuẫn của Bộ
Tham Mưu với điều kiện phải tuyệt đối vâng lời qua hai cuộc gặp gỡ mật
(23 rồi 27-10). Mặt khác, cũng trong ngày 30-10, Henry cùng với Du Patay
lại làm ra những điện tín giả để cáo buộc chính Picquart mới là tác giả
thực sự của bức thiếp điện do Von Schwarzkoppen gửi cho Esterházy. Cuối
cùng, giới báo chí hữu khuynh (Thánh Giá, Tổ Quốc, Tia Chớp,
Người Xứ Gaule, Tiếng Tự Do, Không Nhân Nhượng...),
bắt đầu úp mở, xa gần tấn công Auguste Scheurer-Kestner, trình bày ông
như «kẻ khờ khạo bị bọn vô lại lừa bịp»
Một bất ngờ khác. Ngày 12-11, tập sách
mỏng Một ngộ phán pháp lý: sự thật về vụ án Dreyfus được
tái bản và bày bán ở Paris. Một kẻ làm môi giới trong hậu trường chứng
khoán tên là Jacques de Castro nhận ra tuồng chữ của Esterházy trên
phóng ảnh «bản kê» trong sách, do đã từng nhận được nhiều thư của «khách
hàng quen thuộc» này. Ông ta báo ngay cho gia đình Dreyfus. Mathieu đến
gặp Scheurer-Kestner nhằm thuyết phục nhân vật này về tông tích thủ
phạm, nhưng khi vừa mở miệng: «Kẻ phản bội tên là Esterházy», đã
được trả lời «Đúng, chính hắn». Hai bộ phận nổi và chìm của cuộc
vận động vì sự thật và công lý từ nay được nối kết. Sau hai buổi họp tại
tư gia Scheurer-Kestner (ngày 12 và 13-11, lần thứ nhì có sự tham dự của
nhà văn Emile Zola), ngày 16-11, tờ Thời Báo đăng một bức thư ngỏ
của Scheurer-Kestner, trong đó ông xác nhận rằng Dreyfushoàn toàn vô
tội, tuy không nêu tên thủ phạm đích thực, đồng thời các báo buổi sáng
cũng công bố thư của Mathieu Dreyfus gửi bộ trưởng Bộ Chiến Tranh Billot
tố cáo đích danh Esterházy là tác giả của «bản kê».
1898
TRÍ THỨC Ư?
VÀO TÙ!
1899
1990-1908
Ngày 4-1-1900, sau 8 tuần lễ hỏi cung, Thượng Viện họp
dưới hình thức Tòa Án Tối Cao (Haute Cour) khép Paul Déroulède, André
Buffet (trốn sang Bỉ), Eugène de Lur-Saluces (trốn sang Bỉ) vào tội mưu
loạn và kết án 6 năm lưu đày. Riêng Jules Guérin bị 10 năm tù ở, vì
những vi phạm phụ thuộc liên hệ.
Ngày 28-1, trong cuộc bầu cử thị trưởng, phe «quốc gia»
chiến thắng tại Paris,
Ngày 1-3, dự luật tổng ân xá được trình tại Thượng Viện.
Sau nhiều tháng tranh luận, văn kiện trên được thông qua tại Hạ Viện
ngày 18-12, tại Thượng Viện ngày 24-12-1990. Tích cực chống lại dự luật
này, Emile Zola đã phản đối trong «Thư Gửi Thượng Viện»,
đăng lại trên tờ Bình Minh ngày 29-5: «Đây không phải là thứ
luật để bác quyền nữa, mà là để bóp nghẹt công quyền. Trước kia quý vị
chỉ thay đổi người xử, nay người ta mời quý vị tuyên bố rằng không cần
tới thẩm phán nữa. Sau khi đã nhận công tác bỉ ổi là giả mạo công lý,
nay người ta lại giao cho quý vị nhiệm vụ tuyên cáo rằng công lý
đã phá sản ... Người ta hoàn tất việc bôi bẩn [chúng tôi],
xử [chúng tôi] đâu lưng ngang hàng với kẻ cướp, bằng một
biện pháp khốn nạn, nhưng lại muốn che giấu cái trò bất công và
hèn nhát phổ quát đó dưới màu sắc của lòng ái quốc cao thượng ...
Thật dễ đoán quý vị sẽ bỏ phiếu ra sao, bởi vì nó chỉ là kết quả của sự
hèn yếu, sự bất lực dai dẵng của quý vị. Quý vị tưởng tượng không thể
nào làm khác hơn, bởi vì quý vị không có can đảm làm gì khác. Tôi viết
bức thư này đơn thuần để có cái vinh dự to tát đã thảo nó ra. Tôi đã làm
nghĩa vụ của mình, tôi không tin rằng quý vị đã làm bổn phận quý vị.
Luật bác quyền đã là một tội ác pháp lý, luật ân xá sẽ là một sự phản
bội quyền công dân, sự bỏ rơi nền cộng hòa vào tay những kẻ thù nguy hại
nhất của nó. Cứ bỏ phiếu thuận đi, chẳng bao lâu nữa quý vị sẽ bị trừng
phạt, và sau này nó sẽ là điều ô nhục của quý vị».
Mặt khác, «Thư gửi Ô. Loubet» trên cùng vấn
đề này cũng được công bố ngày 22-12 trên Bình Minh: «Thật là
một quan niệm thiển cận, cái ý nghĩ rằng người ta có thể cứu nguy một
dân tộc khỏi cái ác đang gặm nhấm nó bằng sự tuyên phán rằng cái ác đó
không còn tồn tại. Luật ân xá đã được công bố, sẽ không còn vụ kiện nào
nữa, sẽ không ai có thể truy tố kẻ phạm tội được
nữa: tình huống này không ngăn cản Dreyfus vô
tội đã bị kết án hai lần, và khi nào bản án đó chưa được tu sửa, sự bất
công ghê gớm này sẽ tiếp tục làm cả nước Pháp mê sảng trong những
cơn ác mộng kinh hoàng» [...] Ông bạn Labori thân thiết và
vĩ đại của tôi đã diễn tả với tài hùng biện tuyệt vời của ông: luật ân
xá là điều luật của sự hèn yếu, bất lực. Như thể được tích tụ bởi sự đê
hèn của nhiều chính phủ kế tiếp, điều luật này hình thành từ thói nhu
nhược của những kẻ, khi bị đặt trước một sự bất công ghê tởm, đã tự cảm
thấy không có đủ nghị lực để hoặc ngăn cản, hoặc sửa đổi nó. Trước bắt
buộc phải đánh ở cấp cao, tất cả đã còng lưng, chùn bước. Cuối cùng,
trước bao tội ác, điều người ta manglại qua luật ân xá này không phải là
sự lãng quên hay tha thứ, mà là sự kinh sợ, sự bạc nhược, sự bất lực của
các bộ trưởng trước bổn phận đơn giản là áp dụng luật lệ hiện hành»
... «Đây là một hành động xấu xa nhất định sẽ bị trừng trị, bởi vì nó
không chỉ gây thương tổn cho lương tri, mà còn làm bại hoại nền đạo lý
quốc gia»
.
Ngày
27-4 đến 11-5-1902, khối tả chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội. Ngày
7-6 sau đó, nội các Emile Combès ra đời, với tướng Louis André ở Bộ
Chiến Tranh và Ernest Vallé ở Bộ Tư Pháp. Ngày 6 và 7-4-2003, Jean
Jaurès cố thuyết phục Hạ Viện xét lại phán quyết của Tòa Án Chiến Tranh
ở Rennes, và sau hai phiên họp náo động, chỉ đạt được một nửa kết quả
mong muốn: bộ trưởng Bộ Chiến Tranh nhận mở lại một cuộc điều tra mới
dưới «danh nghĩa cá nhân». Sau 6 tháng thực hiện nghiêm túc, ngày
19-10 báo cáo của Louis André được trình cho thủ tướng chính phủ, rồi
ngày 25-11 chuyển sang Bộ Tư Pháp để nghiên cứu và thi hành.
Ngày 29-9-1902, Emile Zola từ trần tại nhà riêng, chết
ngộp vì thán khí toát ra từ lò sưởi, bên cạnh người vợ tên Alexandrine
cũng bất động nhưng thoát chết. Cuộc điều tra đương thời kết luận là do
tai nạn, tuy nhiên giả thuyết bị ám hại ngày càng được nhiều người tin
hơn. Theo tài liệu gần đây nhất
:
một nhân vật tên là Henri Buronfosse, lúc đó làm nghề chữa lò sưởi đồng
thời là thành viên của tổ chức Liên Minh Những Người Yêu Nước, đã
bịt ống khói lò sưởi phòng ngủ nhà ông và khai thông sớm ngày hôm sau để
phi tang; hắn chưa bao giờ bị bắt và chỉ thú nhận tội ác trước khi chết
với một người bạn tên là Pierre Hacquin. Ngày 5-10-1902, trong đám táng
Emile Zola tại nghĩa trang Montmartre, Anatole France đọc lời ai điếu
bất hủ: kẻ vừa nằm xuống «là một thời điểm của ý thức làm người» (xem
bài I).
Ngày 26-11-1903, Alfred Dreyfus viết thư cho bộ trưởng Bộ
Tư Pháp xin xét lại phán quyết của Tòa Án Quân Sự ở Rennes. Ngày
5-3-1904, Phòng Hình Sự Tòa Phá Án chấp nhận đơn kháng cáo, và mở thêm
một cuộc điều tra nữa dài hơn 8 tháng. Ngày 12-7-1906, Tòa Phá Án hủy bỏ
phán quyết ngày 9-9-1899 mà không gửi trả cho toà án gốc xử lại,
«nói rằng bản án đã được tuyên phán một cách lầm lẫn
và sai trái» .
Ngày hôm sau, Hạ Viện thông qua biểu quyết phục chức Dreyfus với cấp tá,
và Picquart với cấp
tướng. Giới báo
chí bài Do Thái vẫn phản ứng dữ dội, nhưng không gây nổi xáo trộn nào.
Ngày 21-7, Dreyfus được gắn Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng, và
ngày 5-8-1907 được về nghỉ hưu theo yêu cầu của ông.
Ngày 25-10-1906, Georges Clémenceau được bổ nhiệm thủ
tướng chính phủ; ông chọn Georges Picquart làm bộ trưởng Bộ Chiến Tranh.
Trước đó, Ngày 13-7-1906, Thượng Viện đã làm lễ truy điệu «sự can đảm
trong công vụ của hai thành viên quá
cố được thương tiếc nhất: Scheurer-Kestner và Ludovic Trarieux»,
đồng thời thông qua nghị quyết «đặt tượng bán
thân của hai công dân vĩ đại trong tủ kính dọc hành lang trước phòng
họp»
.
Ngày 11-2-1908, một pho tượng Scheurer-Kestner cũng được khánh thành
trước cửa Palais de Luxembourg.
Ngày 4-6-1908, trong buổi lễ chuyển
hài cốt Emile Zola vào điện Panthéon
,
nơi «tổ quốc ghi ơn các vĩ nhân» của nước Pháp, tổ chức cực hữu
Hành Động Vì Nước Pháp tổ chức biểu tình phản đối. Một ký giả tên
là Louis Grégori bắn Alfred Dreyfus, nhưng chỉ gây thương tích ở tay. Bị
truy tố, Grégori tuyên bố «tôi không bắn Dreyfus mà bắn vào chủ nghĩa
Dreyfus», đồng thời nhận định «phiên xử tôi phải là dịp xét lại
cái phán quyết xét lại trước». Ra Tòa Đại Hình Paris, luật sư của y
kêu gọi hội thẩm đoàn: «Tha bổng bị can, quý vị
sẽ đền đáp cái tình cảm hào hiệp, cái động cơ duy nhất đã thúc đẩy đương
sự hành động, đồng thời quý vị sẽ nói với mọi người rằng sự hòa dịu chỉ
có thể đạt được bằng cái giá của sự tương nhượng, nhưng cũng có loại
nhượng bộ không thể làm, đấy là những nhượng bộ liên quan đến tổ quốc,
đến quốc kỳ. Và sự nhượng bộ chỉ có thể được thực hiện với điều kiện là
phe chiến thắng không đè bẹp bên chiến bại. Nếu mai này Gregori không
được tha bổng, nhiều người khác sẽ có lý do để hành động tiếp như y, và
cuộc nội chiến sẽ tiếp diễn trên khắp miền đất nuớc»
.
Louis Gregori được tha bổng ngày 11-9-1908.
Ngày 26-9-1918, Alfred Dreyfus được
gắn lon trung tá (sau khi trở lại quân đội phục vụ trong cuộc Thế Chiến
I), và mất ngày 11-7-1935. Ông được chôn tại nghĩa trang Montmartre đúng
vào ngày 14-7, và đúng vào lúc Victor Basch, vị chủ tịch thứ tư của
Liên Minh Bảo Vệ Nhân Quyền và Quyền Công Dânnói về lịch sử
tổ chức này trong một nghị hội vì Hòa Bình và Tự Do: khi nhắc đến tên
Dreyfus, không hẹn mà tất cả mọi người cùng đứng dậy mặc niệm trong một
sự im lặng ấn tượng. Jean Guéhenno kể lại:
«Đấy, điều mà quần chúng, «đám đông» có thể tự động làm là thế đấy. Mắt
rưng rưng, không ai trong chúng tôi lại không cảm thấy như thể, trong
khoảnh khắc đó, có sự trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ sau điều gì
tựa như một truyền thống công lý»
.
THƯ MỤC
Boudet, Jacques. Les Mots de l’histoire:
dictionnaire. Paris: Larousse, 1998.
Bredin, Jean-Denis. Présentation. Trong:
Zola, Emile. L’Affaire Dreyfus :la vérité en marche.
Paris: Impr. nationale, 1992. Tr. 7-30
Brunetière, Ferdinand. Après le procès.
Revue des Deux Mondes, 15-3-1898 & Brunetière, Ferdinand.
Après le procès. Paris: Perrin & Cie, 1898.
Charle, Christophe. Naissance des «intellectuels»:
1880-1900. Paris: Les Editions de Minuit, 1990.
DITL (Dictionnaire International des Termes Littéraires,
http://www.ditl.info)
Drouin, Michel.
Dir.L’Affaire Dreyfus.
Dictionnaire sous la dir. de Michel Drouin.Paris:
Flammarion, 2006.
Durkheim, Emile.
L’Individualisme et les intellectuels
(1898). Trong:
Durkheim, Emile. La Science sociale
et l’action. Paris: PUF, 1987.
Gervereau, Laurent. Dir.L’affaire Dreyfus et le
tournant du siècle (1894-1910). Sous la dir. de Laurent
Gervereau et Christophe Prochasson.
Paris: BDIC, 1994.
Johnston, William
M.
The Origin of the Term ‘Intellectual’ in French Novels
and Essays of the 1890’s.
Journal of European Studies, 4, 1974, tr. 43-56.
Julliard, Jacques. Dir.Dictionnaire
des intellectuels français.
Sous la dir.
de Jacques Julliard et Michel Winock1 1 1 . Paris : Ed. du Seuil, 1996.
Tr.
390
Kant, Immanuel.
Réponse à
la question: qu'est-ce-que les Lumières?
Trong: La Philosophie de l'histoire (Opuscules),
Paris: Denoel-Gonthier, 1972.
Leymarie, Michel. Dir. L’Histoire des intellectuels
aujourd’hui. Sous la dir. de Michel Leymarie, Jean-François
Sirinelli. Paris : PUF, 2003.
Ory, Pascal & Sirinelli, Jean-François. Les
Intellectuels en France: de l’affaire Dreyfus à nos jours.
Paris: A. Colin, 1986.
Sirinelli, Jean-François. Intellectuels et passions
françaises. Paris: Fayard, 1990.
Winock1, Michel. Ed. L’Affaire Dreyfus.Présentation
par Michel Winock1 1 1 . Paris: Ed. du Seuil, 1998.
Winock2, Michel. Le Siècle des
intellectuels. Paris: Ed. du Seuil, 1997.